Tuesday, December 22, 2009


Phước lành Giáng Sinh
ANH HOÀ
Kính chúc Anh và gia đình một mùa Giáng sinh an lành, may mắn và một năm mới nhiều hạnh phúc.
Thân
PS: Xin chuyển lời chúc của tất cả các Anh em trong nước đến bạn bè ĐĐ.
HÀ TIẾN ĐẠT

Tuesday, December 1, 2009






I. LỜI GIỚI THIỆU.
Kể từ lâu, năm 1957 đã có quân của LLÐB/HK tại Việt-Nam, lúc đó họ chỉ làm nhiệm-vụ huấn-luyện, cố-vấn và giúp-đỡ quân-đội VNCH. Các biệt-kích mũ xanh phải tình nguyện hai lần, lần đầu học nhẩy dù và sau đó học về LLÐB. Trong năm 1957, ngày 24 tháng sáu, liên-đoàn 1LLÐB được thành lập tại Okinawa và gửi sang Việt-Nam huấn luyện cho 58 quân nhân Việt-Nam tại Trung-tâm huấn-luyện Biệt-Ðộng-Ðội ở Đồng Đế Nha Trang. Những sĩ quan thụ huấn đó sau này trở thành huấn luyện viên hoặc cán bộ nồng cốt cho các đơn-vị đầu tiên của LLÐB/VN. Mười năm sau LLÐB cố-vấn và yểm trợ cho hơn 40.000 Dânsự Chiến-đấu, hoạt động trên khắp lãnh thổ miền nam Việt Nam.

II. PHÁT TRIỂN.
Trong năm 1959, 1960 với sự bành trướng của Việt cộng, gia tăng các vụ phá hoại, khủng bố gây nên tình trạng bất an nơi thôn quê, hẻo lánh. Quân đội Hoa Kỳ gửi thêm ba mươi huấn luyện viên LLÐB từ căn cứ Fort Bragg sang nam Việt Nam để tổ chức một chương trình huấn luyện cho QLVNCH.

Ngày 21 tháng chín 1961, tổng-thống John F. Kenedy tuyên bố sẽ tăng thêm ngân khoản viện trợ quân-sự, kinh tế cho Việt Nam. Chính quyền Hoa-Kỳ lo ngại về vấn đề xâm nhập người và vũ-khí của quân cộng-sản vào miền nam, do đó phải tìm cách ngăn chặn sự xâm nhập này. Các toán A Lực-lượng Ðặc-biệt được giao phó cho trách nhiệm tổ chức và huấn-luyện những dân-tộc thiểu-số phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của địch từ bắc vào nam. Về sau những lực lượng võ trang này được gọi là Dân-sự Chiến-đấu.

Liên-đoàn 5 LLÐB/HK được gửi sang Việt Nam và hoàn toàn chịu trách nhiệm cho các hoạt-động, hành quân đặc biệt tại miền nam. Lực-lượngÐặc-biệt được Lục quân Hoa-Kỳ tổ chức nhằm thích ứng cho các cuộc hành quân ngoại lệ và đã được định nghiã như 'ba khía cạnh liên-hệ trong du kích chiến, trốn tránh và đào tẩu, gậy ông đập lưng ông chống lại kẻ thù'. Chiến tranh ngoại-lệ được định nghiã như sau ' Hoạt động ngay trong lòng địch, hoặc những nơi địch kiểm soát'.

Cơ-cấu tổ chức căn bản của Liên-đoàn Lực-lượng Ðặc biệt gồm có một bộ chỉ huy đầu não, ban chỉ huy các đại đội, ba đại-đội hoặc nhiều hơn, một đại đội truyền tin và một phi-đoàn yểm trợ. Các bộ, ban chỉ huy gồm đủ các ban tham-mưu để chỉ huy và theo-dõi, thêm phần quân-y,và đơn vị tiếp-tế thả dù. Ðạiđội LLÐB thường do một sĩ quan cấp bậc trung-tá chỉ huy, thường gồm có một ban tham mưu và một BCH hành-quân C, bộ chỉ huy này sẽ chỉ huy ba BCH/HQ B, mỗi BCH/HQ B sẽ chỉ huy bốn toán A. Toán A là một đơn-vị căn bản mười hai người của LLÐB.

III. LỰC LƯỢNG DÂN SỰ CHIẾN ÐẤU.
Có hai lý do cho việc tổ chức DSCÐ. Người Hoa Kỳ tin rằng nên võ trang nhóm dân tộc thiểu số để chống lại sự xâm nhập của quân cộng-sản. Lý do thứ hai, người Thượng và các sắc dân thiểu số là mục tiêu chính cho chủ thuyết tuyên truyền của cộng-sản, họ không hài lòng về chính quyền quốc-gia, rất dễ bị địch lợi dụng, tuyển mộ.

Vào tháng Chín 1962, bộ chỉ huy LLÐB tại Việt-Nam được thành lập và trực thuộc Bộ Chỉ-Huy Quân-Viện. Ðến tháng mười 1962, có tất cả hai mươi bốn toán LLÐB/HK hoạt động trên miền nam Việt- Nam. Tháng mười một 1962,LLÐB/HK tại Việt-Nam được tổ chức gồm có một BCH C, ba BCH B và hai mươi sáu toán A. Ngoài ra còn có một bộ chỉ huy đặt tại Saigon. BCH C không làm việc bình thường trên phương diện chỉ huy, điều hành mà làm nhiệm-vụ như phần mở rộng của BCH trung-ương.

Trong thời gian từ tháng mười hai 1962 đến tháng hai 1963, BCH/LLÐB/HK hoàn toàn chịu trách nhiệm chỉ huy các hoạt động của các toán A tại Việt-Nam. Lúc đó các toán A đã thiết lập các trại Dân-sự Chiến-đấu trên khắp bốn quân khu. Một BCH B được thành lập trên mỗi vùng chiến thuật để phối hợp với hệ thống chỉ huy của QLVNCH và chỉ-huy các toán A. Các toán A được xử dụng tạm thời lấy từ Liên-đoàn 1 từ Okinawa, và Liên-đoàn 5, 7 LLÐB từ Fort Bragg, North Carolina. Ðến tháng mười hai 1963, các toán A phối hợp với LLÐB Việt-Nam đã huấn luyện và võ trang cho 18000 người thuộc lực lượng xung kích và 43000 người phòng vệ dân-sự. Tháng hai 1963, bộ chỉ huy LLÐB/HK từ Saigon dời đi Nha-Trang do hai điều thuận-lợi, thứ nhất, Nha-Trang nằm vào khoảng giữa từ vĩ-tuyến 17 đến cuối miền nam, dễ điều hành các toán A nằm rải rác khắp miền nam Việt Nam. Thứ hai, vị trí nơi biển dễ nhận đồ trang bị, tiếp liệu đến từ Okinawa và phi trường, đường xá có sẵn cho vấn đề tiếp vận.

Cuối năm 1964, Lực lượng Dân-sự Chiến-đấu không còn là vấn đề phát triển nữa. Mục đích và nhiệm vụ cũng thay đổi, không ngoài việc phòng vệ xóm làng, các trại DSCÐ được xử-dụng làm căn cứ cho các cuộc hành quân tấn công vào sào huyệt địch. Sự thay đổi lớn thứ hai nhằm tăng phần hiệu qủa cho việc kiểmsoát biên giới, LLÐB/HK xây thêm một số trại Biên-phòng.

Trong cuộc hành quân Switchback (11-62 đến 0762), các hoạt động tấn công thuộc lực lượng xung-kích DSCÐ bao gồm phục-kích, tuần-tiễu, thám-sát trong khu vực trách nhiệm của mỗi trại. Ngoài ra những cuộc hành quân phối hợp với các đơn-vị VNCH bao gồm LL/DSCÐ thuộc nhiều trại. Trong tháng sáu, bốn đại đội xung kích DSCÐ lấy từ các trại Ðak-To, Plei-Mrong và Polei Krong phối hợp hành quân lùng địch.

Quân cộng-sản phản-ứng bằng cách pháo kích, quấy rối các trại biên-phòng. Trong cuộc hành-quân Switchback, các hoạt-động địch gia tăng, hầu hết các trại đều bị bắn quấy rối. Ngày 3 tháng giêng 1963, đặc-công cùng hai đại đội CSBV tấn công và tràn ngập trại Plei-Mrong. Vấn đề phòng thủ các trại biên-phòng được xét lại, Bộ chỉ-huy Quân Viện ra lệnh cho các toán A thiết lập thêm tuyến phòng
thủ thứ hai cho tất cả các tiền đồn. LLÐB/HK được tăng cường thêm hai tiểu-đoàn Công-binh Hải-quân (Seabee) phụ gíup trong việc xây cất.

Việc xử-dụng LL/DSCÐ bao gồm các hoạt động tuần-tiễu, lục soát ra ngoài phạm vi trách nhiệm của trại thường cần có những căn cứ tiền phương và lực lượng tiếp-ứng. Một lực lượng xung-kích 20000 quân được thành lập bắt đầu từ tháng mười một 1963 và hoàn tất vào tháng bẩy năm 1964. Mỗi đại đội DSCÐ có 150 người gồm bộ chỉ huy 10 người và ba trung đội khinh-binh 35 người, trung đội súng nặng 35 người. Mỗi trại có quân số bốn đại đội. Hai đại đội hoạt động bên ngoài từ những căn cứ tiền phương, tung các trung đội và các toán viễn-thám năm người ra hoạt động.

Vào tháng giêng 1965, trước khi Hoa-Kỳ đem thêm quân vào chiến trường miền nam. Kế hoạch chống xâm nhập được xác định rõ ràng gửi đi từ bộ chỉ huy liên-đoàn 5 LLÐB/HK tới các BCH B và các toán A như sau:

Ðịnh nghiã:
Kế hoạch chốngxâm nhập của LLÐB là một chương trình hỗn hợp quân-sự và dân-sự vụ, được tổ chức nhằm thực hiện các mục tiêu sau đây:

(a) Loại trừ Việt cộng, thiết lập vùng an-ninh.
(b) Bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền quốc gia đối vớidân trong vùng.
(c) Ðộng viên những người dân hăng hái, sẵn sàng tham gia trong các chương trình của chính quyền quốc gia.

Những mục tiêu nói trên có thể đạt được khi thi hành một trong ba nhiệm vụ sau:
(1) Kiểm soát và theo dõi biêngiới.
(2) Hoạt động nơi các đường xâm nhập.
(3) Hành quân nơi chiến khu, căn cứ của địch.

Bắt đầu từ năm này, quân cộng-sản đã thay đổi chiến thuật từ du-kích sang trận-địa chiến. Các hoạt động củaLLÐB được phân làm ba loại.Một, thiết lập thêm trại DSCÐ nhằm ngăn chặn mức độ chuyển quân, tiếp vận của địch, bỏ một số trại do áp lực quá nặng của địch và phòng thủ các trại dọc theo biên giới như A-Shau, Lang-Vei, Cồn-Thiên, Lộc-Ninh, Bù-Ðốp.

Thứ hai, mở các cuộc hành quân ngoại lệ như Hành-quân Delta trong vùng I chiến thuật. Hành quân Black-Jack 33 ở vùng III trong kế-hoạch Hành-quân Sigma. Ðây là cuộc hành quân đầu tiên phối hợp giữa đơn-vị du-kích lưu động và đơn vị xung-kích tiếp ứng. Hành-quân Black-Jack 41, hai đại đội xung-kích lưu động nhẩy dù xuống tấn công căn cứ địch trong vùng núi Thất Sơn dưới vùng IV. Một
đơn-vị xung-kích khác tảo thanh nơi Suối Ðá trong vùng III loại khỏi vòng chiến một tiểu-đoàn Việt cộng trong hành quân Attleboro.

Cuối cùng là những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị chính-quy bạn. Hành quân Nathan Hale phối hợp giữa DSCÐ, sư-đoàn 1 Không-Kỵ và sư-đoàn 101 Dù Hoa-Kỳ. Hành quân Henry Clay và Thayer. Hành quân Rio Blanco ở vùng I bao gồmcác đơn-vị thuộc DSCÐ, Ðiạphương-quân, Biệt-động-quân Việt-Nam, Thuỷ quân lục chiến Ðại-Hàn, và TQLC/HK. Hành quân Sam Houston trên vùng II phối hợp giữa sư-đoàn4 Bộ-binh Hoa-Kỳ và DSCÐ.

IV. HÀNH QUÂN NGOẠI LỆ.
Với sự thành lập các đơn vị du-kích lưu-động và Hành quân Sigma, Omega trong thời gian từ tháng tám cho đến tháng mười năm 1966, khả năng về Chiến-tranh Ngoại lệ của LLÐB gia tăng. Một trong những đặc tính củaLLÐB là khả năng mở các cuộc hành quân ngắn hoặc lâu dài nơi vùng địch kiểm soát.

Lực-lượng Du-kích lưu-động được thành lập vào mùa thu 1966, cải tiến và phát triển từ quan niệm về đơn-vị xung kích lưu-động. Những đơn-vị du-kích này được tổ chức, huấn-luyện và trang-bị để hoạt-động xa, nơi Việt cộng hoặc Bắc quân xem như thiên đàng. Trang bị nhẹ, các quân nhân thuộc đơn-vị này xâm nhập vào vùng địch, do-thám đường mòn, tìm kiếm dấu vết, căn-cứ địch, thâu lượm tin tức
tình báo về những cuộc chuyển quân của địch. Khi phát giác ra nơi đóng quân của địch, toán du-kích sẽ theo dõi các hoạt động của địch, phục kích lẻ-tẻ, quấy rối, đặt mìn bẫy. Trường hợp tìm thấy kho tiếp liệu, toán sẽ tìm cách phá hủy hoặc hướng dẫn phi cơ oanh kích.

Một đơn-vị du-kích thường được đưa vào vùng hoạt động bằng tất cả mọi phương tiện có sẵn. Khi đã vào vùng, đơnvị thực sự trở nên du-kích quân. Ðồ tiếp tế được thực hiện qua không trợ. Ðơn vị này thường hoạt động trong lòng địch một thời gian từ ba mươi đến sáu mươi ngày. Họ trở thành những 'Chủ nhân ông' trong khu vực hoạt động, được toàn quyền hành động kể cả vấn đề không trợ, để đạtmục tiêu. Ðể tránh bị lộ hành tung, đôi khi phải cho đồ tiếp tế vào bom Napalm giả do khu trục cơ A1E Skyraider thả xuống trong một phi vụ oanh kích gỉa tạo.

Ngoài việc phát triển đơn-vị du-kích cho mỗi vùng chiến thuật. Liên-đoàn 5 LLÐB/HK còn tổ chức thêm những cuộc hành quân ngoại-lệ khác như Hành-quân Omega và Sigma. Hai tổ chức hành quân trên làm tăng thêm khả năng viễn thám, thâu lượm tin-tức tình báo của liên-đoàn ngoài tổ chức Hành-quân Delta đã có sẵn. Mỗi tổ chức có quân số khoảng 600 người, gồm một đơn-vị viễn-thám và một đơnvị xung-kích tiếp-ứng, thêm một toán cố-vấn tổ chức như BCH B của LLÐB.

Hành quân Delta được đặt dưới quyền chỉ huy hỗn hợpLLÐB Việt-Mỹ và theo lệnh trực tiếp của Bộ Tổng-thammưu QLVNCH và BCH Quân Viện Hoa-Kỳ (MAC-V). Các toán hành quân Delta được tiểu-đoàn 91 Biệt-cách-dù sẵn sàng làm lực-lượng tiếp-ứng yểm-trợ. Các toán hành-quânOmega và Sigma được LLÐB trực tiếp chỉ huy và chỉ chịu trách nhiệm hoạt động ngoài vùng I và II chiến thuật. Các toán này được các đơn vị xung-kích lưu-động thuộc lực lượng DSCÐ yểm trợ.

V. HUẤN LUYỆN VÀ KHÔNG TRỢ
Chương trình huấn-luyện cho các cuộc hành-quân ngoại-lệ trước hết là phần huấn luyện về bộ-binh, kỹ thuật tác chiến trong vùngÐông-nam-Á. Những quân nhân được tuyển chọn cho hành-quân ngoại-lệ thường đã trải qua thời gian phục-vụ trong lực-lượng DSCÐ và đã có kinh nghiệm chiến-đấu. Phần huấn luyện kỹ thuật hành quân ngoại-lệ bắt đầu từ giai đoạn này. Ðầu tiên là phải qua khóa huấn luyện nhẩy-dù, sau đó là các môn học đặc biệt về hành quân như: di-chuyển lặng-lẽ, bí mật, phương-pháp tìm dấu vết, theo-dõi, cách xử-dụng bản đồ, điạ bàn, dụng-cụ làm dấu, những kỹ thuật xâm nhập, triệt-thoái vùng thámsát, hoạt-động, xử dụng các loại vũ-khí đặc biệt, cứu thương, kỹ thuật đột-kích, phục kích.

Chương trình huấn luyện kéo dài năm hay sáu tuần-lễ, sáu ngày một tuần và khoảng mười tiếng đồng hồ mỗi ngày. Các buổi huấn luyện trong căn-cứ và thực tập ngoài bãi tập.

Vấn đề hành-quân ngoại lệ rất cần phần không trợ. Phi đoàn không-yểm thuộc Lục quân Hoa-Kỳ biệt phái choLiên-đoàn 5 LLÐB đã yểm trợ trực tiếp bằng những trực thăng võ trang và chuyển vận. Ngoài ra Không lực Hoa-Kỳ cung cấp phương tiện chuyển vận, đổ quân cấp đơn-vị lớn và về tiếp liệu. Không lực Hoa-Kỳ và Việt Nam còn yểm trợ thêm về phần oanh-kích hoặc chuyển tiếp công-điện qua hệ thống truyền tin. Ngoài vùng I chiến thuật, máy bay của Thuỷ quân Lục chiến Hoa-Kỳ cũng cung cấp những phương tiện yểm trợ tương tự.

