- Melvin R.Laird, cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ dưới thời Nixon, sau mấy chục năm im lặng mới lên tiếng gần đây. Ông nói rằng chiến tranh Việt Nam không thể kết luận là một sự sai lầm, theo ông Hoa Kỳ đã chuốc lấy thất bại và bỏ lỡ nhiều cơ hội chiến thắng. Mục tiêu cuộc chiến tranh Việt Nam hồi ấy là để ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản tại Á Châu. Cựu Bộ Trưởng Laird chỉ trích Hoa Kỳ năm 1975 đã bỏ rơi đồng minh Việt Nam, ông nói rằng điều xấu hổ không phải là Hoa kỳ có mặt từ lúc đầu mà là sự phản bội vào giờ phút chót, Quốc Hội Hoa kỳ đã ngoảnh mặt làm ngơ trước những lời cam kết với Việt Nam của chính phủ Nixon trước đó.
Cựu Bộ Trưởng nói rằng Tổng Thống Ford, Bộ Trưởng Ngoại Giao
Kissingger, Bộ Trưởng Quốc Phòng Schlesinger phải chia sẻ nỗi nhục này,
cũng theo ông Quốc Hội là thủ phạm chính trong sự bỏ rơi Đồng Minh qua
một số quyết định như:
1- Chấm dứt can thiệp quân sự (8/1973).
2- Cấm can thiệp trở lại Việt Nam.
3- Cấm trả đũa nếu Hiệp Định Paris bị vi phạm.
4- Giảm quân viện từ 1 tỷ 4 xuống còn 700 triệu vào năm 1974.
5- Từ chối yêu cầu của Tổng Thống Ford xin viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam đầu tháng 4/75. .
Cũng theo Laird, Tổng Thống Ford đã bác bỏ thuyết Domino đã có từ
7/4/1954 dưới thời Tổng Thống Eisenhower cho rằng hễ mất một nước sẽ mất
luôn nhiều quốc gia khác mà người mình thường nói nôm na môi hở thì
răng lạnh.
Vào ngày 10/3/2006 vừa qua hằng trăm chuyên viên, chính trị gia nghiên
cứu về sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã tề tựu tham gia cuộc hội
thảo tại thư viện Kennedy thành phố Boston, họ thảo luận đề tài “Chiến
tranh Việt Nam và các Tổng Thống Hoa kỳ”. Các chuyên viên cho rằng đó là
một cuộc chiến đầy những tai hoạ. Bà Giám Đốc thư viện nói các vị Tổng
Thống Hoa kỳ đã dìm nước Mỹ ngày càng lún sâu vào cuộc chiến tranh Việt
Nam, họ tin rằng điều mình đang làm là phải nhưng đó chỉ là một sự liều
lĩnh, theo bà một sử gia nói nó chỉ là một sự tính toán sai lầm về chính
sách trong lịch sử đối ngoại của Hoa Kỳ. Một diễn giả sử gia trong buổi
hội thảo nói có một vài cuộc chiến tranh là chính đáng, theo ông cuộc
chiến tranh Việt Nam không chính đáng.
Trên đây là hai ý kiến trái ngược nhau, một bên đại diện là cựu Bộ
Trưởng Laird cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam không thể coi là một sự
sai lầm và ngược lại những người tham dự buổi hội thảo tại Boston cho
rằng cuộc chiến tranh Việt Nam là sai lầm. Cuộc chiến tranh ấy đã khiến
Hoa kỳ phải chi tới mấy trăm tỷ đô la, 58,000 quân nhân thiệt mạng, đất
nước bị xáo trộn về chính trị cũng như kinh tế… chưa kể đất nước phải
mang tiếng nhục bại trận. Theo chúng tôi biết thì tâm lý chung con người
thường ích kỷ, họ chỉ nghĩ đến những cái “mất” và không để ý tới những
cái “được”. Tất cả những sự mất mát đó chỉ là cái giá mà họ phải trả để
được bắt tay Mao xếnh xáng ngày 21/2/1972, muốn bắt tay xếnh xáng đâu có
phải chuyện dễ. Điều mà chính phủ Hoa Kỳ mong ước bao lâu nay đã thành
sự thật, họ đã chiêu hồi được Trung Quốc, đảng cướp hung tợn này không
còn là mối đe doạ tài sản tính mạng của Hoa Kỳ nữa, nhưng sự chiêu hồi
ấy phải trả một giá hơi cao.
Theo chúng tôi nghĩ các ngài chuyên viên, chính trị gia ấy chắc cũng
phải thừa biết như vậy và sự giả vờ ngây thơ của họ cho thấy họ không
thẳng thắn nhìn nhận sự thật. Chúng tôi nghĩ các vị Tổng thống Hoa Kỳ
chắc hẳn không sai lầm chút nào khi dính líu vào cuộc chiến tranh Việt
Nam vì các ngài là những nhà chính trị gia lỗi lạc, những bậc thầy chính
trị của thế giới chẳng lẽ lại sai lầm như vậy sao? Người ta kêu ca
những sự thiệt hại cuộc chiến tranh ấy đã gây ra cho đất nước họ, thế
còn đất nước nạn nhân đã là bãi chiến trường của bom đạn, binh đao khói
lửa thì sao? Người Mỹ nói rằng số bom ném tại Việt Nam gấp 3 lần số bom
ném tại Âu châu trong suốt thời Đệ Nhị Thế Chiến, họ chỉ chú ý tới số
tiền chi phí khổng lồ về số lượng bom đã ném xuống nhưng lại không để ý
tới những nhân mạng, tài sản do những trái bom ấy gây nên.
Từ Thế Chiến Thứ Hai đến nay ai cũng biết chỉ có thân phận mấy anh nhược
tiểu là chịu thiệt thòi, làm món hàng cho các cường quốc mua qua bán
lại, còn các siêu cường thì mấy khi chịu thiệt. Nay nhiều người cho rằng
cuộc chiến Iraq là một sự sai lầm, nhưng nếu nhìn vào con số thống kê
thì thấy Iraq là nước cung cấp dầu cho Hoa Kỳ nhiều nhất (29%), thứ nhì
là Ecuator (19%)… các nước khác ít lắm chỉ năm, bẩy phần trăm thôi. Nhìn
vào cái “sự thật phũ phàng” ấy thì không thể kết luận là chiến tranh
Iraq sai lầm!
Sự thật không phải Mỹ can thiệp vào Đông Dương từ những năm 1964, 65 mà
thật ra từ tháng 10/1950 khi Trung Cộng chuyển vũ khí ồ ạt giúp Việt
Minh, người Mỹ đã vội viện trợ quân sự cho Pháp 300 triệu đô la, hàng
không mẫu hạm Mỹ đã chở tới Sài Gòn 40 máy bay Hellcat cho Pháp. Chính
phủ và Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được thành lập từ đó và đã được người
Mỹ trả lương. Năm 1950 Viện trợ quân sự của Mỹ cho Pháp mới chỉ là 17%
nhưng mấy năm sau tăng lên tới 74%. Năm 1949 Mỹ đã tàn nhẫn bỏ rơi Quốc
Dân Đảng Trung Hoa, Mao thừa cơ nuốt trọn nước Tầu và thành lập Trung
Hoa Nhân Dân Cộng Hoà Quốc khiến cho cán cân lực lượng trên thế giới
lệch hẳn đi.
Ngay khi vừa chiếm xong toàn cõi lục địa, Mao vội giúp đỡ và xúi dục Bắc
Triều Tiên xâm lăng miền Nam năm 1950 khiến cho Mỹ phải hốt hoảng lấy
danh nghĩa Liên Hiệp Quốc để nhẩy vào ngăn chặn và đã phải dùng biển lửa
để chống lại chiến thuật biển người của Lâm Bưu. Mỹ bắt đầu ghê sợ
Trung Cộng từ đấy, một khối 500 triệu người hung hãn, đói khát, hiếu
chiến… lại căm thù Hoa Kỳ và Tây phương ra mặt. Chiếm được toàn cõi
Trung Hoa, Mao thừa nhận Hồ, rồi Hồ thừa nhận Mao và được viện trợ vũ
khí đạn dược ồ ạt từ đất Tầu chuyển sang, ấy cũng là lúc Hoa Kỳ thấy
nguy cơ cộng sản đang lan tràn xuống Đông Nam Á theo kiểu tầm ăn dâu và
cương quyết ngăn chận đến cùng.
Năm 1954 Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ phải ký hiệp Định Genève chia
đôi đất nước Việt Nam. Năm 1955 Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam để
biến nơi đây thành tiến đồn chống cộng của Thế Giới Tự Do. Mỹ viện trợ
quân sự cho miền Nam, huấn luyện cho binh lính miền Nam kỹ thuật tác
chiến để ngăn ngừa hiểm hoạ cộng sản từ phương bắc có thể tràn xuống bất
cứ lúc nào. Đầu thập niên 60 Trung cộng cho nổ trái bom nguyên tử đầu
tiên, lật đổ được Kruschev khiến cho vai trò của Trung cộng ngày càng
quan trọng, nó đã làm thành cái thế chân vạc trên thế giới hồi ấy. Một
thời gian ngắn sau, với đà tiến bộ khá nhanh, Trung cộng chế tạo được
bom khinh khí, rồi chế được hoả tiễn khi ấy Hoa Kỳ lại càng hoảng sợ hơn
bao giờ hết, đối với họ, Trung cộng còn nguy hiểm và đáng sợ hơn Nga sô
rất nhiều vì nó là một khối người đông như kiến, đói rách, tàn ác, hiếu
chiến… chỉ tính chuyện xua quân đi ăn cướp mà tâm lý anh nhà giầu lại
hay sợ kẻ cướp.