VI. SOẠN THẢO KẾ HOẠCH HÀNH QUÂN.
Chiến tranh ngoại lệ là một vai trò rất quan-trọng củaLLÐB trên chiến trường nam Việt Nam. Ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, mỗi cuộc hành quân đều được soạn thảo, điều nghiên kỹ-lưỡng trước khi thực hiện và lực lượng tham-dự được di chuyển đến căn cứ tiền phương trước khi ra tay. Thời gian dành cho soạn thảo kế hoạch, chuyển quân tuỳ theo mỗi loại hành quân và độ khẩn của cuộc hành quân.

Soạn thảo lệnh hành quân bắt đầu với đầy đủ chi tiết tình báo về khu vực hành quân. Mọi dữ kiện về điạ thế, thời tiết và những nơi tình nghi có quân địch đều được thâu thập và phân tích. Tất cả những chi tiết đó đều được ghi trên bản đồ, những lộ trình chính và phụ cho nhiệm-vụ trinh sát đều được chọn lựa và đánh dấu. Nguồn tin tức thường được lấy từ các bản báo cáo về tình-báo, không ảnh, thẩm vấn
tù binh, và những bản báo cáo của các đơn-vị bạn đã hành quân qua trước đây. Nếu cần, ban tham mưu soạn thảo lệnh hành quân bay những phi-vụ thám thính khu vực hoạt động trước. Những chuyến bay này rất quan trọng cho quyết định cuối cùng chọn điểm xâm nhập, triệt xuất, chính và phụ.

Khi việc soạn thảo, điều nghiên đã hoàn tất, lệnh hành-quân sẽ được ban ra. Kế tiếp là việc chuẩn bị hành quân, trường-hợp cần thiết phải chuyển quân, vật liệu đến một căn cứ tiền phương đã có không yểm. Nếu chỉ là một toán nhỏ, ít vật liệu, phi cơ trực thăng của Lục quân, TQLC/HK hoặc phi-cơ nhỏ được xử dụng. Nếu cuộc hành quân với quân số cấp đại đội hoặc lớn hơn sẽ được Không lực Hoa-Kỳ cung cấp với loại phi-cơ vận tải C-7A hoặc C130. Khi đến căn-cứ hành-quân tiền phương, đơn-vị sẽ bị thanh-tra để có thể trong vị thế sẵn sàng. Các sĩ quan thuộc quyền sẽ được nghe thuyết trình về mục đích, nhiệm-vụ của cuộc hành quân cùng vớí mệnh-lệnh chi tiết cho từng trung đội, tiểu-đội hoặc toán.

Trong những nhiệm-vụ thám sát, các phương-pháp, thủ tục cho mỗi hoạt-động sẽ được trình bầy chi-tiết tùy theo cuộc hành quân. Khi vào vùng địch, lúc ra khỏi phi-cơ, di chuyển trong khu vực hành quân, trường hợp chạm địch, và giờ giấc cho vấn đề triệt xuất.

Sự thành công trong chiến tranh ngoại lệ tùy thuộc rất nhiều vào yếu-tố bất ngờ. Thêm vào phần an-ninh của toán biệt-kích, nhiều lúc cần phải tìm cách đánh lừa địch quân. Lừa đối phương cũng là một phần quan trọng trong các cuộc hành quân. Tùy theo tình hình, thời tiết, mùa màng và quân số trong cuộc hành quân mà thực hiện các chuyến xâm nhập bằng đường bộ, không hoặc thủy. Tuy nhiên trên chiến trường Việt-Nam, hầu hết các cuộc xâm nhập, triệt xuất đều thực hiện bằng phương tiện trực thăng.

Kinh nghiệm cho biết, thời gian hữu hiệu nhất để thả toán xâm nhập vào lúc trời sắp tối, đủ thì-giờ cho toán lẩn vào bóng tối và trực thăng được bảo vệ bởi bầu trời đen. Tuy vậy, địch quân vẫn khám phá ra phương pháp thả toán của ta và tìm cách đối phó. Do đó phải đánh lừa địch về điểm thả quân, trực thăng sẽ đáp xuống ba chỗ hay hơn nữa trước khi thực sự thả toán. Ðiều này làm cho địch phân vân
không biết đâu là điểm thả quân một cách chính xác. Một phương pháp khác là đoàn trực thăng ba chiếc bay thấp, nối đuôi nhau, chiếc bay đầu bất ngờ đáp xuống thả toán biệt-kích trong chớp nhoáng rồi bốc lên nhanh nối vào đuôi hai chiếc kia làm thành hợp đoàn ba chiếc trở lại.

Trong trường hợp thả toán bằng đường bộ, các toán 'Chạy đường mòn (Roadrunner), viễn thám xâm nhập vùng địch dễ dàng lúc trời tối hoặc ngay lúc ban ngày trong trường hợp căn cứ vẫn thường tung các toán ra tuần tiễu, lục soát mà không theo một phương hướng nhất định. Trong trường hợp khác, toán viễn thám đi xen vào với một đơn vị lớn. Khi thấy an toàn, toán biệt-kích lặng lẽ di chyển đến vùng hoạt động đã được trao phó nhiệm-vụ từ trước.

Tất cả mọi sự di-chuyển trong chiến tranh ngoại lệ đều được soạn thảo cẩn thận. Sự sống còn của một toán viễn thám nhỏ tùy thuộc vào mỗi cá nhân trong toán. Sự hiểu biết về nhiệm-vụ của từng người, đề cao cảnh giác, theo đúng thời khóa biểu lúc di chuyển. Trong kế hoạch hành quân đôi khi có dặn dò thêm trường hợp toán phải phân tán tạm thời trước áp lực của địch, thời gian, vị trí của điểm hẹn,
tập-họp.
Bí mật là đặc tính căn bản trong vấn đề di chuyển của các đơn-vị hành quân ngoại lệ. Mặc dầu địch cũng đề phòng về sự hiện diện của biệt-kích quân, điều quan trọng là địch vẫn không biết rõ vị trí chính xác của toán. Mọi di chuyển phải im-lặng, bàn tay và thủ hiệu được xử dụng để truyền tin và ban lệnh thay cho lời nói, ít xử dụng máy truyền tin và để độ âm thanh tối thiểu, súng đạn đồ trang bị gọn gàng không gây tiếng động khi chạm vào cây lá hơặc đá và tuyệt-đối giữ im lặng khi di chuyển.

Về vấn đề tái tiếp tế cũng được đặt ra, các quân nhân trong chiến tranh ngoại lệ không thể mang theo đồ ăn, đạn dược và vật dụng quá năm ngày. Tùy theo mỗi cuộc hành quân, kế hoạch hành quân cũng nói đến vấn đề tái tiếp tế trong vòng từ ba đến năm ngày tại một địa điểm định trước. Vấn đề đặt ra là sự an-toàn, không để lộ vị trí của toán. Thả dù tiếp tế ban ngày sẽ làm cho địch báo động, đề phòng. Thả ban đêm trong vùng rừng núi, cơ hội thâu hồi kiện hàng rất ít.

Triệt xuất theo đúng hạn kỳ hoặc trong trường hợp khẩn cấp phải đem về một người bị tai nạn bất tử hay cả toán cũng phải tính trước. Lựclượng Ðặc biệt rất thành công từ lúc đầu cho đến giữa năm 1967, hầu hết các toán đều thi hành nhiệm vụ đúng theo hoạch định, hết thời gian, ra điểm hẹn để trực thăng bốc đem về. Những toán 'Chạy đường mòn', viễn thám rất dẽ bị địch tiêu diệt do đó nhân viên trong bộ chỉ huy có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của toán phải chuẩn bị sẵn sàng vấn đề triệt xuất toán trong vùng địch ngay tức khắc khi nhận được báo cáo 'khẩn'.

VII. CÁC CĂN CỨ / BỘ CHỈ HUY LỰC LƯƠNG ÐẶC BIỆT. B-50 LLÐB
(HÀNHQUÂN OMEGA).

Dựa trên sự thành công của các cuộc hành quân Delta và nhu cầu chiến trường, bộ chỉ huy B-50 Lực lượng Ðặc biệt tổ chức Kế-hoạch Hành-quân Omega vào tháng bẩy năm 1966 và đặt tại Nha Trang. Hành quân Omega trực tiếp đảm nhận những cuộc hành quân viễn-thám, thâu thập tin tức tình báo tác chiến, tuy nhiên không như Delta trực thuộc bộ Tổng-tham-mưu và bộ tư-lệnh Quân-viện Hoa-Kỳ, hành quân Omega được thực hiện trên vùng I chiến thuật kể từ ngày 1 tháng chín năm 1967. B-50 LLÐB tuyển mộ các sắc tộc thuộc bộ-lạc người Jah, Rhade và Sedang, người gốc Chàm và Tầu. Ban đầu gồm có tám toán viễn-thám và bốn toán 'Chạy đường mòn', sau đó tăng lên mười sáu toán viễn-thám và tám toán 'Chạy đường mòn'. Trong năm 1968, các toán 'Chạy đường mòn' thuyên-chuyểnqua B-57 LLÐB tiếp tục các hoạt động tuần tiễu lấy tin tức. Hành quân Omega có ba đại đội xung-kích làm thành phần tiếp ứng, trừ bị. Bộ chỉ huy B-50 chấm dứt nhiệm vụ tại Việt Nam vào tháng sáu năm 1972.

B-51 LLÐB TRUNG-TÂM HUẤN LUYỆN ÐỘNG BÀ THÌN.

Ðộng-ba-Thìn là trung tâm huấn-luyện của QLVNCH.Ðến năm 1964, bộ chỉ huy B51 LLÐB đến cố vấn cho chương trình huấn luyện tại trung tâm. Nhiều chương trình huấn-luyện được cải tiến theo thời gian, khóa căn-bản LLÐB Việt-Nam, khóa học Nhẩy dù của LLÐB, huấn luyện cho DSCÐ, võ Tae Kown Do Ðại-Hàn, truyền-tin và các khóa huấn luyện khác.

Năm 1968, B-51 LLÐB dời các khóa huấn luyện đi An-Khê, nhưng đến tháng mười1969 quay trở lại Ðộng-ba-Thìn và căn-cứ được gọi là Trung-tâm Huấn-luyện Quốc gia. Sau đó B-51 được Bộ chỉ huy Quân-viện giao cho nhiệm-vụ huấn-luyện quân đội Campuchia. Bộ chỉ huy B50 LLÐB rời Việt-Nam tháng ba năm 1971.

B-52 LLÐB HÀNH QUÂN DELTA.

Vào tháng năm 1964, cơquan tình-báo CIA khởi đầu chương trình Leaping Lena dùng LLÐB/HK huấn luyệncho LLÐB/VN và lực-lượng DSCÐ trong những nhiệm-vụ thám-sát thâu-thập tin tức. Khi chương trình phát triển, nhu-cầu về nhân lực của LLÐB/HK tăng lên cho đến tháng sáu năm 1965, khi liên đoàn 5 LLÐB/HK được giao phó thêm trách-nhiệm và bộ chỉ huy B-52 được thành thập để chỉ-huy và theo dõi các hoạt động viễn-thám. Chương trình này được gọi là Hànhquân Delta, mỗi toán thường gồm có hai quân-nhânLLÐB/HK và bốn LLÐB/VN, ngoại trừ các toán 'Chạy đường mòn' có từ bốn đến sáu quân nhân Việt, thường mặc quần áo, trang-bị như quân cộng-sản hoạt động trong vùng địch kiểm soát.

Bộ chỉ huy B-52 vẫn thường thay đổi lề-lối làm việc, tổ chức tùy theo nhu-cầu đòi hỏi, mới đầu chỉ có mười hai toán viễn thám LLÐB Việt-Mỹ và mười hai toán DSCÐ 'Chạy đường mòn', một đại đội phòng thủ ngườI Nùng và tiểu-đoàn 81 Biệt-cách-dù với năm đại đội làm đơn-vị xungkích tiếp ứng. Những nhiệm vụ được trao phó cho hànhquân Delta gồm có: Xác-định vị trí đơn-vị địch, thâu thập tin tức tình báo chiến lược, thẩm định sự tàn-phá cho các trận thả bom, lùng và diệt địch, đột kích và phá hoại. Bộ chỉ huy B-52 rất nổi tiếng trong suốt trận chiến.

Ðến năm 1966, chương trình Delta làm việc trực tiếp với bộ chỉ huy Quân Viên (MACV), thi hành những sứ mạng trên khắp Việt Nam. Cũng trong năm này hai chương trình khác Sigma và Omega được phát triển với nhiệm vụ tương-tự, hoạt động trên lãnh thổ vùng I và vùng II chiến thuật. Bộ chỉ huy B-52 còn được MACV giao cho nhiệm vụ huấn luyện lính Hoa-Kỳ về kỹ thuật viễn thám. B-52 đồn trú tại Nha-Trang cho đến tháng sáu năm 1970 khi chương trình Delta chấm dứt.

B-53 NHÓM CỐ VẤN HÀNH QUÂN ÐẶC BIỆT.

Bộ chỉ huy B-53 được chính thức thành lập tại Việt-Nam vào tháng hai năm 1964. Lúc đó đặt tại căn cứ huấn luyệnLLÐB Việt Nam ở Long Thành. Trong thời gian tại đó, nhiều sứ mạng của đơn-vị được đề cao và bảo trợ bởi đơn-vị Nghiên-cứu Quan-sát thuộc bộ chỉ huy Quân-Viện (MACV-SOG).

Khi Liên-đoàn 5 LLÐB/HK rời Việt-Nam năm 1971, vấn đề huấn luyện quân Việt-Nam về chiến-tranh ngoại-lệ vẫncần thiết. B-53 LLÐB trở thành hạt nhân cho chương trình này và vào tháng giêng năm 1971được gọi là nhóm Cố-vấn Sứ-mạng Ðặc-biệt (SMAG). Nhóm mới thành lập này, lúc đầu di chuyển trường huấn-luyện viễn-thám (MACV RECONDO), sau đó lấy bộ chỉ huy Liên-đoàn 5LLÐB làm bộ chỉ huy vào tháng ba.

Nhiêm vụ của nhóm cố-vấn này là huấn luyện, cố-vấn và phụ giúp cho đơn vị Dịch-vụ Sứ-mạng Ðặc-biệt (SpecialMission Service - SMS) của Việt-Nam, đơn vị này là tiền thân của LLÐB/VN trong chiến tranh ngoại lệ. Vào tháng chín năm 1971, đơn vị SMS được lệnh làm việc với Ðơn-vị 1, Sở Liên-Lạc QLVNCH đóng tại Ðà-Nẵng, hậu thân của bộ chỉ-huy Bắc (Sở Bắc) của nhóm Nghiên cứu, Quan-sát MACV (MACV-SOG). Cho đến tháng ba năm 1972, trong vòng mười một tháng, nhóm Cố-vấn Sứmạng Ðặc-biệt (SMAG) hoàn tất việc huấn luyện cho 27 toán hoạt-động và 15 toán viễn thám. Nhóm cố-vấn này chấm dứt nhiệm vụ vào tháng tư năm 1972 và bộ chỉ huy B53 rời Việt-Nam.

B-55 TOÁN LIÊN LẠC TẠI SAIGON.

Với sự hiện diện của LLÐB/HK từ năm 1962, nhu cầu phải có một ban liên lạc gần bộ chỉ huy Quân-Viện Hoa-Kỳ tại Saigon để dễ dàng trong việc soạn thảo, huấn luyện và chuyển những tin tứctình báo. Ðó là nhiệm vụ của toán Liên-Lạc LLÐB B-55, thường được gọi là Trung-tâm Hành-quân Chiến-thuật (TOC), nhưng trên thực tế, cơquan này làm nhiệm vụ giảiđoán tin tình báo. Ðược huấn luyện, hướng dẫn bởi ban Cốvấn Kỹ-thuật Hỗn-hợp (JTAD) và phối hợp với ban Nghiên-cứu Hỗn-hợp (CDS). Sau khi sở Nghiên-cứu, Quansát (MACV-SOG) hoạt-động, B-55 làm nhiệm-vụ phối-hợp giữa hai tổ-chức LLÐB tại Việt-Nam.

Là cơ-quan liên-lạc tại Saigon, B-55 phải lo thủ-tục giấy tờ cho các quân nhân LLÐB/HK tại Việt-Nam. Tham-dự các buổi họp, thuyết trình giữa các bộ chỉ-huy, tuyển mộ Lính . Vào ngày 23 tháng năm 1968, B55 đảm nhận thêm nhiệm vụ chỉ huy Lực-lượng 5 Xung kích Lưu động (Mike Force). B-55 giữ trách nhiệm này cho đến ngày lên đường về Hoa-Kỳ vào năm 1970.

B-56 HÀNH QUÂN SIGMA.

Khi mức-độ chiến trường leo thang, nhu cầu tình báo tác chiến đòi hỏi qúa nhiều, đặt nặng vấn đề cho chương trình Delta. Liên-đoàn 5 LLÐB/HK thành lập bộ chỉ huy B-56 vào tháng tám 1966 để phụ trách chương trình Hành-quân Sigma đặt căn-cứ trong trại Hồ-ngọc-Tảo. Hành quân Sigma được tổ chức tương tự như những chương trình thám sát khác, gồm có tám toán viễn-thám và ba đại-đội xung kích tiếp ứng. B-56 ít tuyển mộ người Thượng, dùng lính người Nùng hoặc Miên. Những toán 'Chạy đường mòn' của chương trình Sigma được chuyển qua bộ chỉ huy B-57 vào năm 1967. Sigma tham gia trong nhiều cuộc hành quân Blackjack trong vùng trách nhiệm hoạt động. Thường làm nhiệm vụ viễn thám cho các cuộc hành quân, đôi khi xử dụng lực lượng cơ-hữu của Sigma phối hợp với lực lượng tiếp-ứng Mike Force.

Ðến tháng mười một 1967, vấn đề chỉ huy hành quân của B-56 được đặt dưới sự kiểm soát của MACV và thuộc quyền xử dụng của viên tư lệnh Quân-đoàn II. Trong năm 1969, B-56 dời đi Ban-mê-Thuột, cuối cùng trở lại Hoa-Kỳ vào tháng năm 1971.

B-57 CHƯƠNG TRÌNH GAMMA.

Từ khi có nhiều đơn-vị trinh sát, viễn-thám hoạt động trên chiến trường Việt-Nam, nhu cầu giải đoán những nguồn tin tình báo thâu thập được và cung cấp tin tức, hướng dẫn về các mục tiêu trở nên hiển nhiên. Vào tháng sáu 1967, bộ chỉ huy B-57 chương trình Gamma được thành lập. Bộ chỉ huy đặt tại Saigon, B-57 có nhân-viên làm việc rải rác khắp các vùng chiến thuật II, III, và IV. B-57 đặc biệt tuyển mộ, điều hành những người lấy tin tức (điệp viên) hoạt động trong vùng địch. Ðể trợ giúp nhân viên tình báo của LLÐB, Lục quân Hoa-Kỳ biệt phái một số chuyên viên tình báo gọi là nhóm Cố-vấn Kỹ thuật Hỗn-hợp. Tổ chức này đã hoạt động hơn một năm và đã thiết-lập một hệ thống gián-điệp nằm-vùng, có sẵn những nguồn tin tình báo. B57 còn giữ sự liên-hệ mật thiết với các cơ-quan khác của chính quyền nhằm mục đích trao đổi, thẩm định tin tức và phối hợp các hoạt động tình báo. Chương trình Gamma chấm dứt vào tháng ba năm 1970 khi B-57 rời Việt-Nam.

TRƯỜNG VIỄN THÁM (RECONDO SCHOOL).

Khi chương trình Hành-quân Delta tăng thêm quân-số, nhu cầu huấn-luyện về kỹ thuật tuần-tiễu thám-sát được đặt ra. Vào tháng năm 1964, chương trình Delta bắt đầu huấn-luyện trong phạm-vi căn-cứ tại Nha-Trang. Một thời gian ngắn sau, các đơn-vị bắt đầu nghe đến khóa huấnluyện viễn-thám và được phép gửi quân nhân về học. Khi cơ-quan MACV được báo cáo kết qủa tốt đẹp của việc huấn luyện, ra chỉ thị cho liênđoàn 5 LLÐB đảm trách về khóa học. 15 tháng chín năm 1966 là ngày chính thức khai giảng trường huấn luyện Viễn-Thám MACV với ban huấn luyện thuộc bộ chỉ huy B-52. Khóa học dài ba tuần về kỹ thuật tác chiến, tuần-tiễu, trinh-sát. Khóa sinh phải đầy đủ sức khỏe, đã ở Việt-Nam tối thiểu một tháng và còn sáu thángphục vụ. Ưu tiên dành cho những quân nhân đến từ các toán A LLÐB, các đại-đội Biệt-động-quân, các toán viễn-thám và các đơn-vị trinh sát khác.

Sau này trường huấn luyện thêm khóa hướng dẫn về chiến-đấu cho các quân nhân LLÐB/HK mới đến Việt-Nam. Trường chính thức đóng cửa vào tháng mười một năm 1970.

LỰC-LƯỢNG DU KÍCH LƯU ÐỘNG.

Ý tưởng về Lực-lượng Du kích Lưu-động (MGF) dựa trên quan-niệm đặt những đơn-vị sâu trong vùng địch kiểm soát trong một khoảng thời gian, nhằm khuấy phá căn-cứ và các hoạt-động của địch. Bắt đầu từ năm 1966, đơn-vị Du-kích Lưu-động gồm có một toán A LLÐB và một đại-đội 150 người DSCÐ hoặc Mike Force, đã được huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu lâu dài và một trung đội trinh sát 34 người. Dưới danh-hiệu Blackjack, những đơn-vị này được đưa sâu vào vùng địch và nhận tiếp-tế bằng phương tiên thả dù. Hành quân Blackjack 21 xử dụng đơn-vị đặc nhiệm 777 gồm 15 quânnhân LLÐB/HK và 249 quân nhân Thượng. Blackjack 22 gồm có một đại đội xung-kích Mike Force và một đại đội Du-kích lưu-động. Blackjack 33 gồm đại đội 3 xung kích Mike Force và đại đội du-kích 957. Có nhiều cuộc hành quân Blackjack được tổ chức trong năm sau, cuối cùng các đạiđội Du-kích kết hợp với các đại đội xung-kích Mike Force thành đơn-vị cấp tiểu đoàn Xung-kích Lưu-động.

LỰC LƯỢNG XUNG KÍCH LƯU ÐỌÂNG (Mobile Strike Force).

Mặc dầu các trại LLÐB đều có lực lượng xung-kích cơ hữu để trả đủa tức thời, tuy nhiên vẫn phải có thêm lực lượng tiếp-ứng khác đặt dưới quyềnđiều-động trực tiếp của LLÐB trong trường hợp khẩn cấp, giải vây trại LLÐB trước áplực nặng nề của địch. Một quyết định được tiến hành vào tháng sáu năm 1966, thành lập một đơn-vị trừ bị cho mỗi quân-khu và đặt trực thuộc bộchỉ huy LLÐB quân-khu (Bộ chỉ huy C). các tiểu đoàn tiếp ứng được huấn-luyện và bắt đầu hoạt động từ mùa thu 1966. Mới đầu gọi là Lựclượng Trừ bị Lưu-động, sau trở thành 'Mike Force' (Mobile Reaction Forces - MRF). Năm 1967, tên gọi chính thức cho các đơn-vị trên là Lực-lượng Xung-kích Lưu-động (Mobile Strike Force - MSF), mỗi quân khu đều có một đơn-vị riêng và đơn-vị thứ năm được thành lập xử-dụng cho bốn quân khu.

Mặc dầu dự định là một đơnvị trừ bị đa-dụng, đơn-vị xungkích trước tiên được xử dụng như lực lượng bảo vệ căn-cứ. Mỗi đại đội có 184 người, được tổ chức như đơn vị chínhquy trang bị súng cộng-đồng. Những đại-đội này được gom lại thành tiểu đoàn 552 người. Tiểu-đoàn xung-kích thường có thêm đại đội trinh-sát 135 người và bộ chỉ huy, đại-đội công-vụ 227 người. Nhiệm vụ chính là giải vây cho các trạiLLÐB, trong năm đầu, lực lượng xung-kích phối hợp với lực-lượng du-kích trong nhiều cuộc hành-quân. Về sau thường được xử-dụng tiếp-ứng cho toán Nghiên-cứu, Quansát (MACV - SOG) khi khẩn cấp. Ðến năm 1967, lực lượng du-kích sát-nhập vào lực lượng xung-kích và hoạt độngcho đến khi LLÐB/HK bàn giao cho QLVNCH.

Chiến-đoàn 1 xung-kíchtrực thuộc B-16 LLÐB, thành lập vào tháng hai 1966 và đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C1/LLÐB tai Ðà-Nẵng. Trong 5 năm hoạt-động trên chiến trường vùng I, chiến đoàn 1 xung-kích gồm có hai tiểu-đoàn, một đại-đội trinh sát, bộ chỉ huy và đại-đội công-vụ.

Chiến-đoàn 2 xung-kích trựcthuộc B-20 LLÐB ở Plei-Ku, B-23 ở Ban-mê-Thuột và B24 trên Kontum. Tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C2/LLÐB trách nhiệm trên lãnh thổ quân-khu II. Trong 5 năm hoạt-động, chiến-đoàn 2 xung-kích gồm có năm tiểu-đoàn, một đại đội trinh sát, bộ chỉ huy và đại đội công vụ.

Chiến-đoàn 3 xung-kích thành lập vào tháng mười một năm 1967 và đặt dưới quyền điều động của bộ chỉ huyC3/LLÐB, chịu trách nhiệm trên lãnh thổ quân-khu III. Bộ chỉ huy B-36 LLÐB chỉ huy trực tiếp chiến-đoàn 3 xungkích gồm có ba tiểu-đoàn, đại-đội trinh-sát, bộ chỉ huy cùng đại đội công-vụ. Vào cuối năm 1970, chiến đoàn dược chuyển giao cho QLVNCH, B-36 trở về Hoa-Kỳ tháng hai năm 1971.

Chiến-đoàn 4 xung-kích trực thuộc B-40, bộ chỉ huyC4/LLÐB gồm có ba tiểuđoàn, đại-đội trinh-sát, đại đội xuồng bay (Air boat) 184 người, bộ chỉ huy cùng đại-đội công-vụ. Mới đầu chịu trách nhiệm trên quân-khu IV đến tháng tám năm 1969, đặt dưới quyền điều động của Biệt-khu 44. Bắt đầu từ tháng năm 1970, chiến đoàn được bàn giao cho QLVNCH, B40/LLÐB/HK về nước tháng
mười hai năm 1970.



LIÊN ÐOÀN NGHIÊN CỨU, QUAN SÁT (MACV SOG).


Liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát thuộc bộ chỉ huy Quân-Viện (MACV - SOG) là một đơn-vị tuyệt-đối cho các hành quân đặc biệt. Ngay từ lúc khởi đầu, danh hiệu Nghiên-cứu, Quan-sát (đôi khi gọi là Hành quân Ðặc biệt) được dùng làm tên che mắt (Code name - Danh hiệu) cho các cuộc hành quân tối mật về tình-báo.


Cơ-quan Trung-ương Tìnhbáo CIA đã từ lâu yểm trợ cho các dịch-vụ bí-mật của chính quyền VNCH cho đến năm 1963, lúc đó cơ-quan trở thành bộ chỉ huy Lực-lượngÐặc-biệt Việt-Nam và thực hiện những cuộc hành quân đặc biệt. Cường-độ chiến tranh gia tăng, nhu cầu cho các hoạt-động tăng lên.


LLÐB/VN phát triển trở thànhSở Khai-thác Ðặc-biệt. Vào ngày 16 tháng giêng năm 1964, bộ chỉ huy mới Liênđoàn Nghiên-cứu, Quan-sát được thành lập trong Chợ-Lớn cho các cuộc hành quân đặc biệt. Năm 1966, bộ chỉ huy MACV-SOG dời ra Saigon, bộ phận Bộ đóng trong phi trường Tân-sơn-Nhất, bộ phận Không yểm dời ra Nha Trang, và bộphận Hải yểm đóng ngoài Ðà-Nẵng.


Các sứ-mạng của MACVSOG nhắm trực tiếp vào những nơi địch kiểm-soát trong miền nam Việt-Nam, và vượt biên sang đất Lào, Campuchia, Bắc Việt và nam Trung-Hoa. Những nhiệm-vụ đặc biệt bao gồm việc thuthập tin-tức tình báo chiếnlược, phá-hoại đường giao liên, tiếp vận của địch, chiến tranh tâm-lý, cứu tù-binh và phát triển phong-trào kháng chiến chống lại chính-quyền, v.v... Những nhiệm-vụ thám sát của Liên-đoàn Nghiên cứu, Quan-sát (MACV-SOG) được chọn lựa kỹ càng và những bản báo-cáo sau chuyến xâm-nhập thường được gửi về Ngũ-giác đài để đánh gía và phân phối đi.


Năm 1967, MACV-SOG được tổ chức lại đơn-vị Bộ thành ba bộ chỉ huy: Bộ chỉ huy Bắc (CCN) ở Ðà-Nẵng, Trung (CCC) trên Kontum và Nam (CCS) ở Ban-mê-Thuột. Những bộ chỉ huy này được tổ chức bằng cách gom lại một số căn-cứ hành-quân tiền phương (FOB), mà trước đây được thiết lập để yểm trợ tiếp cận cho những cuộc hành quân xâm nhập. Các căn cứ này đóng ở Phú-Bài (Huế), Kontum, Khe-Sanh, Non-Nước, Ban-mê-Thuột và trại Hồ-ngọc-Tảo. Bộ phận (Sở) Bộ gồm hơn 1600 quânLLÐB/HK, chia ra hơn 70 toán thám-sát và 8000 quân LLÐB Việt-Nam.


Cách tổ chức cuả Liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát (MACV-SOG) cũng gần như song-song với tổ chức của Lực-lượng Ðặc-biệt với các toán xâm-nhập tương đương với các toán A LLÐB, căn-cứ hành-quân tiền-phương tương đương với bộ chỉ huy BLLÐB, các bộ chỉ huy Bắc, Trung, Nam tương đương với các bộ chỉ huy C LLÐB.


Bộ phận (Sở) Không yểm bao gồm Phi-đoàn 90 Hànhquân Ðặc-biệt (SOS) của Không-lực Hoa-Kỳ, đóng tại Nha Trang, cung cấp máy bay C-130. Phi đoàn 20 (SOS) có bộ chỉ huy ở vịnh Cam Ranh, các đơn-vị phụ thuộc đóng tạiBan-mê-Thuột, Ðức-Lập và Tiêu Atar cung cấp trực thăng yểm trợ. Ngoài ra MACVSOG còn có đơn-vị trực thuộc là Phi-đoàn Ðệ Nhất (First Flight) đóng rải rác khắp nơi
và Thái-Lan.


Bộ phận Hải yểm đóngngoài Ðà-Nẵng gồm có đơnvị Biệt-kích (SEALs) của Hải quân Hoa-Kỳ, các siêu tốc đỉnh và các toán Người Nhái, phá-hoại dưới nước thuộc Hải-quân Việt-Nam.


MACV-SOG còn có một trung tâm huấn luyện và đơn vị xâm-nhập bằng dù ở LongThành. Ðơn-vị này gồm các quân-nhân Việt-Nam, được thả vào vùng địch bằng phương tiện nhẩy-dù.


Cơ-quan MACV-SOG ngưng hoạt động kể từ ngày 30 tháng tư 1971 và chương trình được giao cho toán Yểm trợ Nha Kỹ-Thuật 158 (STDAT). Một số quân Bộ đã chuyển qua nhóm Cố-vấn Hành-quânÐặc-biệt từ tháng ba năm 1971. Cuối cùng chấm dứt nhiệm-vụ vào ngày 12 tháng ba năm 1972. Kết thúc một trong những huyền thoại trong ngành Lực-lượng Ðặc-biệt.


BỘ CHỈ HUY (CCN) SỞ BẮC.


Bộ chỉ huy Bắc được thành lập vào ngày 01 tháng mườimột năm 1967 tại Ðà-Nẵng với ba bộ chỉ huy tiền-phương 1 tại Phú-Bài, bộ chỉ huy tiềnphương 3 tại Khe-Sanh và bộ chỉ huy tiền-phương 4 tại Non- Nước. Quân nhân thuộc Liênđoàn 5 LLÐB/HK và ban cố vấn Hải-quân.


Các hành quân vượt biên do BCH Bắc tổ chức nhắm vào miền bắc Việt-Nam và Lào. Những cuộc hành quân trong vùng nam Lào dưới danh hiệu Shining Brass bắt đầu từ năm 1965 nhằm phá-hoại đường dây xâm nhập người và vật liệu. Sau đó đổi tên là Prairie Fire, khi chuyển qua Nha Kỹ- Thuật cuộc hành quân lấy tên là Phù-Dung.


Như tất cả các cuộc hành quân thám-sát, BCH Bắc cũng có đơn-vị tiếp ứng gọi là đơn-vị Cảm- Tử đặc biệt. Ngoài ra còn thiết lập những căn cứ hành quân bí mật bên Thái Lan. Tuy nhiên, nhiệmvụ chính vẫn là trinh-sát, thâu thập tin tức tình báo chiến lược.


BỌÂ CHỈ HUY (CCC) SỞ TRUNG.


Bộ chỉ huy này đóng tại Kontum gồm quân của Liênđoàn 5 LLÐB/HK, có thời gian được xem như phần nớirộng hành quân của LÐ 5LLÐB. Khu vực trách nhiệm của bộ chỉ huy là tam giác Lào, Miên và Việt. Các cuộc hành quân lúc đầu lấy tên là Daniel Boone, sau đổi thành Salem House nhằm phá hoại căn cứ, kho tiếp-liệu che dấu của quân cộng-sản Bắc Việt, đặc biệt trong vùng đông-bắc Campuchia. Trong Bộ chỉ huy Trung có tất cả 30 toán thám-sát, mỗi toán gồm 3quân nhân LLÐB/HK và chín quân nhân Việt-Nam. Ngoài ra còn có bốn đại-đội khai thác, xử dụng tin tức do các toán thám-sát cung cấp trong các cuộc hành quân lùng và diệt.


BỘ CHỈ HUY (CCS) SỞ NAM.


Bộ chỉ huy này được thành lập vào tháng mười một năm 1967 đồn trú tại Ban-mê-Thuột. Bộ chỉ huy này nhỏ nhất trong các bộ chỉ huy của liên-đoàn Nghiên-cứu, Quansát (MACV-SOG). Khu vực hoạt động chính nơi đồng bằng Cửu Long và Campuchia. Ðơn-vị gồm có một số toán thám-sát và bốn đại đội khai thác. Do địa thế dưới vùng đồng bằng, các đại-đội khai thác thường xử dụng xuồng bay trong các cuộc hành quân tiếp ứng. Sự tham chiến của các quân nhân Hoa-Kỳ trong đơn-vị này chấm dứt vào tháng giêng năm 1973, tất cả các đơn-vị Hoa-Kỳ trở về nước.