Mặc dù Trung cộng ngày càng chống đối Nga Sô nhưng vẫn coi Mỹ là kẻ thù
số một và thề quyết tâm đánh Mỹ. Năm 1965 Trung cộng giật dây đảo chánh
bất thành tại Nam Dương khiến cho Hoa Kỳ lại càng lo sợ hơn. Tầu đỏ nay
đã trở thành cơn ác mộng đối với Hoa Kỳ. Sau khi hất cẳng Pháp tại miền
Nam Việt Nam 1955, người Mỹ dựng lên chính phủ Ngô Đình Diệm và yểm trợ
hết mình, tình hữu nghị hai bên vô cùng khắn khít nhưng chỉ được chừng
bốn năm. Khoảng 1960 trở đi hai bên bắt đầu chia rẽ trầm trọng, cộng sản
ngày càng gia tăng áp lực tại miền Nam, chúng đã đánh tới cấp Trung
Đoàn, Mỹ sợ miền Nam sắp mất tới nơi bèn đề nghị đưa quân vào bình định
nhưng ông Diệm một mực bác bỏ vì muốn giữ chủ quyền. Mỹ thấy chính phủ
miền Nam ngày càng ương bướng khó bảo nên đã tính chuyện lật đổ để thay
thế bằng một chính phủ khác dễ bảo hơn. Sau mấy lần cho đảo chính, ám
sát hụt mãi đến đầu tháng 11/1963 mới thành công.
Mỹ tăng viện trợ quân sự cho miền Nam từ 1964 trở đi, năm 1965 chính
thức đổ quân vào miền Nam khoảng 180,000 người, năm 1966 lên 380,000
người, năm 1967 lên 480,000 người, năm 1968 lên tới 536,000 người đó là
đỉnh cao nhất. Các cuộc biểu tình chống chiến tranh lúc ấy đã lan rộng
trên đất Mỹ khi số lính Mỹ hy sinh Việt Nam lên tới 31,000 người.
Tháng 3/1968 Tổng Thống Johnson hăm doạ Bắc Việt để họ phải vào bàn hội
nghị, Bắc Việt chấp nhận ngồi họp.
Từ 1965 đến 1968 cuộc chiến tranh cù cưa không dứt khoát, người ta đồn
tư bản Mỹ buộc chính phủ của họ kéo dài chiến tranh để bán vũ khí, nhưng
cũng có thể họ trì hoãn để mặc cả đi đêm với khối cộng nhất là Trung
cộng. Tháng 4/1969 Tướng Wesmoreland công bố bản phúc trình về Việt Nam
cho biết nếu Mỹ không vào Việt Nam 1965 thì đã mất trong 6 tháng, ông
chỉ trích chính sách hạn chế chiến tranh của Johnson không cho đánh qua
Miên, Lào nên đã bỏ lỡ cơ hội chiến thắng.
Phong trào phản chiến ngày càng lên cao, Nixon nhậm chức Tổng Thống đầu
1969 tuyên bố sẽ rút quân trong vòng mấy năm, thực hiện Việt Nam Hoá
chiến tranh, hoà bình trong danh dự. Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1970
Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà được Mỹ giúp đỡ và khuyến khích hành quân
sang Miên đánh cộng sản đã thành công vẻ vang, nhưng đầu năm sau hành
quân Lam Sơn 719 sang Hạ Lào không thành công, ta bị thiệt hại về nhân
mạng và vũ khí. Phong trào phản chiến tại Mỹ càng lên cao dữ dội vì
chính phủ mới vẫn tiếp tục leo thang chiến tranh. Tháng 5/1970 trong một
cuộc biểu tình tại trường đại học Kent, Ohio quân đội đã bắn chết 4
sinh viên, làm bị thương 10 người khác khiến cho phong trào chống chiến
tranh lên cao gấp bội lần những năm trước.
Nixon bắt đầu cho rút quân từ giữa 1969 cho tới hết năm 1970 rút khoảng
300,000 quân… đến 1972 chỉ con trên 70,000 người. Chính phủ Mỹ đồng thời
thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh, nâng tổng số quân đội miền Nam từ
600,000 và 700,000 trong những năm 1965, 1966 lên tới 940,000 giữa năm
1969. Hoa kỳ rút quân thực hiện Việt Nam Hoá chiến tranh là đã nghĩ tới
chuyện bỏ Việt Nam, họ chỉ chờ cơ hội bắt tay được với Trung cộng là
thực hiện kế hoạch “vắt chanh bỏ vỏ” nhưng người dân miền Nam ngây thơ
thật thà không ai ngờ tới. Trong khi giúp miền Nam đánh cộng sản họ đã
ngấm ngầm tìm cách thương lượng với Trung Hoa đỏ.
Năm 1969 chúng tôi có được nghe một anh bộ đội người cùng làng ra hồi
chánh, anh ta nói “Mỹ nó muốn chiêu hồi Trung Quốc đấy chứ cái anh Bắc
Việt thì nghĩa lý gì”. Lời anh ta nói thật là linh ứng, tháng 2/1972 tại
Bắc Kinh Tổng Thống Đế quốc bắt tay được Mao Chủ tịt. Họ mua bán với
nhau trên xương máu của nhân dân và binh lính cả hai miền Nam Bắc, Nixon
tươi cười mãn nguyện, cơn ác mộng con hổ đói Trung quốc không còn ám
ảnh Hoa kỳ nữa. Hồi ấy người dân miền Nam ai nấy vui mừng hớn hở tưởng
như “hoà bình sắp tới nơi rồi” nhưng thực ra “sắp chết tới nơi” mà không
ai hay biết ngay cả Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu,
tháng 10 năm 1973 ông đã cho sửa Hiến Pháp để ra ứng cử thêm một lần
nửa! thật là một truyện diễu.