IX. ÐOẠN KẾT.
Trong chiến tranh Việt-Nam, rất nhiều giai thoại nói về binh-chủng Lực-Lượng Ðặc-Biệt. Nhưng ít người hiểu biết tường tận, ngay cả đến những quân nhân phục vụ trong ngành LLÐB. Ðiều này không nên lấy làm lạ vì đó là đặc tính căn bản (Sống chết) của LLÐB... 'BÍ MẬT'. Nhiều đơn-vị có tên nghe rất lạ, Lôi-Hổ, Thám-sát, Sở Công-tác,liên-lạc, Biệt-kích v.v... Ðối với quân đội Hoa-Kỳ, các quân nhân LLÐB được coi như những chiến-sĩ can trường, được tuyển chọn và huấn luyện đầy đủ nhất. Trong QLVNCH, binh-chủng LLÐB Việt Nam gồm những chiến-sĩ can-đảm, gan-lì, đôi khi hơi bí-mật... Họ là những 'Bóng ma biên giới' đối với quân cộng sản. Binh chủng LLÐB đã đóng góp rất nhiều công lao, xương máu cho miền Nam tự do của chúng ta, mặc dầu những chiến công, sự chiến đấu của họ cũng thầm lặng... bí mật.




-Harry Pugh, U.S. Special Forces, C&D Enterprises, Arlington, VA. 1993 -Francis J. Kelly, The Green
Berets, Brassey Inc., New York, NY. 1991 -Special Forces and Missions, Time-Life books, Alexandria, VA.
Dallas, Cọp Khánh-Hòa


Trận Chiến Bí Mật - NKT/TTM
Trong chiến tranh Việt-Nam, một đơn-vị tối mật được ít người biết đến với danh hiệu Nha-Kỹ-Thuật thuộc bộ Tổng-Tham-Mưu, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Những quân-nhân trong đơn-vị bí mật này thường được gọi là Lôi-Hổ hoặc xếp họ vào hàng lính Biệt-Kích thuộc binh-chủng Lực-Lượng Ðặc-Biệt. Người Hoa-Kỳ cho rằng Nha-Kỹ-Thuật là một huyền thoại trong cuộc chiến tranh Ðông-Dương. Cả hai đơn-vị NKT và LLÐB đều được Hoa-Kỳ yểm trợ mạnh mẽ, NKT có tổ chức riêng biệt dựa theo cơ-cấu tổ chức của LLÐB. Các 'Sở' hoặc Bộ-Chỉ-Huy (CCN, CCC, CCS - Command & Control North, Central, South) tương đương với các Bộ-Chỉ-Huy 'C' (C1, C2, C3, C4) của LLÐB. Các 'Căn-cứ Hành-Quân Tiền-phương' (FOB – Forward Operation Base) tương-đương với các BCH 'B' (B50, B52, B57, v.v...). Các toán 'Lôi-Hổ' tương-đương với các toán 'A' biên-phòng. Bài viết này theo tài liệu trong cuốn 'SOG – The Secret Wars of America's Commandos in Vietnam', tác giả John L. Plaster.
Tháng Hai 1961, môt chiếc thuyền đóng theo kiểu những thuyền đánh cá khác ở Bắc Việt-Nam trôi bềnh bồng ngoài khơi vịnh Bắc Việt, lặng lẽ hướng về Cẩm-Phả, một thành phố nhỏ ven biển. Hai đêm trước, họ đã lướt qua hải cảng Hải-Phòng một cách êm-thấm. Ðêm nay lúc hoàng hôn, họ có thể thấy mờ-mờ những rặng núi trong tỉnh Quảng-Ðông của Trung-Hoa vào khoảng 40 dặm về phiá bắc. Trường hợp không may xẩy ra, nếu họ bị bao vây, sẽ không có một chiếc tầu nào của phe ta đến tiếp cứu họ. Chiếc thuyền con không được đóng ở ngoài Bắc mà ở Vũng- Tàu cách xa 800 dặm, những người lái tầu đã được cơ-quan tình báo CIA Hoa-Kỳ bí-mật tuyển mộ và huấn luyện để đưa một người Việt-Nam tuổi khoảng trung tuần đem theo máy truyền tin xâm nhập vào miền Bắc. Ðiệp viên bí danh Ares đã đặt chân lên miền Bắc thành công mỹ-mãn. Dưới thời tổng-thống Kenedy, điều-khoản số 52 trong Hội Ðồng An-Ninh Quốc-Gia chấp thuận cho cơ-quan CIA xư ûdụng quân Biệt-Kích Mũ- Xanh (Special Forces) và đơnvị Người Nhái Hải Quân (Navy SEALs) để huấn-luyện, cố-vấn quân-nhân Việt-Nam

Trận Chiến Bí Mật - NKT/TTM
trong những nhiệm-vụ bí-mật do ông trùm Xịa CIA Colby tổ chức. Tại thành phố bờ biển Nha-Trang, Lực-Lượng Ðặc-Biệt Hoa-Kỳ huấn luyện cho Biệt- Kích quân Việt-Nam thuộc Liên-Ðoàn 1 Quan-Sát để dò thám đường mòn Hồ-Chí- Minh. Trong năm 1961-1962, Liên-Ðoàn 1 Quan-Sát tổ chức 41 cuộc hành-quân viễn thám, tìm kiếm dấu vết đường xâm-nhập cuả địch qua ngã Lào. Trong khi đó, ngoài Ðà- Nẵng, toán người-nhái Hoa- Kỳ huấn luyện thủy-thủ Việt- Nam, chuyên chở người xâm nhập miền Bắc bằng đường biển. Ngoài ra tổ chức thêm những toán Biệt-Hải với nhiệm-vụ mở những cuộc tấn công bất ngờ các mục tiêu dọc theo bờ biển miền Bắc. Sau vài chuyến thành công, Hải- Quân Bắc Việt đã đề phòng, ngăn chận đánh chìm một số hải thuyền. Sau khi nhận định lại tình hình, cơ-quan CIA đổi hướng xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng-không qua sự tiếp tay của Không-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Các nhân-viên (Trong giai đoạn này họ là dân-sự) xắp xâm nhập miền Bắc được huấn luyện trong căn cứ ở Long-Thành, cách Saigon khoảng 20 dặm về hướng đông. Quân Mũ-Xanh và nhân viên CIA huấn luyện họ về ngành tình-báo, kỹ-thuật phá hoại, xử-dụng vũ-khí, nhẩy dù, đánh morse và mưu-sinh. Những khả năng để họ có thể hoạt động trong nhiều năm ngoài Bắc.

Ðến cuối muà Xuân 1961, điệp-viên Ares vẫn thường gửi những điện văn morse đến trung tâm truyền tin viễn thông của CIA ở Phi-Luật-Tân để báo cáo. Không như điệp viên Ares, ra đi đơn độc. Bây giờ đến giai đoạn thả những toán biệt kích xâm-nhập từ 3 đến 8 người. Họ không được may mắn như điệp-viên Ares.

Chuyến đầu tiên thả toán Atlas, toán này không có cơ hội để gửi điện văn báo cáo là đã đến nơi, chiếc máy bay chở họ cũng biến mất luôn! Tướng Kỳ đích thân lái phi vụ thứ hai thả toán Castor sâu vào miền Bắc Việt-Nam. Ba tháng sau, Hà-Nội làm rùm beng vụ đem xét-xử ba người sống sót trong toán Atlas. Ít lâu sau toán Castor cũng mất liên-lạc, rồi đến hai toán Dido và Echo cũng nằm trong tay địch quân. Toán cuối cùng thả xuống miền Bắc trong năm 1961 là toán biệt kích Tarzan cũng mất tích. Trong mùa hè 1962, cơ-quan CIA đồng-ý bàn giao các hoạt động trong vùng Ðông-Nam- Á cho quân-đội trong vòng 18 tháng. Chương trình bàn giao có tên là Kế-Hoạch Trở-Lại (Operation Switchback). Rồi thì chính-biến 1-11-1963 xẩy ra và nhiều biến đổi trong miền Nam Việt-Nam làm cho kế-hoạch chậm trễ. Quân-đội Hoa-Kỳ vẫn chưa có một đơn vị đặc biệt nào để đảm nhận chương trình của CIA bàn giao.

Hà-Nội gia tăng mức độ xâm nhập vào miền Nam làm cho bộ-trưởng Quốc-Phòng Mc Namara ra lệnh thả nhiều toán 'Biệt-Kích' ra ngoài Bắc phá hoại 'Giới lãnh-đạo miền Bắc nên biết rằng họ sẽ phải trả giá nếu còn tiếp tục nuôi dưỡng, cho quân xâm nhập vào miền Nam'. Kế-hoạch 34A (OPLAN-34A) ban-hành ngàỵ 15 tháng 12 năm 1963 giới hạn cho một số mục tiêu. Mặc dầu Mc Namara thúc đẩy, kế-hoạch 34A bắt đầu từ ngày 1 tháng Hai 1964, Bộ- Chỉ-Huy Quân-Viện (MACV) mới lập xong một đơn vị cho các hoạt động bí mật của CIA.

Ðơn vị này do một đại-tá chỉ huy và bao gồm nhiều đơn vị, từ LLÐB, Người Nhái, Không-Ðoàn Cảm-Tử (Air Commando). Ðơn vị mới này lấy tên là SOG (Special Operation Group) Liên-Ðoàn Hành-Quân Ðặc-Biệt. Sau đó đổi tên để bảo mật mặc dầu vẫn viết tắt là SOG (Study and Observation Group) Ðoàn Nghiên-Cứu, Quan-Sát, tên mới nghe có vẻ chỉ gồm những chuyên-gia hoặc những nhà giáo.
Ðơn-vị mới SOG không trực thuộc cơ-quan MACV hoặc cấp chỉ huy của MACV là tướng William Westmoreland, mà nhận lệnh thẳng từ bộ TTM/QLHK (JCS) trong Ngũ- Giác-Ðài và thường nhận lệnh từ tòa Bạch Ốc. Chỉ có 5 sĩ quan cao cấp Hoa-Kỳ ở Saigon được báo cáo về những hoạt động bí-mật của SOG: Tướng Westmoreland, tham-mưu-trưởng của ông ta, trưởng phòng Nhì, tư-lệnh Ðệ- Thất Không-Lực, và viên tưlệnh lực-lượng Hải-Quân HK tại Việt-Nam.

SOG được chấp thuận mở những cuộc hành quân phát xuất từ miền Nam Việt-Nam, và Thái-Lan vào đất Ai-Lao, Miên, Bắc Việt và có thể ở phiá bắc Miến-Ðiện, Quảng Ðông, Quảng Tây, Hồ-Nam và đảo Hải-Nam bên Tầu. Ngân khoản dành cho SOG sẽ dấu trong ngân khoản dành cho Hải-Quân Hoa-Kỳ.
Trùm SOG là một sĩ-quan thuộc binh-chủng Nhẩy-Dù trong trận Thế-Chiến thứ Hai, sau đó chuyển qua Lực-Lượng Ðặc-Biệt trong thập niên 50. Ðại-Tá Clyde Russell đã từng theo sư-đoàn 82 Dù nhẩy xuống Pháp, Hòa-Lan, sau đó chỉ-huy Liên-Ðoàn 10 LLÐB bên Âu-châu, sau đó là LiênÐoàn 7 LLÐB trong căn-cứ Fort Bragg, North Carolina. Trong kế-hoạch 34A, đại-tá Russell và ban tham-mưu thay đổi cơ-cấu tổ chức của Liên Ðoàn Nghiên-Cứu Quan-Sát dựa theo tổ chức OSS xâm nhập với sở Không yểm, Hải yểm và một đơn-vị Tâm-lý chiến. Cơ-quan CIA cho SOG xử-dụng hệ-thống tiếp-liệu đặc biệt với những đồ chơi 'Xa-xỉ phẩm' như vũ-khí tối tân, dụng cụ câu dây điện thoại để nghe lén. Ðồ tiếp liệu bí mật này có trong căn cứ Chinen ở Okinawa. Ngoài ra còn có thêm văn phòng chuyên lo việc tiếp liệu cho đơn vị SOG và LLÐB.

CIA bàn giao thêm cho SOG một phi đội C-123 từ Ðài- Loan do các phi-công Ðài- Loan lái để thay thế các máy bay C-47 của Không-Lực VNCH. Phi-đội này có tên là Ðệ Nhất gồm bốn chiếc C- 123. Mỗi chiếc có một phi hành đoàn phụ Hoa-Kỳ để bay những phi vụ trong miền Nam, các phi-công Ðài-Loan bay những phi vụ ra Bắc hoặc qua đất Miên. Những phi công Ðài-Loan này không biết tiếng Việt, có thẻ căn-cước Việt-Nam nhưng chỉ một số rất ít viên chức Việt-Nam mới biết họ là ai. CIA cũng bàn giao thành quả 3 năm hoạt-động của họ cho tới năm 1964.

Tất cả 22 toán thả ra ngoài Bắc, chỉ còn liên-lạc được 4 toán Bell, Remus, Easy, Tourbillon và Ares. Trong căn-cứ Long- Thành gần Saigon, SOG nhận được khoàng hơn 20 nhân viên đang thụ-huấn. Các sĩ quan SOG không tin tuởng nơi họ và phải loại trừ những quân nhân đó. SOG cũng không thể trả họ về cho QL/VNCH vì họ đã biết những nhiệm-vụ, hoạt động bí mật của cơ-quan ở ngoài Bắc. Cách giải quyết dễ dàng nhất là... cứ thả họ ra ngoài Bắc (Bỏ rơi cho địch quân). Trong tháng Năm, Sáu, Bảy 1964, các toán Boone, Buffalo, Lotus và Scorpion nhẩy dù xuống miền Bắc và đều bị bắt hết. Ngoài ra một số nhân viên khác cũng được gửi ra ngoài Bắc để tăng cường cho hai toán Remus và Tourbillon.

Sau khi thanh toán xong các toán do CIA để lại, SOG bắt đầu tuyển mộ nhân viên mới cho một chương trình huấn luyện dài 21 tuần lễ. Danh từ 'LÔI-HỔ' có từ đây. Ðể yểm trợ cho kế-hoạch 34A tấn công bất ngờ bờ biển Bắc Việt, trong đêm 16 tháng 2 năm 1964, ba thủy thủ người Na-Uy lái chiếc tầu Nasty (chạy rất nhanh, hỏa lực mạnh do Na-Uy chế tạo) chở theo người nhái Việt-Nam dự tính phá hủy một chiếc cầu, bị địch phát giác phải quay trở lại. Mấy đêm sau, một toán phá hoại người nhái khác xâm nhập miền Bắc bị thất bại, mất đi 8 quân nhân thuộc Lực- Lượng Người Nhái HQVN. Qua tháng 7, các tốc đỉnh Nasty và Biệt-Hải dùng chiến thật tấn công bất ngờ rồi chạy, phá hủy được năm mục tiêu ngoài Bắc trong hai ngày 9 và 25 tháng Bảy.

Ngày 30 tháng 7, SOG xử dụng 5 chiếc tốc đỉnh Nasty tấn công những dàn ra-đa gần Hải-Phòng gây nhiều tiếng nổ phụ. Trong tháng Tư 1964, bộ trưởng quốc-phòng Mc. Namara ra lệnh thám-thính phần đất bên Ai-Lao. Chương trình 'Leaping Lena' bắt đầu thả toán đầu tiên qua Lào ngày 24 tháng Sáu, đến 1 tháng Bảy, năm toán Biệt- Kích Việt-Nam nhẩy dù qua biên giới Lào để dò-thám các hoạt động của quân-đội Bắc Việt Chương trình 'Leaping Lena' tới tai cố-vấn của tổngthống Hoa-Kỳ, ông William Bundy qua bản báo cáo 'Tất cả các toán đều bị địch tìm ra vị-trí, chỉ còn bốn người sống sót chạy thoát trở về'. Ðầu năm 1965, phi công Jim Ryan của Air America (CIA), chụp được một số hình ảnh, những con đường mới làm từ đèo Mụ-Già qua phần đất Ai- Lao, hệ thống đường mòn Hồ- Chí-Minh gia tăng. Ngày 8 tháng Ba năm 1965, SOG có một cấp chỉ huy mới là Ðại-Tá Donald Blakburn, một huyền thoại trong ngành Lực-Lượng Ðặc-Biệt.

SOG The Secret Wars Of America's Commandos in Vietnam, John L. Plaster.
VÐH

Trong chiến tranh Việt-Nam, một đơn-vị tối mật được ít người biết đến với danh hiệu Nha-Kỹ-Thuật thuộc bộ Tổng-Tham-Mưu, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Những quân-nhân trong đơn-vị bí mật này thường được gọi là Lôi-Hổ hoặc xếp họ vào hàng lính Biệt-Kích thuộcbinh-chủng Lực-Lượng Ðặc-Biệt. Người Hoa-Kỳ cho rằng Nha-Kỹ-Thuật là một huyền thoại trong cuộc chiến tranh Ðông-Dương.Cả hai đơn-vị NKT và LLÐB đều được Hoa-Kỳ yểm trợ mạnh mẽ, NKT có tổ chức riêng biệt dựa theo cơ-cấu tổ chức của LLÐB. Các 'Sở' hoặc Bộ-Chỉ-Huy (CCN, CCC, CCS - Command & ControlNorth, Central, South) tươngđương với các Bộ-Chỉ-Huy 'C' (C1, C2, C3, C4) của LLÐB. Các 'Căn-cứ Hành-Quân Tiền-phương' (FOB - Forward Operation Base) tương-đương với các BCH 'B' (B50, B52, B57, v.v...). Các toán 'Lôi-Hổ' tương-đương với các toán 'A' biên-phòng. Bài viết này theo tài liệu trong cuốn 'SOG - The Secret Wars of America's Commandos in Vietnam', tác giả John L. Plaster.

Tháng Hai 1961, môt chiếc thuyền đóng theo kiểu những thuyền đánh cá khác ở Bắc Việt-Nam trôi bềnh bồng ngoài khơi vịnh Bắc Việt, lặng lẽ hướng về Cẩm-Phả, một thành phố nhỏ ven biển. Hai đêm trước, họ đã lướt qua hảicảng Hải-Phòng một cáchêm-thấm. Ðêm nay lúc hoàng hôn, họ có thể thấy mờ-mờ những rặng núi trong tỉnhQuảng-Ðông của Trung-Hoa vào khoảng 40 dặm về phiá bắc. Trường hợp không may xẩy ra, nếu họ bị bao vây, sẽ không có một chiếc tầu nào của phe ta đến tiếp cứu họ. Chiếc thuyền con không được đóng ở ngoài Bắc mà ở Vũng-Tàu cách xa 800 dặm, những người lái tầu đã được cơ-quan tình báo CIA Hoa-Kỳ bí-mật tuyển mộ và huấn luyện để đưa một người Việt-Nam tuổi khoảng trung tuần đem theo máy truyền tin xâm nhập vàomiền Bắc. Ðiệp viên bí danh Ares đã đặt chân lên miền Bắc thành công mỹ-mãn. Dưới thời tổng-thống Kenedy, điều-khoản số 52 trong Hội-Ðồng An-Ninh Quốc-Gia chấp thuận cho cơ-quan CIA xửdụng quân Biệt-Kích Mũ-Xanh (Special Forces) và đơnvị Người Nhái Hải Quân (Navy SEALs) để huấn-luyện, cố-vấn quân-nhân Việt-Nam trong những nhiệm-vụ bí-mật do ông trùm Xịa CIA Colby tổ chức.

Tại thành phố bờ biển Nha-Trang, Lực-Lượng Ðặc-Biệt Hoa-Kỳ huấn luyện cho Biệt-Kích quân Việt-Nam thuộcLiên-Ðoàn 1 Quan-Sát để dòthám đường mòn Hồ-Chí-Minh. Trong năm 1961-1962,Liên-Ðoàn 1 Quan-Sát tổ chức 41 cuộc hành-quân viễn thám, tìm kiếm dấu vết đường xâm-nhập cuả địch qua ngã Lào.

Trong khi đó, ngoài Ðà-Nẵng, toán người-nhái Hoa-Kỳ huấn luyện thủy-thủ Việt-Nam, chuyên chở người xâm nhập miền Bắc bằng đường biển. Ngoài ra tổ chức thêm những toán Biệt-Hải với nhiệm-vụ mở những cuộc tấn công bất ngờ các mục tiêu dọc theo bờ biển miền Bắc.

Sau vài chuyến thành công, Hải-Quân Bắc Việt đã đề phòng, ngăn chận đánh chìm một số hải thuyền. Sau khi nhận định lại tình hình, cơ-quan CIA đổi hướng xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng-không qua sự tiếp tay của Không-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Các nhân-viên (Trong giai đoạn này họ là dân-sự) xắp xâm nhập miền Bắc được huấn luyện trong căn cứ ở Long-Thành, cách Saigon khoảng 20 dặm về hướng đông. Quân Mũ-Xanh và nhân viên CIA huấn luyện họ về ngành tình-báo, kỹ-thuật pháhoại, xử-dụng vũ-khí, nhẩydù, đánh morse và mưu-sinh. Những khả năng để họ có thể hoạt động trong nhiều năm ngoài Bắc.

Ðến cuối muà Xuân 1961, điệp-viên Ares vẫn thường gửi những điện văn morse đến trung tâm truyền tin viễn thông của CIA ở Phi-Luật-Tân để báo cáo. Không như điệp viên Ares, ra đi đơn độc.

Bây giờ đến giai đoạn thả những toán biệt kích xâm-nhập từ 3 đến 8 người. Họ không được may mắn như điệp-viên Ares. Chuyến đầu tiên thả toán Atlas, toán này không có cơ hội để gửi điện văn báo cáo là đã đến nơi, chiếc máy bay chở họ cũng biến mất luôn! Tướng Kỳ đích thân lái phi vụ thứ hai thả toán Castor sâu vào miền Bắc Việt-Nam. Ba tháng sau, Hà-Nội làm rùm beng vụ đem xét-xử ba người sống sót trong toán Atlas. Ít lâu sau toán Castor cũng mất liên-lạc, rồi đến hai toán Dido và Echo cũng nằm trong tay địch quân. Toán cuối cùng thả xuống miền Bắc trong năm 1961 là toán biệt kích Tarzan cũng mất tích. Trong mùa hè 1962, cơ-quan CIA đồng-ý bàn giao các hoạtđộng trong vùng Ðông-Nam- Á cho quân-đội trong vòng 18 tháng.

Chương trình bàn giao có tên là Kế-Hoạch Trở-Lại (Operation Switchback). Rồi thì chính-biến 1-11-1963 xẩy ra và nhiều biến đổi trong miền Nam Việt-Nam làm cho kế-hoạch chậm trễ. Quân-đội Hoa-Kỳ vẫn chưa có một đơn vị đặc biệt nào để đảm nhận chương trình của CIA bàn giao. Hà-Nội gia tăng mức độ xâm nhập vào miền Nam làm cho bộ-trưởng Quốc-Phòng Mc Namara ra lệnh thả nhiều toán 'Biệt-Kích' ra ngoài Bắc phá hoại 'Giới lãnh-đạo miền Bắc nên biết rằng họ sẽ phải trả giá nếu còn iếp tục nuôi dưỡng, cho quân xâm nhập vào miền Nam'. Kế-hoạch 34A (OPLAN-34A) ban-hành ngàỵ 15 tháng 12 năm 1963 giới hạn cho một số mục tiêu.

Mặc dầu Mc Namara thúc đẩy, kế-hoạch 34A bắt đầu từ ngày 1 tháng Hai 1964, Bộ-Chỉ-Huy Quân-Viện (MACV) mới lập xong một đơn vị cho các hoạt động bí mật của CIA.Ðơn vị này do một đại-tá chỉ huy và bao gồm nhiều đơn vị, từ LLÐB, Người Nhái, Không-Ðoàn Cảm-Tử (AirCommando). Ðơn vị mới này lấy tên là SOG (SpecialOperation Group) Liên-ÐoànHành-Quân Ðặc-Biệt. Sau đó đổi tên để bảo mật mặc dầu vẫn viết tắt là SOG (Study and Observation Group) Ðoàn Nghiên-Cứu, Quan-Sát, tên mới nghe có vẻ chỉ gồm những chuyên-gia hoặc những nhà giáo.

Ðơn-vị mới SOG không trực thuộc cơ-quan MACV hoặc cấp chỉ huy của MACV là tướng William Westmoreland, mà nhận lệnh thẳng từ bộ TTM/QLHK (JCS) trong NgũGiác-Ðài và thường nhận lệnhtừ tòa Bạch Ốc. Chỉ có 5 sĩ quan cao cấp Hoa-Kỳ ở Saigon được báo cáo về những hoạt động bí-mật của SOG: Tướng Westmoreland, tham-mưu-trưởng của ông ta,trưởng phòng Nhì, tư-lệnh Ðệ- Thất Không-Lực, và viên tư lệnh lực-lượng Hải-Quân HK tại Việt-Nam.

SOG được chấp thuận mở những cuộc hành quân phát xuất từ miền Nam Việt-Nam, và Thái-Lan vào đất Ai-Lao, Miên, Bắc Việt và có thể ở phiá bắc Miến-Ðiện, Quảng-Ðông, Quảng Tây, Hồ-Nam và đảo Hải-Nam bên Tầu. Ngân khoản dành cho SOG sẽ dấu trong ngân khoản dành cho Hải-Quân Hoa-Kỳ. Trùm SOG là một sĩ-quan thuộc binh-chủng Nhẩy-Dù trong trận Thế-Chiến thứ Hai, sau đó chuyển qua Lực-LượngÐặc-Biệt trong thập niên 50. Ðại-Tá Clyde Russell đã từng theo sư-đoàn 82 Dù nhẩy xuống Pháp, Hòa-Lan, sau đóchỉ-huy Liên-Ðoàn 10 LLÐBbên Âu-châu, sau đó là Liên-Ðoàn 7 LLÐB trong căn-cứ Fort Bragg, North Carolina.

Trong kế-hoạch 34A, đại-tá Russell và ban tham-mưu thay đổi cơ-cấu tổ chức của Liên-Ðoàn Nghiên-Cứu Quan-Sát dựa theo tổ chức OSS xâmnhập với sở Không yểm, Hải yểm và một đơn-vị Tâm-lý chiến. Cơ-quan CIA cho SOG xử-dụng hệ-thống tiếp-liệu đặc biệt với những đồ chơi 'Xa-xỉ phẩm' như vũ-khí tối tân, dụng cụ câu dây điệnthoại để nghe lén. Ðồ tiếp liệu bí mật này có trong căn cứ Chinen ở Okinawa.

Ngoài ra còn có thêm văn phòng chuyên lo việc tiếp liệu cho đơn vị SOG và LLÐB.

CIA bàn giao thêm cho SOGmột phi đội C-123 từ Ðài-Loan do các phi-công Ðài-Loan lái để thay thế các máy bay C-47 của Không-Lực VNCH. Phi-đội này có tên là Ðệ Nhất gồm bốn chiếc C123. Mỗi chiếc có một phi hành đoàn phụ Hoa-Kỳ để bay những phi vụ trong miềnNam, các phi-công Ðài-Loan bay những phi vụ ra Bắc hoặc qua đất Miên. Những phi côngÐài-Loan này không biết tiếng Việt, có thẻ căn-cước Việt-Nam nhưng chỉ một số rất ít viên chức Việt-Nam mới biết họ là ai. CIA cũng bàn giao thành quả 3 năm hoạt-động của họ cho tới năm 1964. Tất cả 22 toán thả ra ngoài Bắc, chỉ còn liên-lạc được 4 toán Bell, Remus, Easy, Tourbillon và Ares.

Trong căn-cứ Long-Thành gần Saigon, SOG nhận được khoàng hơn 20 nhânviên đang thụ-huấn. Các sĩ quan SOG không tin tuởng nơi họ và phải loại trừ những quân nhân đó. SOG cũng không thể trả họ về cho QL/VNCH vì họ đã biết những nhiệm-vụ, hoạt động bí mật của cơ-quan ở ngoài Bắc. Cách giải quyết dễ dàng nhất là... cứ thả họ ra ngoài Bắc (Bỏ rơi cho địch quân). Trong tháng Năm, Sáu, Bảy 1964, các toán Boone, Buffalo, Lotus và Scorpion nhẩy dù xuống miền Bắc và đều bị bắt hết.

Ngoài ra một số nhân viên khác cũng được gửi ra ngoài Bắc để tăng cường cho hai toán Remus và Tourbillon. Sau khi thanh toán xong các toán do CIA để lại, SOG bắt đầu tuyển mộ nhân viên mới cho một chương trình huấn luyện dài 21 tuần lễ. Danh từ 'LÔI-HỔ' có từ đây. Ðể yểm trợ cho kế-hoạch 34A tấn công bất ngờ bờ biển Bắc Việt, trong đêm 16 tháng 2 năm 1964, ba thủy thủ người Na-Uy lái chiếc tầu Nasty (chạy rất nhanh, hỏa lực mạnh do Na-Uy chế tạo) chở theo người nhái Việt-Nam dự tính phá hủy một chiếc cầu, bị địch phát giác phải quay trở lại. Mấy đêm sau, một toán phá hoại người nhái khác xâm nhập miền Bắc bị thất bại, mất đi 8 quân nhân thuộc Lực-Lượng Người Nhái HQVN.

Qua tháng 7, các tốc đỉnh Nasty và Biệt-Hải dùng chiến thật tấn công bất ngờ rồi chạy, phá hủy được năm mục tiêu ngoài Bắc trong hai ngày 9 và 25 tháng Bảy. Ngày 30 tháng 7, SOG xử dụng 5 chiếc tốc đỉnh Nasty tấn công những dàn ra-đa gần Hải-Phòng gây nhiều tiếng nổ phụ. Trong tháng Tư 1964, bo ätrưởng quốc-phòng Mc. Namara ra lệnh thám-thính phần đất bên Ai-Lao.

Chươngtrình 'Leaping Lena' bắt đầu thả toán đầu tiên qua Lào ngày 24 tháng Sáu, đến 1 tháng Bảy, năm toán Biệt-Kích Việt-Nam nhẩy dù qua biên giới Lào để dò-thám các hoạt động của quân-đội Bắc Việt Chương trình 'Leaping Lena' tới tai cố-vấn của tổngthống Hoa-Kỳ, ông William Bundy qua bản báo cáo 'Tất cả các toán đều bị địch tìm ra vị-trí, chỉ còn bốn người sống sót chạy thoát trở về'.

Ðầu năm 1965, phi công Jim Ryan của Air America (CIA), chụp được một số hình ảnh, những con đường mới làm từ đèo Mụ-Già qua phần đất Ai-Lao, hệ thống đường mòn HồChí-Minh gia tăng. Ngày 8 tháng Ba năm 1965, SOG cómột cấp chỉ huy mới là Ðại-Tá Donald Blakburn, một huyền thoại trong ngành Lực-LượngÐặc-Biệt.

SOG The Secret Wars Of America's Commandos in Vietnam, John L. Plaster.
VÐH

Năm 1957, chính quyền Eisenhower tài trợ cho một chương trình bí-mật. Phốihợp giữa cơ quan Trung-Ương Tình-báo CIA và bộ Quốc-Phòng Hoa-Kỳ giúp đỡ việc thành-lập một đơn-vị Lực-Lượng Ðặc-Biệt cho Nam Việt-Nam. Ðơn-vị này tên là Liên-Ðoàn Quan-Sát số 1, âm-thầm xâm-nhập vào hàng ngũ quân du-kích cộng-sản.

Ðể bảo mật, Liên-Ðoàn Quan-Sát số 1 do một ban tình báo trong bộ quốc phòng, ban Nghiên-Cứu điều hành. Ban này có hai thay đổi, thứ nhất đổi tên là Phòng Liên-Lạc Phủ Tổng-Thống, dưới sự theo dõi trực tiếp của tổng-thống Diệm. Thứ hai, trung-tá Lê-Quang-Tung được chỉ định làm trưởng phòng Liên-Lạc.

Năm 1958, cơ-quan CIA tại Saigon, thành lập ban ngoại-vụ để làm việc với phòng Liên-Lạc Phủ Tổng-Thống. Trưởng ban là Russell Miller dưới danh hiệu ngoại giao, ông ta để ý trung-tá Lê Quang Tung chọn mười hai nhân viên cho đơn vị mới. Mười một sĩ quan trẻ thiếu-úy hoặc trung-úy, dưới quyền đại-úy Ngô-Thế-Linh, người đã làm việc 5 năm ngoài Ðà-Nẵng. Trong tháng Mười Một, mười hai người được đưa qua Saipan. Họ được cơ-quan CIA huấn Luyện hai tháng về nhiều môn, tình-báo tác-chiến, phương-thức phá-hoại và điều-khiển đường giây tình-báo. Trở về Saigon vào cuối năm, Đại-úy Ngô Thế Linh được chính thức bổ nhiệm làm trưởng
phòng Bắc Việt (bí-danh phòng 45) trong phòng Liên-Lạc Phủ Tổng-Thống.

Chỉ có hơn chục người, trong những tháng kế tiếp, phòng 45 lo việc huấn luyện thêm nhânviên. Ðến giữa năm 1959 một nhóm năm sĩ-quan khác được đưa qua Saipan thụ huấn khóa huấn luyện ngắn sáu tuần lễ. Sau đó ít lâu, cơ-quan CIA cử nhân viên qua Saigon huấn luyện hai lần, mỗi lần khoá huấn luyện kéo dài mười hai tuần lễ. Lần này chương trình huấn luyện nhằm vào những sĩ quan trẻ sinh quán nơi miền Bắc và gốc người thiểu-số.

Trong khi việc huấn luyện kéo dài đến cuối năm 1959. Phòng 45 phác-họa kế hoạch đầu tiên, họ tìm cách xâm nhập vào một hậu phương mà địch kiểm soát rất chặt chẽ gần năm năm. Cơ quan CIA biết rõ trở ngại của phòng 45. Trước đó năm 1951-1953, họ cho xâm nhập 212 điệp viên Tầu vào Hoa-Lục, một nửa bị giết, nửa khác bị bắt. Trên đất Đại Hàn , kết quả cũng tương tự.

Phòng Liên-Lạc phủ Tổng Thống trao trách nhiệm cho trung-úy Ðỗ-Văn-Tiên bí danh Francois gửi một điệp-viên đơn độc (singleton) ra ngoài Bắc. Francois tìm được một người có khả năng là Phạm-Chuyên, đã từng là đảng viên trong tỉnh Quảng-Ninh bị vợ bỏ, ông ta di cư vào miền nam. Mới đầu Phạm-Chuyên từ chối làm việc, mặc dầu trung-tá Lê-Quang-Tung đã cho đàn em theo dõi, dụ dỗ sáu tháng. Trung-úy Tiên (Francois) cộng tác với một nhân viên CIA là Edward Reagan tìm cách thuyết phục Chuyên, sau hơn sáu tháng Phạm Chuyên nhận lời.

Người điệp viên mới được đưa ra Nha-Trang để qua kỳ trắc nghiệm tâm-lý. Chuyên đạt được điểm xuất sắc, sau đó qua hai kỳ khảo nghiệm (test) nữa, một ở Saigon và ở Nha-Trang. Tiếp theo là phần huấn luyện cho Chuyên sáu tháng về ngành truyền-tin. Trong khi Chuyên được huấn luyện, trung-úy Tiên và Reagan bận rộn phác-hoạ kế hoạch gửi người điệp viên trở ra ngoài bắc. Chuyên sẽ nằm vùng dài hạn trong tỉnh Quảng-Ninh, một tỉnh ngay bờ biển, nơi Chuyên rất rành-rẽ, cho Chuyên xâm nhập bằng đường biển là điều hợp lý. Hai chuyên viêntình báo bay ra Ðà-Nẵng tìm địa điểm phát xuất, họ thuê một biệt thự có tường cao bao quanh làm căn cứ. Tất cả những hoạt động của họ từ đó trở về sau có mật hiệu là Pacific (Thái-Bình-Dương).