Cuối tháng 3/1972 Bắc Việt đưa 5 Sư Đoàn với 200 xe tăng, 3 Trung Đoàn
pháo ồ ạt tấn công vùng giới tuyến chia làm hai mũi: 3 Sư Đoàn vượt sông
Bến Hải đánh vào Quảng Trị, 2 Sư Đoàn từ phía Tây tiến về Huế. Mấy ngày
sau ba Sư Đoàn cộng sản 5, 7, 9 cùng 200 chiến xa tiến đánh Bình Long,
ngoài ra Sư Đoàn 320 tiến đánh Kontum và Sư Đoàn 3 đánh Bình Định. Tổng
cộng 10 Sư Đoàn Bắc Việt đánh lớn trong mùa Hè đỏ lửa 1972 để thêm sức
mạnh tại bàn hội nghị. Tại Quân Khu III các cuộc tấn công vào Thị xã An
lộc của Bắc Việt từ 10/5 cho tới cuối tháng 5 bị đẩy lui, hằng trăm xe
tăng bị bắn cháy, đến ngày 12/6 An Lộc coi như hoàn toàn được giải toả.
Tại vùng Giới tuyến tháng 5 Tướng Ngô Quang Trưởng thay thế Hoàng Xuân
Lãm và bắt đầu phản công tái chiếm Quảng Trị từ 28/6. Khoảng một tháng
sau đại quân ta cắm cờ trên cổ thành Quảng Trị, giữa tháng 8 dứt điểm cổ
thành, ngày 16/9 cuộc chiến đẫm máu coi như chấm dứt, 3 Sư Đoàn Việt
Nam Cộng Hoà đã đẩy lui được 6 Sư Đoàn Bắc Việt. Trong chiến dịch này
Cộng quân thiệt hại khoảng 100,000 người (cũng có tài liệu nói 70,000
người), gấp đôi tổn thất của quân đội miền Nam. Cho đến cuối 1972 có vào
khoảng một triệu cán binh cộng sản bị tử thương trong khi bắc Việt vẫn
ngoan cố theo đuổi chính sách “cố đấm ăn xôi” đẩy thanh niên vào chỗ
chết, chúng hy vọng nhiều vào phong trào phản chiến, chúng cũng chỉ mong
có thế.
Người Mỹ cho rằng chiến thắng trong trận mùa Hè đỏ lửa một phần do sự
yểm trợ hùng hậu của không lực Mỹ, chính ông Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu
Trưởng cũng đã xác nhận “Cuộc công kích của địch quân năm 1972 đã cho
thấy nhược điểm của tiến trình Việt Nam Hoá chiến tranh. Nếu không được
yểm trợ của Mỹ về Không lực và di động tính, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà
khó có thể giữ được An Lộc, bảo vệ được Kontum và chiếm lại được Quảng
Trị. Các phần đất này sẽ bị mất vĩnh viễn bởi vì chúng tôi không có đủ
khả năng chiếm lại. Tuy nhiên, lúc nào còn Không Lực Mỹ thì cán cân lực
lượng vẫn có thể duy trì và Việt Nam Cộng Hoà vẫn còn một cơ hội tốt để
sống còn”.
Như thế năm 1972 lực lượng Việt Nam Cộng Hoà không được cân bằng so với
Bắc Việt, nó chỉ cân bằng khi có sự yểm trợ của Không Quân Mỹ, tại miền
Nam tháng 5, tháng 6/1972 có 18,000 phi vụ do 700 phi cơ và 2,700 phi vụ
do 170 B52 thực hiện. Năm 1968 và 1972 chính phủ Việt Nam đã đề nghị
chính phủ Mỹ cho thành lập thêm 2 Sư Đoàn Tổng Trừ Bị để đối phó với lực
lượng địch đã có ưu thế về xe tăng pháo binh, nhưng người Mỹ từ chối
lấy lý do tốn kém. Kỳ thực họ không muốn cho quân đội miền Nam mạnh quá
vì sợ có thể liều lĩnh đánh ra Bắc hoặc ương bướng khó bảo, họ luôn luôn
nắm đằng chuôi. Như thế ta có thể kết luận về chủ lực quân, miền Nam
không bằng miền Bắc cũng như năm 1953 chủ lực quân Việt Minh vẫn mạnh
hơn Pháp.
Sau ngày ký hiệp định Paris, năm 1973 tình hình tiếp vận của miền Nam vô
cùng thiếu hụt, một số lớn xăng dầu, đạn dược đã được dốc vào mùa Hè đỏ
lửa năm 1972, quân viện bị cắt giảm dần dần từ 2.1 tỷ năm 1973 còn 1.4
tỷ năm 1974 và 700 triệu năm 1975. Theo tiết lộ sau này của Bộ Tổng Tham
Mưu hậu quả của giảm quân viện là Không Quân đã phải cho hơn 200 phi cơ
ngưng bay, giảm số giờ bay yểm trợ huấn luyện 50%, phi vụ trực thăng
giảm 70%. Các hoạt động Hải Quân cũng cắt giảm 50%, 600 tầu chiến các
loại nằm ụ. Đạn dược chỉ đủ dùng cho đến tháng 6/1975.
So sánh với tình hình năm 1972 chúng ta sẽ thấy: Trong trận mùa Hè đỏ
lửa, Bắc Việt đã đưa vào trận đánh tổng cộng 10 Sư Đoàn, ta có đủ đạn
dược xăng dầu để chiến đấu lại được Không Quân Mỹ giúp đỡ về vận chuyển
và oanh tạc. Sang năm 1975, xăng dầu, đạn dược thiếu thốn, không được
B52 yểm trợ. Lực lượng địch lúc bắt đầu trận đánh khoảng 17 Sư Đoàn,
chưa kể 3 Sư Đoàn Tổng trừ bị thuộc Quân Đoàn 1 ở phía trên Bến Hải, khi
ta mất vùng I và II, bắc việt đưa nốt 3 Sư Đoàn vào Nam nâng tổng số
lên 20 Sư Đoàn. Vũ khí đạn dược của địch năm 1975 gấp 3 lần 1972 theo
tiết lộ của báo Nhân Dân năm 1976 nhân ngày kỷ niệm chiến thắng 30/4.
Chúng ta hãy lập bảng so sánh như sau.
Năm 1972:
– Bắc Việt đưa vào trận địa 10 Sư Đoàn
– Miền Nam có đầy đủ tiếp liệu đạn dược.
– Có yểm trợ của Không Lực Mỹ.
Năm 1975:
– Lực lượng Bắc Việt lên tới 20 Sư Đoàn, gấp đôi năm 1972.
– Vũ khí đạn dược của Bắc Việt gấp 3 lần năm 1972.
– Miền Nam thiếu thốn đạn dược nhiên liệu.
– Không được phi cơ Mỹ yểm trợ oanh tạc và vận chuyển.
Nhìn sơ ta cũng đủ thấy tình hình miền Nam lúc ấy bi đát như thế nào rồi.
Trong khi địch có khá đầy đủ tin tức tình báo về miền Nam, chúng ta lại
không có tin tức chính xác về lực lượng địch. Theo Văn Tiến Dũng (trong
Đại thắng Mùa Xuân) vào ngày 9 và 10 tháng 12/1974 vài ngày trước khi
Bắc Việt đánh Phước Long, trong một phiên họp các Tư Lệnh Quân Khu tại
dinh Độc Lập, Tướng Thiệu cho rằng năm 1975 Bắc Việt có thể đánh lớn hơn
năm 1974 nhưng không như năm 1968 và không bằng 1972, chưa có khả năng
đánh vào các Thị xã lớn mà chỉ đủ đánh các Tỉnh nhỏ như Phước Long, Gia
Nghĩa, rằng Bắc Việt sẽ đánh Quân Khu III chủ yếu là Tây Ninh. Theo Văn
Tiến Dũng do nhận định sai nên Tướng Thiệu đã bố trí chiến lược mạnh ở
hai đầu (Quân Khu I và III), chưa tăng cường lực lượng cho Quân Khu II
trong đó có Tây Nguyên.
Sư bố trí lực lượng của miền Nam theo Văn Tiến Dũng như sau:
Quân Khu I để 5 Sư Đoàn (Sư Đoàn 1, 2, 3, Dù và Thủy Quân Lục Chiến), 4
Liên Đoàn Biệt Động Quân, 418 khẩu pháo, 449 xe tăng, 96 máy bay chiến
đấu.
Quân Khu II để 2 Sư Đoàn (Sư Đoàn 22 và 23), 7 Liên Đoàn Biệt động Quân,
382 khẩu pháo, 477 xe tăng Thiết Giáp, 138 máy bay chiến đấu.
Quân Khu III để 3 Sư Đoàn (Sư Đoàn 5, 18, 25), 7 Liên Đoàn Biệt động
Quân, 376 khẩu pháo, 655 xe tăng Thiết Giáp, 250 máy bay chiến đấu.
Quân Khu IV để 3 Sư Đoàn (Sư Đoàn 7, 9, 21), 380 khẩu pháo, 490 xe tăng, 72 máy bay chiến đấu, 580 tầu xuồng các loại.
Đã suy yếu vì thiếu tiếp liệu, ta lại đánh giá sai lực lượng địch nên đã
bố trí các Quân Khu sai như trên. Cho tới 1975 ta vẫn không thay đổi sự
bố trí lực lượng đã có từ trước cho phù hợp với tình hình mới. Lực
lượng địch như đã nói ở trên tổng cộng là 20 Sư Đoàn, với số xe tăng
thiết giáp ước lượng không chính xác khoảng 700 chiếc và 700 khẩu pháo.