Trước khi Chuyên được gửi đi, Phòng 45 quyết định kế hoạch ngắn hạn, thả điệp viên qua vùng phi quân-sự, dọc theo vĩ tuyến 17. Người được tuyển chọn cho kế hoạch này là một người theo đạo công giáo, quê ở Hà-Tĩnh tên là Vũ-Công-Hồng. Hồng được huấn luyện nhanh chóng và đưa ra Huế sống trong một căn nhà an-toàn. Trong nhà có thêm hai sĩ-quan trẻ thuộc phòng Liên-Lạc Phủ Tổng-Thống là Phạm-Văn-Minh và Trần-Bá-Tuấn, cả hai đều đã được huấn luyện ở Saipan. Hai người có bí danh là Michael và Brad. Họ làm việc với nhân viên CIA David Zogbaum. Cũng như Francois (tr/u Tiên), Reagantrong Ðà-Nẵng, các hoạt động phát xuất từ Huế có mật hiệu làAtlantic (Ðại-Tây-Dương).

Vũ-Công-Hồng mang bí danh là Hirondelle đã sẵn sàng ra đi. Thiếu-tá Trần-Khắc-Kính nhân vật thứ hai trong phòng Liên-Lạc PTT, có mặt trong lúc thả điệp viên Hirondelle qua sông Bến-Hải. Qua sông, Hirondelle biến mất vào màn đêm và trở lại miền nam vài tuần sau. Mặc dầu chỉ cho biết tin tức về đường đi nước bước, hệ thống an-ninh nơi miền Bắc, người điệp viên làm cho phòng 45 phấn khởi.

Hai tháng sau chuyến đi của Hirondelle, Chuyên đã sẵn-sàng sau một năm huấn luyện. Sứ mạng của Chuyên khác với Hirondelle. Chuyên sẽ thu-thập tin tức tình báo, tuyển mộ thêm điệp viên và sẽ nằm vùng trong nhiều năm. Theo kế-hoạch (vỏ bọc / ngụy trang) Chuyên sẽ trở nên một người đánh cá ở Cẩm-Phả, một làng nhỏ gần vịnh Hạ-Long. Ðó cũng là quê của Chuyên trước năm 1958, sự trở về của Chuyên có thể bị lộ, tuy nhiên ông ta còn có gia đình, anh em, vẫn hy vọng được che chở.

Phạm-Chuyên đã sẵng sàng rađi với bí danh Ares. Ðầu tháng Tư năm 1961, Ares lên tầu Nautilus I rời Ðà-Nẵng theo chuyến hải hành hai ngày về phiá bắc. Gặp thời tiết xấu, chiếc Nautilus I phải quay trở về bến. Vài hôm sau, thời tiết trở nên tốt, điệp viên Ares lại lên đường. Cả hai Francois và Reagan ra bến tầu tiễn Ares, Francois nhớ lại 'Tôi chúc anh ta đi may mắn'. Ðiệp viên Ares không nói một lời nào.

Bầu trời xanh, biển lặng, chiếc Nautilus I lặng lẽ xâm nhập vào vùng biển Quảng Ninh, sau đó Ares chèo xuồng nhỏ đổ bộ lênbờ. Ðịa điểm đổ bộ gần Cẩm-Phả, Ares đem đồ tiếp vận lên bờ rồi dấu hai máy truyền tin. Nhiệm vụ đầu tiên, anh ta phải tuyển mộ thêm một người để giúp đỡ trong việc xử dụng máy truyền tin. Phòng 45 đã rõ điều này nên sẽ chờ tín hiệu của Ares trong vòng nhiều tuần hoặc nếu không vài tháng. Không bị phát giác, có người trông thấy, người điệp viên lẻn về làng cũ, và vào thẳng căn nhà xưa của mình. Xum họp với gia đình, Ares thuyết phục người emPhạm-Ðộ. Miễn cưỡng, anh ta đi theo Ares ra bờ biển thâu hồi hai máy truyền tin. Họ đào hố chôn hai cái máy ở trong nhà.

Chuyến xâm nhập của Ares coi như thành công. Ngày 9 tháng Tư, mấy ngư dân khám phá ra chiếc xuồng nhỏ của Ares. Tiếp theo sau là những cuộc khám xét làng đánh cá do lực lượng an-ninh. Sau khi xác định không ai làm chủ chiếc xuồng nhỏ, cuộc khám xét lan tràn ra bãi biển, và công-an tìm ra hố chôn dấu hai máy truyền tin.

Nghi ngờ điệp viên địch (miền nam) xâm nhập, viên chỉ huy lực lượng công an tỉnh Quảng Ninh thảo kế hoạch khám xét từng nhà, đặc biệt những nhà có người di cư vào nam, và những gia đình có liên hệ với chế độ thực dân trước đây.

Không biết chuyện đó, Ares vẫn trốn trong một cánh rừng gần đó. Anh ta đem theo một máy truyền tin, nhờ người em quay máy (crank), điệp viên Ares gửi đi bức điện văn đầutiên. Ðể tránh làn sóng bị giaothoa, Ares đánh tín hiệu từ bờ biển miền bắc Việt-Nam, vượt đại dương đến trạm Bugs, mật hiệu do cơ-quan CIA đặt cho trạm viễn thông ở Phi-Luật-Tân. Từ đó bản điện văn sẽ được tiếp vận, truyền đi đến cơ quan CIA tại Saigon. Robert Kennedy, nhân viên CIA bước vào phòng
45 với bức điện văn trên tay vẫy-vẫy mừng rỡ nói lớn 'Thành công!'.

Một phó bản bức điện văn của Ares được trình lên tổng-thống Diệm. Sau đó Ares gửi thêm hai mươi hai bản báo cáo nữa trong một thời gian gấp rút. Trong khi đó tại Quảng-Ninh, nhân viên phản-gián Bắc Việt dò làn sóng viễn thông để lấy những bản điện văn. Một cụ già cũng báo cáo cho công an rằng có người lạ tìm cách dấu mặt đang sống trong một căn chòi gần bãi biển. Cụ già nói thêm, có người trong nhà khoe một cây viết nguyêntử, vật ít thấy nơi miền bắc.

Với những điều thâu thập, công-an theo dõi nhà của gia đình Phạm Chuyên. Ngày 11 tháng Sáu, giới thẩm quyền bắtgiữ Phạm-Ðộ trong khi anh ta đem đồ tiếp tế vào rừng cho anh mình. Sáu ngày sau, họ khám phá ra máy truyền tin thứ hai chôn dấu trong nhà cùng với bản mật mã. (số phận người điệp viên Ares Phạm Chuyên ra sao???).

Hà Nội có hai lựa chọn. Công bố vụ bắt được điệp viên Aresrồi đưa ra toà như nhóm Ðại-Việt trước đây, hoặc dùng Ares làm gián điệp đôi ép buộc Ares phải liên lạc thường xuyên với Saigon.

Ðúng 9 giờ sáng ngày 8 tháng Tám, Saigon nhận được điện văn của Ares sau gần hai tháng mất liên lạc. Với sĩ-quan an-ninh Bắc Việt bên cạnh, người điệp viên cắt nghĩa về sự vắng mặt của mình. Mẹ và em gái anh ta không đủ tiền nạp thuế nông nghiệp, do đó anh ta phải lánh mặt lên Hà-Nội tạm thời. Saigon tạm tin vào những điều báo cáo của Ares và đồng ý gửi tiếp tế cho Ares theo lời yêu-cầu của anh ta. Chiếc Nautilus I lại rời Ðà-Nẵng ngày 12 tháng Giêng năm 1962 đem đồ tiếp tế cho Ares. Chiếc này đến vịnh Hạ-Long không gặp trở ngại, sau đó tự nhiên mất liên lạc vô tuyến một cách bí mật.

Phòng 45 lo ngại cho số phận chiếc Nautilus I cùng với thủy thủ đoàn, mặc dầu có sự nghi ngờ điệp viên Ares... Có lẽ chiếc tầu gặp tầu tuần duyên của Bắc Việt khi đến gần bãi biển. Phòng 45 cho đóng chiếc tầu khác lấy tên là Nautilus 2. Chiếc này sẵng sàng vào tháng Tư cùng với thủy thủ đoàn tuyển mộ từ những người Bắc di cư và huấn luyện tại Ðà-Nẵng.

Ngày 11 tháng Tư, chiếcNautilus 2 rời Ðà-Nẵng ra Bắc hướng về vịnh Hạ-Long. Hai ngày sau ra đến ngoài khơi Quảng-Ninh. Sáu người trong nhóm mười bốn thủy thủ đoàn, xuống xuồng cao-su chở theo đồ tiếp vận cho Ares gồm bẩy hộp thiếc, và hai mươi ba hộp carton bọc trong bao plastic. Họ chèo xuồng đến một đảo nhỏ trong vịnh Hạ-Long, chất hàng lên đảo và lấy cây che đi.

Khi chiếc Nautilus 2 về đến Ðà-Nẵng an toàn, phòng 45 ăn mừng sự thành công của chuyến tiếp tế đầu tiên cho điệp viên Ares. Sau đó ngày 2 tháng Năm, họ gửi tín hiệu chỉ chỗ dấu hàngcho điệp viên Ares. Ít lâu sau, Ares báo cáo đã thâu hồi đồ tiếp vận kể cả máy truyền tin cùng với máy chụp ảnh 35mm.

Kenneth Conboy, Dale Andradé.
Carrollton, Cọp Khánh-Hòa

Wednesday, November 11, 2009

Veterans Day / Vinh Danh Cựu Chiến Binh


Nhân ngày Veterans Day cháu trai của SVSQ/K10B72 Trần Chí Thiện Tâm hiện đang học tại Trường Garden Grove Highschool , California USA đã đứng lên phát biểu "Vinh Danh ông Nội và Bố là cựu Quân Nhân QLVNCH" trước sự chứng kiến của thầy cô và các bạn trong lớp học
em cũng cho biết thêm về lòng tri ân của em đối với tất cả cựu chiến binh trên thế giới đã chiến đấu để bảo vệ Tự Do, em rất hãnh diện Ông Nội và Bố đã chiến đấu trong cuộc chiến và traĩ qua nhiều năm tù ải sau cuộc chiến Việt Nam.



11 November

As many of you may know, Veterans Day was originally called Armistice Day and has its roots with the ending of World War 1. In 1918, on the eleventh hour of the eleventh day in the eleventh month, after four years of bitter war, an armistice was signed and the "war to end all wars" was over.

But the lasting peace envisioned by our fathers, grandfathers and great-grandfathers was short-lived, and in the 82 years since the trenches were abandoned on the battlefields of Europe, the United States has been engaged in four more wars and numerous conflicts.

As we commemorate Veterans Day, we gratefully recognize the hardships and sacrifices made by the millions of men and women who have served our great country in wartime and in peacetime. Today we pay tribute to our veterans, whose patriotism has contributed so much to the cause of world peace and the preservation of our American way of life. They have faced the perils 'Is of an uncertain world with the certainty that they may be called upon to risk their lives for an ideal they held so dear. And that ideal is what we know as freedom. Those who have seen the dead and wounded, the mud and the misery, the suffering and the sacrifice of war, and those who have given their loved ones in mortal conflict, know full well that "freedom is not free."

Today, as many of us question those considered heroes by our youth, we know that within our American society there is a group of heroes, selfless men and women, who gave in wartime and peacetime, so we may enjoy the freedom that we live each day. Those men and women are our veterans.

Our World War 11 veterans are all part of a generation from which we take inspiration. They won the war, they planned for peace, and they led our country through the second half of the 20th Century. Without their subordination to the common good, our world would be radically different today.

For those in World War II, innocent years of love and adventure were substituted with years of fighting throughout North Africa, Europe and the island hopping campaigns of the Pacific. They returned home after a World War and began where their lives had ended years before. "As they now reach the twilight of their adventurous and productive lives, they remain for the most part, exceptionally modest," as Tom Brokaw wrote in his book, "The Greatest Generation." "They have so many stories to tell, stories that in many cases they have never told before, because in a deep sense they did not think that what they were doing was that special, because everyone else was doing it."

Mr. Brokaw's insight has reminded me of a story about a Navy Corpsman, or medic in Army terms, by the name of John Bradley. I believe he epitomizes the great contribution and modesty of our American veterans. John Bradley was one of the six flag raisers atop Mount Suribachi on the island of Iwo Jima during World War 11. He was not only a flag raiser, forever immortalized by the world-renowned picture taken by Joe Rosenthal, but he was also a hero in his own right. He was awarded the Navy Cross - our nation's second highest award for heroism - for risking his life to save a United States Marine. His son James Bradley writes an unforgettable clu-onicle of the legacy of the six men who raised the flag on Iwo Jima in his book titled "Flags of Our Fathers." Perhaps the greatest tribute to his father was a description of his Dad's reluctance to speak of the flag raising. In fact, there was never a picture of the famous flag-raising to be found in the Bradley home. If asked about the action atop Mount Suribachi by his son, John Bradley's response was always short and simple and he would quickly change the subject. It was only after John Bradley's death in 1994 that his family found closed cardboard boxes in a dark office closet with any memorabilia about the war at all. You see, John Bradley's response to his young son's interest in his belief that his Dad was a hero was merely, "The real heroes of Iwo Jima are the guys who did not come back." Yes, John Bradley is an ideal example of the nature of our veterans from each generation. Selfless and modest men and women who have understood the price of freedom and whose respect for those who made the ultimate sacrifice far exceeds any consideration they may have had of their own contributions.

As we take inspiration from the achievements of those veterans who participated in the Second World War, what about the contribution of those who fought in the Korean War - The Forgotten War. I had the privilege in September to participate in Korean War commemorative events at Pusan and Inchon, Korea, as this is the 50 anniversary of that conflict. How many of us are aware that the North Korean attack into South Korea was the first major test of communism against democracy following World War 11. If the efforts of our veterans had failed, how different would our world have been over the past fifty years.

Did you know that America was significantly downsizing its Armed Forces following the end of World War 11 and it was a minimally trained American occupation force in Japan that was initially thrown into battle to blunt the attack of determined and overwhelmingly superior communist North Korean forces. Brave young Americans fought and died to preserve freedom in South Korea. They fought a stand-or-die defense, against overwhelming odds, within a small enclave of land in the southeast part of Korea called the Pusan perimeter. This was done to buy time for reinforcements to arrive and for training to be conducted. They held their position and subsequently conducted a breakout in conjunction with a daring amphibious landing at Inchon that resulted in the disruption of the enemy rear, led to the liberation of Seoul and the ultimate expulsion of North Korean forces from South Korea. This war was waged for nearly three years by brave men and women who did not hesitate to answer the call of our country to defend the freedom of the people of South Korea and, in so doing, announced to the tyrants of the world that freedom was still worth fighting for.

And then we have the Vietnam War. A war that again found America's treasure - its young men - fighting in a distant land in the name of freedom. Brave men and women, who again answered the call of our country to fight for an ideal. A war that became filled with controversy - controversy at home - but there was no room for controversy for those brave Americans in the midst of fighting in the rice paddies and the countryside of South Vietnam. We paid dearly in the name of freedom with 58,000 American lives - brave Americans who were willing to risk and sacrifice their lives in the name of freedom. Regardless of the controversy of that war, the individual soldier, sailor, airman and Marine served from a sense of duty to this country. To this day, nearly 30 years later, it has been the ties amongst the individual service members and their loyalty to their units and each other that keeps the memory of their service to our country alive.

In my previous assignment, as the Commanding General, Marine Corps Recruit Depot, Parris Island, South Carolina, I had the unique opportunity to visit with many of the veterans groups who would hold reunions at the Depot. Veteran groups would visit Parris Island because it is where hundreds of thousands of Marines have completed recruit training and marched across the parade deck to serve in our wartime and peacetime Marine Corps. One particular unit, the I" Battalion, gth Marine Regiment known as the "Walking Dead" due to the large number of casualties during the Vietnam War characterizes the spirit of all veterans. Each year they hold a national gathering, and members of the unit from all over the country attend. I noted the friendships between unit members and their families which had lasted throughout the years and the camaraderie and sheer pleasure of each other's company they enjoyed. I was especially moved when the socializing ceased and a wooden ammunition box was carried forward that contained the names of their six hundred and three fallen comrades who had made the ultimate sacrifice in Vietnam. Heartfelt comments were made in their memory. Marines/fellow Americans that will never be forgotten as long as any of their fellow Marines live. The solemnity in that room, the emotion of that moment, the consoling of sobbing men by each other, spoke to their service to our country and their love of each other. This is the spirit and undying loyalty of our American veteran.

And then the Gulf War where thousands upon thousands of US servicemen and women were deployed to Southwest Asia and thousands more at bases throughout the world supporting the effort to again fight tyranny and to restore freedom. A war titled "The I 00 Hour War" yet regardless of its duration, its uncertainty at the outset caused every US service person to experience the same anxiety and coming to peace with one's self and one's God that has confronted every other serviceman in every other generation.

And we have had many other conflicts within the past years. Lebanon, Grenada, Panama, Somalia, Haiti, Bosnia, Kosovo, and now the USS Cole, all have challenged the fortitude and commitment of the American serviceman and woman and their determination to uphold freedom and to preserve our American way of life.

Within each generation, you can see that we have had young, inexperienced Americans who became tough and capable soldiers, airmen, sailors, coastguardsmen and Marines, They became veterans. This is our day to honor all veterans - to remember those who have made the ultimate sacrifice and to pay tribute to those who have served honorably in peacetime and wartime and contributed so much to the freedom we and others enjoy throughout the world today. They are all brave men and women, who have been willing to selflessly serve their country in the name of freedom.

As I close my remarks today, I am reminded of our national anthem. The verses that we hear many times in a lifetime, yet pass idly by without great meaning. The last verse strikes me as capturing the spirit of Veterans Day and the unequaled contributions our veterans, throughout each generation, have made to this great country of ours. To our veterans, this verse is a tribute to you. "Oh say does that Star-Spangled Banner yet wave, over the land of the free and the home of the brave!"

Ladies and gentlemen, America has truly remained the land of the free, because it is the home of the brave ... our veterans!

Thank you.

BGen James R. Battaglini

Deputy Commanding General

I Marine Expeditionary Force

Box 555300

Camp Pendleton CA 92055-5300



Tuesday, October 20, 2009

Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ VNCH


Bản tổng hợp
Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ.
*****
Phạm Bá Hoa


“Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ” là một trong hai trận chiến quan trọng tại hải ngoại (Trận Chiến Nhân Quyền), góp phần phát huy sức mạnh của Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản, và góp phần hỗ trợ mạnh mẽ cuộc tranh đấu dân chủ hóa chế độ chính trị trên quê hương Việt Nam.
Xin hiểu nhóm chữ “Quốc Kỳ Việt Nam” hay “Cờ Vàng” trong bản tổng hợp này là “quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ”, để phân biệt với cờ đỏ của cộng sản Việt Nam. Bản tổng hợp gồm 7 phần: (1) Quốc Kỳ Việt Nam. (2) Kỳ đài. (3) Bia đá tưởng niệm chiến sĩ. (4) Tượng đài tưởng niệm Chiến Sĩ. (5) Bia và tượng đài tưởng niệm Thuyền Nhân. (6) Các địa phương công nhận Quốc Kỳ Việt Nam. (7) Hạ cờ cộng sản.

Phần một. Quốc Kỳ Việt Nam.

1. Quốc Kỳ Việt Nam trên đỉnh Everest.
Ngày 17 tháng 5 năm 2004, quốc kỳ Việt Nam chúng ta đã được cắm trên đỉnh Everest dãy Hy Mã Lạp Sơn. Đây là đỉnh núi cao nhất thế giới (8.848 thước), cũng là nơi mà nhiều người trên thế giới mong muốn thực hiện cuộc hành trình gian khổ để chinh phục đỉnh núi nổi tiếng này.
Qua địa chỉ , tóm lược bài viết trong tờ Thời Báo số 117 ngày 25/6/2004 ở Portland, Oregon: Kỹ sư Huỳnh Lương Vinh quen biết với ông Craig Van Hoy, 46 tuổi. Ông có vợ người Lào tên Malysone. Có thể do mối liên hệ với quê hương bên vợ mà ông Craig dễ thông cảm với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, cùng trong hoàn cảnh bị chế độ cộng sản độc tài cai trị. Nhận ra tình cảm đó, ông Huỳnh Lương Vinh tâm sự với ông Craig về những thành công ngoạn mục của Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn tại Hoa Kỳ, về cuộc vận động các địa phương chánh thức công nhận quốc kỳ Việt Nam. Kỹ sư Vinh mong muốn ông Craig, với tư cách Trưởng Đoàn chinh phục đỉnh núi Everest, cắm lá quốc kỳ Việt Nam trên đỉnh núi.
Ông Craig vui vẻ chấp nhận và ông nói thêm rằng: Ông cắm quốc kỳ này trên đỉnh Everest, không chỉ dành riêng cho ông Huỳnh Lương Vinh và Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn trên thế giới, mà ông còn dành danh dự này cho hơn 80 triệu dân trên đất nước Việt Nam nữa. Trong đoàn leo núi này, ngoài ông Craig Van Hoy, còn có 1 người Đài Loan và 4 người Hoa Kỳ. Ông Craig Van Hoy đã thực hiện lời ông đã hứa với kỹ sư Huỳnh Lương Vinh, và ông mang về cho ông Vinh tấm hình ông chụp lá quốc kỳ Việt Nam trên đỉnh Everest để chứng minh lời hứa đó.
2. Quốc kỳ Việt Nam tại Iraq.
Từ địa chỉ e-mail của Tuyến Nguyễn ngày 1/10/2004 cho biết, đơn của Trung sĩ Quân Cảnh Bùi Thanh Thảo trong Lục Quân Hoa Kỳ đang chiến đấu tại Iraq, xin được cắm quốc kỳ Việt Nam tại đơn vị của Anh, đã được cấp trên của Anh chấp thuận. Anh Bùi Thanh Thảo đã cắm quốc kỳ Việt Nam chúng ta cùng với quốc kỳ Hoa Kỳ vào ngày 6/9/2004 ngay trước đơn vị mà anh đang phục vụ tại thủ đô Iraq. Trong ảnh kèm theo e-mail cho thấy, anh Thảo đứng giữa 2 quốc kỳ Việt Nam-Hoa Kỳ. Trong thư gởi cho nhật báo Người Việt ở California, có đoạn anh Thảo viết: Dù là một quân nhân đã phục vụ hơn 7 năm trong quân đội Hoa Kỳ, nhưng tôi vẫn không quên mình là người Việt Nam. Một đoạn khác: Nhân danh cá nhân tôi và các người lính Mỹ gốc Việt đang tham dự vào công cuộc chiến đấu chống khủng bố trên thế giới, tôi sẽ không bao giờ quên truyền thống Việt Nam của tôi, và tôi sẽ theo bước các thế hệ ông cha, tôi tiếp tục chiến đấu cho lý tưởng tự do và dân chủ.
3. Quốc kỳ Việt Nam tại tiểu bang S. Australia.
Chiều ngày 12 tháng 8 năm 2005, một buổi tiếp tân trọng thể do ông Michael Atkinson, Bộ Trưởng Nội Vụ, Bộ Trưởng Đa Văn Hoá và Sắc Tộc tiểu bang Nam Úc, tổ chức tại phòng khánh tiết trong tòa nhà Quốc Hội tiểu bang, để “Vinh Danh Cộng Đồng Việt Nam 30 Năm Tị Nạn tại tiểu bang Nam Úc”. Buổi lễ do ông Mike Rann, Thủ Hiến tiểu bang Nam Úc chủ tọa. Hằng trăm quan khách Việt Nam và Úc Đại Lợi, trong số đó có nhiều viên chức của cơ quan lập pháp lẫn hành pháp tiểu bang tham dự. Trong phòng khánh tiết, hai đại kỳ Australia và Việt Nam, được đặt vào vị trí trang trọng nhất. Quan khách Việt Nam có mặt rất xúc động khi đứng trước quốc kỳ mà mình đã từng chiến đấu bảo vệ. Giờ đây, trong hoàn cảnh chế độ tự do đã sụp đổ 30 năm trước, nhưng quốc kỳ vẫn tồn tại một cách vinh dự trong những hoàn cảnh thích hợp trên những quê hương thứ hai. Phần chánh của buổi tiếp tân, Thủ Hiến Mike Rann đã đọc một bài diễn văn thật ý nghĩa, xin trích dẫn một số đoạn:
… Chúng ta không bao giờ được quên những người đã bỏ mình trong cuộc vượt thoát chế độ cộng sản Việt Nam trong thập niên 70. Chúng ta phải vinh danh Họ, và chúng tôi phải vinh danh quí vị, là những người đã sống sót để thuật lại câu chuyện như một chiến thắng vinh quang của mình, một câu chuyện về vô số người Việt Nam đã trốn chạy chế độ cộng sản ác ôn áp bức từ năm 1975. Cuộc trốn chạy can trường của người Việt Nam, đã làm cho cả thế giới nói chung, và nước Úc nói riêng, phải kinh ngạc!
… Quí vị phải đương đầu với bão tố và hải tặc, với niềm hy vọng trông thấy một dãi đất nhân hậu bên kia chân trời để bắt đầu cho cuộc sống mới. … Sự đóng góp của quí vị đã tạo ra của cải cho tiểu bang Nam Úc, không chỉ về phương diện kinh tế, mà còn cả về phương diện xã hội và văn hoá nữa.
.. Tên của những người Úc gốc Việt trẻ tuổi học hành tận tụy, đã chiếm nhiều hàng tít lớn trên báo chí vào tháng Giêng hằng năm, khi mà kết quả các kỳ thi được công bố với số điểm tối ưu hoặc rất cao. Các em đó cũng học hành xuất sắc như thế ở bậc đại học. Thật ra, tuổi trẻ Việt Nam đã được đứng vững trên đôi vai phi thường của các bậc phụ huynh vĩ đại …”
…Cộng Đồng người Việt cũng đã tiến hành những cuộc tranh đấu đòi hỏi những quyền căn bản cho mọi người dân đang sống tại Việt Nam. Đó là những quyền mà mỗi con người đương nhiên được hưởng, như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do đi lại, quyền không bị ngược đãi bằng bất cứ hình thức nào, ..v..v..
… Chánh phủ do tôi lãnh đạo, và cá nhân tôi, đứng về phía quí vị trong cuộc đấu tranh không ngưng nghỉ, nhằm mang lại tự do và những quyền căn bản cho mỗi con người Việt Nam trên quê hương của quí vị. Vì vậy, trong khi chúng ta tán dương những thành tựu của Cộng Đồng người Việt hôm nay, chúng ta cũng công nhận sự nghiệp đấu tranh cho người dân tại Việt Nam.”
4. Quốc kỳ Việt Nam tại Đức.
Ngày 21 tháng 8 năm 2005, một thánh lễ bế mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 20, được tổ chức trên sân cỏ Marienfield thành phố Koln, Cộng Hòa Liên Bang Đức do Đức Giáo Hoàng chủ lễ. Trong buổi lễ này, ước lượng có khoảng 800.000 người tham dự, và cũng do ước lượng có đến hằng tỷ người trên thế giới theo dõi qua các phương tiện truyền thông. Điều nhấn mạnh ở đây là khán giả theo dõi buổi lễ trên màn ảnh TV đều trông thấy rất rõ quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, cùng với mấy lá cờ nữa được giương cao và tung bay phất phới ngay sau chiếc ghế mà Đức Giáo Hoàng đang ngồi chủ tọa. Vậy là không phải chỉ có Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản trên thế giới đều biết được quốc kỳ Việt Nam chúng ta, đã xuất hiện chánh thức với những văn bản hoặc trong một số lễ hội của chánh quyền bản xứ nơi có tổ chức Cộng Đồng Việt Nam, ít nhất là từ đầu năm 2003 và vẫn tiếp tục, còn có hằng tỷ người trên thế giới trông thấy nữa. Sự nhức nhối của lãnh đạo cộng sản Việt Nam, nhất là nhân viên các cơ quan ngoại giao của họ tại ngoại quốc nhức nhối như con bệnh ung thư ngày thêm trầm trọng. Cái đau của họ là họ thấu hiểu sự nhức nhối đó nhưng không có bất cứ phương cách nào ngăn chận được .
5. Quốc kỳ Việt Nam trong diễn hành văn hoá quốc tế.
Đáp lời kêu gọi của Ủy Ban Tổ Chức Ngày Văn Hoá Quốc Tế tổ chức hằng năm tại New York, Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại Hoa Kỳ bắt đầu tham gia Diễn Hành Ngày Văn Hoá Quốc Tế từ năm 2000, sau khi đánh bại sự khiếu nại của cộng sản giành quyền đại diện Việt Nam tại Cơ Quan Di Dân Quốc Tế của Liên Hiệp Quốc. Đây là lần diễn hành năm thứ 22 trong khi Cộng Đồng Việt Nam tham dự lần thứ 8, tổ chức ngày 18 tháng 6 năm 2007. Phái đoàn của Cộng Đồng Việt Nam tham dự hơn 2.000 người từ 44 Cộng Đồng địa phương qui tụ đến đây, cũng là dịp biểu dương sức mạnh của Cộng Đồng tị nạn ngay trước mặt phái đoàn cộng sản Việt Nam do ông Nguyễn Minh Triết dẫn đầu đang có mặt nơi đây.
Đội hình đoàn diễn hành với quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ và quốc kỳ Hoa Kỳ cùng với banner “International Immigrants Presents Vietnam” dẫn đầu. Tiếp đó là banner “Vietnamese American Community”, lần lượt theo sau là đại diện 44 Cộng Đồng, đoàn nữ giới với trang phục Hoàng Triều, đến đại kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, đoàn Không Quân, xe hoa của hoa hậu Bích Trâm, đoàn nam giới mặc quốc phục cổ truyền, đến màu sắc rất đẹp của đoàn nữ giới với trang phục ba miền Nam Trung Bắc, xe hoa với ảnh Phù Đổng Thiên Vương + bản đồ Việt Nam + lá quốc kỳ Việt Nam và xướng ngôn viên Tố Uyên giới thiệu, đến đoàn nữ giới với chiếc áo dài tha thướt và những chiếc nón lá duyên dáng, rồi đoàn thanh thiếu niên nam nữ với chiếc áo tứ thân và khăn đóng áo dài, đến xe hoa của hoa hậu Bích Liên, đoàn nữ giới với những chiếc áo dài thời trang, và sau cùng của đoàn diễn hành là đông đảo bà con đồng hương. Từ đầu đến cuối đoàn diễn hành của Cộng Đồng là một rừng cờ vàng ba sọc đỏ phất phới suốt 8 block phố trên đại lộ số 6. Đoàn diễn hành của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn đã tạo được tình cảm của Ban Tổ Chức Liên Hiệp Quốc và tất cả mọi người có mặt. Đặc biệt là những đơn vị Cảnh Sát bảo vệ trật tự, khi đi ngang đoàn Việt Nam đều hoan hô “Việt Nam, Việt Nam”.
Đoàn diễn hành của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản đã thành công ngoạn mục.
6. Quốc kỳ Việt Nam trong diễn hành Chiến Sĩ Trận Vong 2007.
Tại Washington DC, một cuộc diễn hành qui mô tổ chức ngày 28/5/2007 nhân Ngày Chiến Sĩ Trận Vong Hoa Kỳ (National Memorial Day). Tham dự có 164 đoàn cựu chiến binh thuộc các quân binh chủng Hoa Kỳ. Đặc biệt có đoàn mô-tô của Rolling Thunder hằng mấy chục chiếc mà đa số là cựu chiến binh Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Trong số rất ít cựu chiến binh thời đệ nhị thế chiến tham dự, có một chiến binh 106 tuổi được Ban Tổ Chức vinh danh. Lúc 11 giờ trưa, Tổng Thống Bush đặt vòng hoa tại đài chiến sĩ vô danh trong nghĩa trang quốc gia Arlington. Đoàn bắt đầu diễn hành lúc 2 giờ trưa từ đường số 7 West, theo đại lộ Constitution, và chấm dứt tại đầu đường số 17.
Đây là lần đầu tiên, Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa vùng đông bắc Hoa Kỳ được mời tham dự. Dẫn đầu đoàn diễn hành Việt Nam là biểu ngữ lớn với dòng chữ “Republic of Vietnam Associations Coalition” do các bà các chị trong chiếc áo dài trắng với khăn quàng màu tím và nón lá bài thơ, những chiếc áo tứ thân với chiếc nón quai thao, cùng căng biểu ngữ chiếm trọn bề ngang đoàn diễn hành. Kế đến là toán thủ quốc kỳ quân kỳ cùng với các toán cựu quân nhân trong quân phục đại diện các quân trường, quân chủng, binh chủng, sau cùng là xe hoa với toán cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến trong tư thế lúc dựng lại quốc kỳ Việt Nam ngay sau khi tái chiếm cổ thành Quảng Trị. Chen lẫn trong đoàn là những chiếc áo dài dịu dàng mềm mại với những màu sắc khác nhau của các toán thuộc gia đình cựu nữ sinh Gia Long, gia đình cựu nữ Quân Nhân, gia đình cựu sinh viên sĩ quan Thủ Đức, cựu sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, gia đình Không Quân, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Nhẩy Dù, Thiết Giáp, Truyền Tin, Thiếu Sinh Quân, Quốc Gia Nghĩa Tử, Chiến Tranh Chính Trị, các Sư Đoàn Bộ Binh 1, 5, 7, 9, và nhóm Hậu Duệ trong chiếc áo dài xanh rất dễ thương cùng với Tập Thể Chiến Sĩ vùng đông bắc Hoa Kỳ, là những hình ảnh nổi bật trong đoàn diễn hành.
Đoàn diễn hành của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn với hơn 100 người tiêu biểu các tổ chức khác nhau, từ nhiều địa phương khác nhau, mang theo những tấm bảng ghi các địa danh từng là chiến trường ác liệt mà hầu hết cựu chiến binh Hoa Kỳ đều biết, khi đi ngang khán đài danh dự, quan khách cùng đứng lên chào lá đại kỳ Việt Nam. Đây là một thành công nữa trong mục đích giương cao quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ trong vùng đông bắc Hoa Kỳ.
7. Quốc kỳ Việt Nam tại Paris.
Theo e-mail của ông Nguyễn Bắc Ninh từ Paris. Do vận động của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại địa phưong, tòa thị chánh “Voisins Le Bretonneux” cách Paris 35 cây số, cho phép treo quốc kỳ Việt Nam trên một trong bốn cột cờ chánh của tòa thị chánh trong 3 ngày từ 8 giờ 30 sáng ngày 27/6/2008 đến 8 giờ 30 sáng ngày 30/6/2008. Tuy không được như Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại Hoa Kỳ, Canada, Australia, nhưng bà con trong Cộng Đồng tại đó rất vui mừng vi được thấy quốc kỳ chúng ta lần đầu tiên chánh thức tung bay trên bầu trời Paris cùng với quốc kỳ Pháp suốt thời gian ngắn ngủi ấy.
8. Quốc kỳ Việt Nam trong Ngày Giới Trẻ Quốc Tế tại Sydney.
“Ngày Giới Trẻ Quốc Tế lần thứ 23” tổ chức tại Sydney, Australia, từ ngày 15 đến 20 tháng 7 năm 2008. Trong tổng số giới trẻ tín đồ Thiên Chúa tham dự đại hội có 100.000 giới trẻ bản xứ, 125.000 người từ khắp nơi trên thế giới đến, trong số đó có 15.000 giới trẻ -gồm cả giới trẻ Mỹ gốc Việt- từ Hoa Kỳ đến, và khoảng 600 giới trẻ đến từ Việt Nam.
Ngày 17/7/2008, trong lúc trên du thuyền gần Cầu Hải Cảng và Nhà Hát Con Sò, thanh niên Phạm Vũ Anh Dũng đã kể chuyện với Đức Giáo Hoàng về cuộc sống của gia đình anh trong Cộng Đồng tị nạn cộng sản, nhân đó anh dâng dãi quốc kỳ lên Đức Giáo Hoàng. Ngài liền ban phép lành và tự choàng lên cổ. Tấm hình lịch sử này được chiếu trên đài truyền hình Australia.
Ngày 20/7/2008, trong Thánh Lể bế mạc Đại Hội, Cộng Đồng tị nạn đã thành công cao hơn dự tưởng, vì không một lá cờ đỏ nào của cộng sản Việt Nam xuất hiện trong khi rừng cờ vàng rực rỡ giữa rừng người dự lễ mà cơ quan truyền thông Australia ước lượng khoảng 500.000 người.
Tuổi trẻ Việt Nam đến Sydney từ khắp nơi vào khoảng 3.000 người và Ban Tổ Chức sắp xếp ở chung nhau. Do dễ dàng tâm sự bên nhau nên được biết trước khi rời Việt Nam, mỗi người phải mang theo cờ của đảng cộng sản và được lệnh phải giương cao 400 lá cờ đỏ trong ngày thánh lễ bế mạc, nhưng các bạn này quyết định không thực hiện, một phần vì Ban Tổ Chức bảo cất nó trong cặp, phần khác vì biết tin ngày bế mạc có đến 5.000 người Việt Nam cùng giương cao cờ vàng ba sọc đỏ. Quả thật, ngày bế mạc cả rừng cờ vàng giữa rừng người đến nửa triệu, lúc ấy nhận thấy quyết định không giương cờ đỏ lá đúng, dù biết rằng sẽ gặp khó khăn khi về nước. Rất nhiều bạn trẻ chụp hình kỷ niệm, dù chụp từ góc cạnh nào cũng có cờ vàng ba sọc đỏ trong hình nhưng các bạn cho biết không sợ, cứ tới đâu hay đó. Các bạn cũng cho biết, có vài bạn bị phóng viên báo Thanh Niên kéo ra một góc kẹt, căng cờ đỏ lên để họ chụp hình về VN làm báo cáo.
Tờ Sydney Morning Herald phát hành ngày 21/7/2008, trong bài viết ngắn “A Flag For Freedom” (Lá Cờ Cho Tự Do) được ông Trần Hưng Việt tại Brisbane, Queensland, Australia, dịch từ Anh ngữ như sau: “Cuộc chiến có thể đã chấm dứt, nhưng đối với nhiều người trong Cộng Đồng người Việt ỏ Sydney thì không. Quốc kỳ của Nam Việt Nam là biểu tượng được trông thấy rõ ràng nhất giữa rừng quốc kỳ và các biểu ngữ về tôn giáo trong buổi Thánh Lễ của Đức Giáo Hoàng, mặc dù đó là một biểu ngữ không có quốc gia và bị cấm ở nơi chốn nguyên thủy của nó. Đây là quốc kỳ của nước Việt Nam Tự Do. Một người hành hương trong nhóm người Việt đang đứng dưới lá đại kỳ màu vàng ba sọc đỏ: Hôm nay, chúng tôi mang lá cờ này để nhắc nhớ mọi người rằng, có những nhà cầm quyền vẫn đàn áp quyền tự do tôn giáo”.
9. Quốc kỳ Việt Nam trong trường Mt. Tahoma.
Từ địa chỉ e-mail kèm theo thư của cháu Nguyễn Anh Thùy, đang học tại trường Mt. Tahoma, Tacoma, tiểu bang Washington. Theo đó, năm 2008 trong ngày văn hoá tại trường, cháu thấy học sinh gốc quốc gia nào có cờ của quốc gia đó, riêng Việt Nam thì không là cháu suy nghĩ. Trong một lớp học, cháu thấy cô giáo có bộ sưu tập các quốc kỳ, trong đó có cờ đỏ sao vàng với kích thước khá nhỏ do một học sinh Việt Nam tặng. Từ đó cháu cùng nhóm học sinh Việt Nam quyết định ghi tên tham dự Ngày Văn Hóa của trường vào ngày 27/03/2009. Cháu Thùy nói: “... Và thật hãnh diện khi lá cờ Việt Nam tung bay sánh bước cùng cờ tiểu bang liên bang, chúng con bước đi trong niềm hạnh phúc và cháy bỏng trong tim để bạn bè và cô giáo thấy biết đây chính là lá cờ thật sự của nước Việt Nam chúng ta. Chúng con rất vui khi đem lá cờ tự do Việt Nam và những điệu múa dân gian cùng tà áo dài truyền thống của người con gái Việt đến những bạn trẻ Việt Nam sống nơi đây cũng như bạn bè khắp nơi biết được nét đẹp và văn hoá độc đáo của đất nước chúng ta. Và từ hôm ấy lá cờ vàng ba sọc đỏ được treo tại trường cùng lá cờ các quốc gia bạn”.