Một nhà báo Tây Phương nói hai bên xem như ngang nhau vào lúc đầu của
tấn thảm kịch. Năm 1975, Việt Nam Cộng Hoà có trên một triệu quân, 40%
là chủ lực chính qui, 50% là địa phương quân, còn lại Hải Quân, Không
Quân, Cảnh Sát. Lính nhà nghề chỉ có 13 Sư Đoàn và 15 Liên Đoàn Biệt
Động Quân, mỗi Liên Đoàn khoảng trên 2,000 người. Về mặt số lượng xe
tăng và pháo của địch không bằng ta nhưng về mặt phẩm thì có phần hơn,
Thiết Giáp miền Nam gồm M48, M41, M113, trong đó chỉ có M48 là tương
đương với T54 của bắc Việt, pháo binh địch loại 130 ly có tầm viễn xạ
tối đa là 30 cây số trong khi đại bác 105 ly, 155 ly của ta chỉ được 11
và 15 cây số, sau này được viện trợ thêm 175 ly có tầm bắn xa 25 cây số.
Sự thực lực lượng hai bên không cân bằng vì miền Nam lâm vào tình trạng
hết đạn.
Quân Khu II gồm 13 Tỉnh mà chỉ có 2 Sư Đoàn trấn giữ, lực lượng bị phân
tán mỏng lại là nơi địch chủ trương tấn công toàn diện, bắc Việt tung
vào trận địa này 5 Sư Đoàn tổng cộng gần 80,000 người. Bắc Việt bất ngờ
đưa ba Sư Đoàn tấn công Ban Mê Thuột ngày 11/3, năm ngày sau 16/3/1975,
Quốc Hội Mỹ cắt viện trợ 300 triệu đô la quân viện bổ túc cho Việt Nam
như thế ta chỉ còn đạn đủ đánh trong vòng vài tháng, hôm sau 17/3 Ban Mê
Thuột hoàn toàn mất. Từ ngày 11/3 tại dinh Độc Lập Tướng Thiệu triệu
tập phiên họp gồm các Tướng Viên, Khiêm, Quang cho biết phải rút quân bỏ
Vùng I, Vùng II về bảo vệ Vùng III và Vùng IV. Kontum, Pleiku bị áp lực
nặng, Tướng Phú Tư Lệnh Quân Khu II bay về Cam Ranh họp với các Tướng
Thiệu, Khiêm, Viên, Quang để bàn kế hoạch rút lui Pleiku theo đường số 7
về Tuy Hoà.
Cuộc triệt thoái bắt đầu từ 16/3 đến 19/3, ngày đầu nhờ yếu tố bất ngờ
nên đoàn lữ hành ra đi êm xuôi, hôm sau dân chúng ùa theo, Bắc việt chớp
thời cơ chận đánh, pháo kích tơi bời, khoảng 5,000 quân vượt đường máu
tới Tuy Hoà, cuộc triệt thoái không có kế hoạch đầy đủ, cấp trên nhiều
người bỏ đơn vị chạy trước, kỷ luật hỗn tạp, kẻ xấu lợi dụng bắn phá
giết chóc… Cuộc triệt thoái trên đường số 7 đã đi vào vết xe đổ của trận
Cao Bắc Lạng năm 1950 khi quân Pháp triệt thoái khỏi vùng biên giới
Việt Hoa đã bị Việt Minh chận đánh tan tành, được coi như một thảm bại
lớn nhất trong cuộc chiến tranh tại miền Nam nước Việt từ trước đến nay.
Tướng Cao Văn Viên cho rằng ít nhất 75% các lực lượng chiến đấu của Quân
Đoàn II đã bị tiêu diệt, 60,000 chủ lực quân khi về đến Tuy hoà chỉ còn
lại khoảng 20,000, năm Liên Đoàn Biệt động Quân 7,000 người chỉ còn 900
người, 100 xe tăng các loại chỉ còn 13 chiếc M113, trong số 400,000 dân
cao nguyên chạy loạn chỉ có 100,000 người tới được Tuy Hoà. Tổng số vũ
khí đạn dược trị giá 250 triệu dollars lọt vào tay cộng quân. Ít ra cũng
có tới 50,000 người thiệt mạng, cuộc triệt thoái mang lại hậu quả hết
sức tai hại, nó đã kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ miền Nam.
Miền Nam đã đang ở trong tình trạng ngặt nghèo vì thiếu đạn, xăng dầu…
tướng Thiệu lại đưa ra những quyết định sai lầm vô cùng tai hại khiến
cho đất nước trong chớp nhoáng đã kề bên bờ vực thẳm, ngày 13/3 ông cho
lệnh rút Sư Đoàn Dù từ Quảng Trị về Vùng III, Tướng Trưởng điều động
Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân thay thế vào, Biệt Động Quân nghe tiếng xe
tăng địch vội rút về phía Nam sông Mỹ Chánh, Quảng Trị coi như bỏ ngỏ đã
lọt vào tay Bắc Việt hôm 19/3. Ngày hôm sau Tướng Trưởng nhận được lệnh
bỏ Huế rút về Đà nẵng, ngày 25/3 Quảng Tín và Quảng Ngãi lọt vào tay
cộng quân, ngày 25/3 Tướng Trưởng nhận lệnh đưa Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến về Sàigòn. Cuộc tháo lui của Thủy Quân Lục Chiến tại cửa Thuận An
vô cùng thê thảm, biết bao người bỏ mạng khi lội ra tầu dưới hoả lực
địch. Các cuộc di tản tại Vùng I đã diễn ra một cách hỗn loạn được coi
như tồi tệ hơn tại Vùng II, cấp trên nhiều người bỏ quân sĩ lại để chạy
tháo thân, ngày 27/3 Đà Nẵng bắt đầu nghiêm trọng, cộng quân pháo vào
thành phố dữ dội, dân quân chết như rạ, Tướng Trưởng ra lệnh bỏ Đà Nẵng.
Vùng I và II bị mất trong chớp mắt khiến cho tinh thần binh sĩ suy sụp
nhanh chóng, điều đáng nói là trong khi tinh thần chiến đấu của binh sĩ
còn khá cao, thay vì tăng viện thêm Tướng Thiệu lại cho lệnh rút bỏ cả
hai Quân Khu khiến cho dân quân vô cùng hoang mang, cuộc di tản diễn ra
trong cảnh hỗn loạn, đạp lên đầu nhau mà chạy, bắn giết nhau tìm đường
chạy coi như đã dọn cỗ sẵn cho Việt cộng xơi. Tất cả vũ khí đạn dược,
quân trang, xe tăng đại bác… tại hai vùng hầu như mất hết, một phần lớn
đã lọt vào tay cộng quân, đúng là giao vào tay giặc. Năm 1976, cộng sản
tiết lộ trên báo chí chúng đã lấy được rất nhiều chiến lợi phẩm tại vùng
I và II nào xe cộ, đại bác, thiết giáp… để trang bị thêm, đạo quân của
địch bỗng nhiên tăng lên gấp bội. Như đã nói ở trên riêng cuộc lui binh
tại Quân Khu II cũng đã có khoảng 50,000 người thiệt mạng, cuộc rút lui
hỗn loạn tại Quân Khu I dưới những trận mưa pháo của địch nhất là tại Đà
Nẵng còn thiệt hại nhiều hơn nữa, trong toàn bộ cuộc di tản vùng I và
II có tới hằng trăm nghìn người bị chết oan.
Thực hiện xong kế hoạch rút quân tại Vùng I và II coi như Tướng Thiệu đã
dọn cỗ sẵn cho Việt cộng xơi. Sau khi Vùng I và II lọt vào tay cộng
quân, phần còn lại của miền Nam coi như sẽ mất trong giây lát, đạn dược
đã thiếu nay lại càng thiếu hơn vì các kho đạn miền Trung mất hết. Tại
Sàigòn các ông to bà lớn đã chuẩn bị kế hoạch “tẩu vi thượng sách” y như
năm 1949 tại Nam Kinh, Trung Hoa các ông Bộ Trưởng, Tướng Tá đã lên máy
bay ra đảo Đài Loan.
Sàigòn sắp chết tới nơi mà chính phủ Thiệu còn khẩn khoản xin Mỹ viện
trợ khẩn cấp 300 triệu, theo ông Nguyễn Tiến Hưng, vào giờ thứ hai mươi
lăm Tướng Thiệu còn tính việc lấy ngoại tệ trong ngân hàng để đi mua
đạn, thật là diễu hết chỗ nói. Ngày 21/4 ông Thiệu từ chức Tổng Thống,
tuyên bố Hoa kỳ bỏ rơi đồng minh, từ đó đến nay nhiều người Việt đổ lỗi
cho Mỹ đã bỏ rơi đồng minh năm 1975. Người Mỹ, điển hình là đương kim
Tổng Thống và Bộ Trưởng Quốc Phòng lại chỉ trích quân Đội Việt Nam Cộng
Hoà trước đây đã không chịu đánh. Nhiều chính khách Hoa kỳ lại đổ lỗi
cho miền Nam Việt Nam. Theo ông Nguyễn Đức Phương, nhà nghiên cứu quân
sự thì nguyên nhân thất bại đã đến từ cả hai phía Việt Nam và Mỹ.
Như chúng tôi đã trình bầy ở trên, Quốc Hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự
khiến cho quân đội miền Nam lâm vào tình trạng ngặt nghèo kiệt quệ, một
ông Tướng Pháp nói đó là bức tử Việt Nam. Chính người dân Mỹ, nhóm biểu
tình phản chiến đã lên kế hoạch “vắt chanh bỏ vỏ”, mặc dù không nói ra
nhưng họ cho rằng đã “huề” với Trung Hoa đỏ rồi thì không còn lý do gì
để giữ miền Nam. Người dân đã vận động với Quốc hội để bức tử miền Nam
như trên, Quốc Hội phải theo ý dân vì sống nhờ vào lá phiếu của họ. Công
bằng mà nói Hành Pháp Hoa Kỳ đã cố gắng cứu giúp sự sống còn của miền
Nam nhưng họ đã bị Quốc Hội trói tay đành phải chịu. Sau ngày 30/4/1975,
một nhóm đông đảo sinh viên thanh niên phản chiến hớn hở tham dự buổi
mít tinh để mừng chiến tranh chấm dứt “The war is over”.
Cho tới nay ít ra đã có người biết xấu hổ vì cái trò vắt chanh bỏ vỏ.
Bộ Trưởng Tư Pháp Mỹ Robert Kennedy nói Việt Nam phạm vào rất nhiều sai
lầm, trước mắt như chúng ta đã thấy ở trên, trong khi đạn dược thiếu
hụt, Tướng Thiệu lại sai lầm rút bỏ Quân Khu I và II đưa miền Trung vào
chỗ thảm bại mất hết vũ khí đạn dược, chết bao nhiêu dân, quân, binh
lính khiến cho tinh thần suy sụp ghê gớm đưa miền Nam xuống vực thẳm.
Những người chạy loạn từ miền Trung vào Nam, một số sĩ quan viết lại hồi
ký, họ nói rằng cấp lớn nhiều người thiếu tư cách, bỏ lính tráng lại
chạy tháo thân.
Thật vậy, nhiều ông Tỉnh Trưởng vét tiền trong ngân khố chạy trước, điều
đáng tiếc là trong khi tinh thần binh sĩ còn cao, cấp lớn hèn nhát ích
kỷ đã giúp cho sự sụp đổ của miền Nam nhanh hơn dự kiến. Trong khi ba
quân tướng sĩ còn đang chiến đấu anh dũng bảo vệ vùng 3, nhiều ông to bà
lớn đã thu xếp quí kim chuồn ra ngoại quốc. Gần đây có một ông trước là
quân nhân công chức mới định cư tại hải ngoại, ông ta nói “nhiều anh
trước làm quan lớn bỏ chạy bây giờ còn lên tiếng huênh hoang, mấy anh
hèn nên im lặng là hơn.”
Ông Nguyễn Đức Phương cho rằng người dân thờ ơ không chịu giúp đỡ chính
phủ, nhưng theo chúng tôi nghĩ vì chế độ Thiệu đã thối nát quá xá rồi,
hẳn là ai cũng đều biết cả, nên người dân quá chán ngán không còn thiết
tha gì đến, họ cũng chỉ lo chạy tháo thân mặc cho nó sụp đổ tan tành.
Những người có cảm tình với ông Thiệu cho rằng nguyên do tấn thảm kịch
tại tình thế ngặt nghèo như thiếu đạn dược, xăng dầu, nhưng một ông Tổng
Thống phải là người thao lược, mưu trí cao để có thể chuyển bại thành
thắng, còn nếu không thì ai cũng có thể làm Tổng Thống được.
Sau 30/4/1975 người ta ước lượng cộng quân đã chiếm được 1,100 phi cơ
các loại, hằng trăm tầu các loại của Hải quân, 300 xe tăng M41, 250 xe
M48; 1,000 đại bác 105 mm, 300 đại bác 155mm và 175mm; 800,000 súng cá
nhân M16, 15,000 đại liên; 500 trực thăng; 130,000 tấn đạn dược… tất cả
trị giá hằng tỷ Mỹ kim.
Hậu quả của tấn thảm kịch như ta thấy đã khiến cho hằng trăm nghìn người
chết oan, hằng trăm nghìn người bị tù đầy giam giữ lâu dài, vài năm sau
có tới mấy trăm nghìn người bỏ xác giữa biển khơi trên đường tị nạn.
Cuộc chiến tranh 1975 đã chấm dứt từ mấy chục năm qua nhưng nó vẫn in
sâu trong tâm khảm người Việt nhất là đám tị nạn lưu vong. Bây giờ không
phải lúc chúng ta ngồi oán trách đồng minh bỏ rơi miền Nam, ta phải tự
trách mình đã không bảo được nhau, đã biến thành những quân tốt cho
người ta sử dụng, đã để cho họ mua bán với nhau trên xương máu của hằng
triệu binh lính cả hai miền Nam Bắc, đã biến đất nước thành bãi chiến
trường và nơi thử vũ khí của khoa học quốc phòng.
Cuối cùng, những kẻ đã gây lên cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn sẽ đời đời đắc tội trước non sông và lịch sử.
Trọng Đạt
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
– Cao Thế Dung: Việt Nam Ba Mươi Năm Máu Lửa (1945-1963).
– Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975.
– Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975.
– Đoàn Thêm: 1965, Việc Từng Ngày.
– Đoàn Thêm: 1966, Việc Từng Ngày.
– Đoàn Thêm: 1969, Việc Từng Ngày.
– Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Nam Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới.
– Văn Tiến Dũng: Đại Thắng Mùa Xuân.
– Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn.
– Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975.
– The World Almanac Of The Viet Nam War, John S.Bowman, General Editor.
– Stanley Karnov: Viet Nam, a History.
No comments:
Post a Comment