Phần hai. Những kỳ đài.
1. Kỳ đài tại San Jose, Hoa Kỳ.
Ghi nhớ đến kỳ đài, tuy có muộn màng nhưng rất cần tuyên dương Liên Hội Người Việt tại thành phố San Jose, tiểu bang California. Giữa những năm 80, một công viên văn hoá Việt Nam được xây dựng tại thành phố này, và trong dự án kỳ đài có quốc kỳ Việt Nam sẽ phất phới trên đó. Hội Đồng Quản Trị Công Viên thành phố San Jose hỏi ý kiến Bộ Ngoại Giao về việc Cộng Đồng Việt Nam treo quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa trước kia trên kỳ đài trong công viên. Trong văn thư ngày 22/9/1986 của Bộ Ngoại Giao, theo đó “Bộ Ngoại Giao không thấy trở ngại nào, về việc quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa (cũ) treo trên kỳ đài của đài tưởng niệm những chiến sĩ Việt Nam và Hoa Kỳ, đã dũng cảm hi sinh cho dân chủ tự do trong cuộc chiến tại Việt Nam”.
2. Kỳ đài tại Houston, Hoa Kỳ.
Lần lượt các Hội Đồng Đại Diện Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Houston, từ năm 1994 đến năm 2005, với sự hỗ trợ tích cực của đồng hương trong Cộng Đồng, đã thực hiện được 12 kỳ đài tại các khu phố thương mại sầm uất của Houston và ven ngoại ô. Tại mỗi kỳ đài có 3 lá cờ ngang nhau: quốc kỳ Hoa Kỳ, quốc kỳ Việt Nam, và cờ tiểu bang Texas. Tất cả tuy chưa phải là qui mô như tên gọi, nhưng điều quan trọng là quốc kỳ Việt Nam chúng ta, cùng với quốc kỳ liên bang Hoa Kỳ và cờ tiểu bang Texas, tung bay trên các vùng Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, và Tây Nam của thành phố.
3. Kỳ đài tại Pomona, Hoa Kỳ.
Nguồn tin từ bác sĩ Võ Đình Hữu, Cộng Đồng Người Việt thành phố Pomona Valley, tiểu bang California, Hoa Kỳ, đã khánh thành kỳ đài ngày 30/4/2000. Kỳ đài được thành phố cấp giấy phép số 812 ngày 20/4/2000. Trên đỉnh hai cột cờ có chiều cao 45 feet (khoảng 15 thước), là quốc kỳ Việt Nam và quốc kỳ Hoa Kỳ tung bay trong gió.
4. Kỳ đài tại Seattle, Hoa Kỳ.
- Ngày 25 tháng 4 năm 2004, một kỳ đài với 2 cột cờ cao 36 feet được khánh thành trong buổi lễ trang trọng tại khuôn viên đài phát thanh Sài Gòn SRBC ở thành phố Seattle, tiểu bang Washington. Rất đông đồng hương tham dự.
5. Kỳ đài tại Greer, Hoa Kỳ.
Nguồn tin từ anh Phạm Bá Hân. Với văn thư chánh thức ngày 12/12/2005, Disabled American Veterans Greer Chapter 39, đồng ý cho Việt Nam thực hiện các bia đá đen ghi tên các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hi sinh vì Dân chủ Tự Do. Các bia đá đen này đặt cạnh các bia đá đen ghi tên các tử sĩ Hoa Kỳ có sẳn nơi đây. Mỗi bia đá đen ghi danh được 57 tử sĩ với chi phí chung là 5.630 mỹ kim (hay là chi phí riêng cho mỗi tử sĩ là 98.78 mỹ kim). Hội Cựu Quân-Cán-Chánh tại South Carolina, đang vận động gây quỹ để thực hiện những tấm bia đá đen này, khắc tên từng tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa, để các thế hệ mai sau nhớ mãi gương hi sinh cao quí của những bậc cha ông.
Lễ khánh thành kỳ đài trong công viên Victor Memorial Veterans tại thành phố Greer, tiểu bang South Carolina, tổ chức lúc 11 giờ sáng ngày 29/4/2006, do Hội Cựu Quân-Cán-Chánh và Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia thành phố Greenvill, phối hợp với Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ tổ chức. Công trình này do Clayton Monuments thực hiện. Hai quốc kỳ Việt Nam và Hoa Kỳ trên đỉnh hai cột cờ, trong nhóm kỳ đài có sẳn trong công viên này.

Phần ba. Bia đá tưởng niệm chiến sĩ.
1. Bia tưởng niệm tại Honolulu, Hoa Kỳ.
Tài liệu từ Giáo Sư Nguyễn Văn Canh, “Ủy Ban Dựng Bia Đá & Vinh Danh” gọi tắt là “Ủy Ban Vinh Danh” được thành lập, do Luật Sư Đỗ Doãn Quế Chủ Tịch, cô Nina Nguyễn Ngọc Nhung, Phó Chủ Tịch Điều Hành, cựu Đại Tá Gene Castagnetti, Phó Chủ Tịch Đối Ngoại, và một số vị trách nhiệm những bộ phận khác nhau. Giáo Sư Nguyễn Văn Canh là Cố Vấn. Bia đá ghi danh tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa được phép đặt cạnh bia đá của Không Quân Hoa Kỳ, cùng hàng với khoảng 50 bia đá của Hoa Kỳ và các quốc gia khác, trong khuôn viên “Nghĩa Trang Quốc Gia Thái Bình Dương” (National Memorial Cemetery of the Pacific = NMCP) tại Honolulu, tiểu bang Hawaii. Nghĩa trang nằm trên miệng núi lửa Puowaina, rộng 112 mẫu. Puowaina có nghĩa là “Hi Sinh”. Bia đá nặng khoảng 2.000 lbs. trên đỉnh núi Kapa’a do Giám Đốc công ty sở hữu núi Kapa’a tặng. Chuyển xuống núi đưa đến nơi cưa, đục, và hoàn chỉnh.
Ngày 30/4/2006, Bia Đá Vinh Danh Tử Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã được khánh thành trong buổi lễ rất trang nghiêm và cảm động.
Phần trên của bia đá: Chính giữa là bản đồ Việt Nam. Bên trái là quốc kỳ Hoa Kỳ với dòng chữ “Duty - Honor - Country”. Bên phải là quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ với dòng chữ “Tổ Quốc Ghi Ân - Vị Quốc Vong Thân”. Phần dưới là một khung lớn với những dòng chữ bằng Anh ngữ “Vinh Danh Quân Lực Hoa Kỳ, Quân Lực & Nhân Dân Việt Nam Cộng Hòa, và các quốc gia Đồng Minh Australia, New Zealand, South Korea, Phillippines, Taiwan, và Thailand, đã chiến đấu chống cộng sản để bảo vệ dân chủ tự do và nhân quyền cho thế giới”.
Trong e-mail
lochuong65@yahoo.com.au viết về lễ khánh thành Bia Đá này, có bài thơ Vị Quốc Vong Thân, như sau: Vị Quốc Vong Thân Ất Mão niên. Quốc suy Tướng sĩ chết theo thành. Vong linh tuế nguyệt trầm hương tỏa. Thân thế thiên thu khắc hãn thanh”.
2. Bia tưởng niệm tại Fayetteville, Hoa Kỳ.
Nguồn tin từ tác giả Nguyễn Văn Lập. “Hội Ngộ Mũ Đỏ” (Red Hat Reunion) được tổ chức tại thành phố Fayetteville, tiểu bang North Carolina, từ ngày 11-14 tháng5/2006. Khoảng 300 Mũ Đỏ Hoa Kỳ và Mũ Đỏ Việt Nam tham dự. Nhiều cơ quan truyền thông Hoa Kỳ và Việt Nam cũng có mặt. Trong số Mũ Đỏ Hoa Kỳ, có nhiều vị trước kia là cố vấn Sư Đoàn Nhẩy Dù Việt Nam mà nay là Tướng Lãnh. Một đoạn trong lời phát biểu, Trung Tướng James B. Vaught -Cố Vấn Sư Đoàn Nhẩy Dù Việt Nam năm 1971- nhấn mạnh: “… Tưởng rằng làm cố vấn giúp các bạn chiến đấu, nhưng thật sự thì chúng tôi học tinh thần chiến đấu anh dũng tuyệt vời của các bạn. Và buổi lễ tưởng niệm này để tưởng nhớ sự hy sinh của trên 20.000 Người Lính Nhẩy Dù Việt Nam Cộng Hòa trong suốt cuộc chiến, trong đó có nhiều Cố Vấn thuộc Team 162 đã nằm xuống vì tự do cho Việt Nam…”
Lễ đặt Bia Đá Tưởng Niệm và khánh thành Khu Bảo Tàng dành cho Mũ Đỏ Việt Nam được thực hiện ngày 12/5/2006, rất trang trọng với đầy đủ lễ nghi quân cách của quân lực Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa. Trên Bia Đá có dòng chữ “Dedicated to the 20,000 + Vietnamese Airborne who died fighting for freedom and democracy in South Vietnam 1960-1975. Military Assistance Command Vietnam Advisory Team 162 The Red Hats”. Tấm bia này được khắc xuống nền sân trước của Bảo Tàng Viện. Trích lời phát biểu của Đại Tá Paul Devries, Trưởng Ban Tổ Chức trong lễ khánh thành “Khu Bảo Tàng” bên trong Bảo Tàng Viện: “… Phải gọi là lịch sử, vì đây là lần đầu tiên và duy nhất, một Binh Chủng thiện chiến của quân đội Đồng Minh (Việt Nam Cộng Hòa) được đặt Bia Tưởng Niệm và có một Khu Bảo Tàng vĩnh viễn trong Bảo Tàng Viện nổi tiếng của Lục Quân Hoa Kỳ …”
Chủ Tịch Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam, ông Nguyễn Thành Phúc, đã cảm tạ Toán Cố Vấn Nhẩy Dù 162 thuộc MACV về nghĩa cử và hành động ghi nhớ sự hy sinh của chiến sĩ Nhẩy Dù Việt Nam Cộng Hòa.

Phần bốn. Tượng đài tưởng niệm Chiến Sĩ.
1. Tượng đài tại Fairfield, Australia.
Ngày 31/8/1991, lễ khánh thành Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa & Úc Đại Lợi rất trọng thể, do Đề Đốc Peter Sinclair, Thủ Hiến tiểu bang New South Wales, Australia chủ tọa. Tượng đài đặt trong công viên Cabra-Vale, thành phố Fairfield, ngoại ô của Sydney, với quốc kỳ Việt - Úc cùng phất phới trên kỳ đài.
2. Tượng đài tại Perth, Australia.
Ngày 7 tháng 12 năm 2002, Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn chúng ta tại Australia nói chung và miền Tây Australia nói riêng, đã thực hiện và khánh thành Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt - Úc đã hi sinh vì dân chủ tự do tại thành phố Perth, miền Tây Australia. Tại đó, quốc kỳ Việt Nam chúng ta đã chánh thức phất phới trên kỳ đài, dù rằng đại sứ cộng sản Việt Nam tại Australia đã phản đối mạnh mẽ, nhưng họ đã thất bại như đã thất bại với tượng đài năm 1991.
3. Tượng đài tại Westminster, Hoa Kỳ.
Ngày 27/4/2003, Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt Nam-Hoa Kỳ đã được long trọng khánh thành tại công viên tòa thị sảnh thành phố Westminster, tiểu bang California, nơi được xem là “thủ đô” của Cộng Đồng tị nạn chúng ta. Trong buổi lễ này, rất đông nhân vật chánh quyền địa phương, chánh quyền tiểu bang và liên bang Hoa Kỳ, nhiều quan khách ngoại quốc mà trước kia có quân đội tham chiến bên cạnh quân đội Việt Nam Cộng Hòa, và hằng chục ngàn đồng hương Việt Nam tại địa phương, từ nhiều tiểu bang khác, cùng với đồng hương từ nhiều quốc gia xa xôi đến tham dự.
4. Tượng đài tại Dandenong, Australia.
Ngày 30/4/2005, tượng đài được khánh thành trong buổi lễ thật trang trọng tại Dandenong, tiểu bang Victoria, Australia, với sự tham dự rất đông bà con Việt Nam từ các tiểu bang qui tụ về đây. Trên bệ tượng đài là Người Lính Australia & Người Lính Việt gần như đâu lưng nhau trong tư thế sẳn sàng chiến đấu trên đường hành quân.
5. Tượng đài tại Houston, Hoa Kỳ.
Ngày 11/6/2005, rất đông bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại thành phố Houston và vùng phụ cận, và một số nhân vật Hoa Kỳ địa phương -kể cả cựu chiến binh Hoa Kỳ- đã tham dự ngày khánh thành tượng đài Chiến Sĩ Việt Nam & Hoa Kỳ trong buổi lễ rất trang trọng. Tượng chiến sĩ Việt Nam và Hoa Kỳ, súng trong tay, cùng nhìn về phía trước trong tư thế sẳn sàng tác chiến. Tượng đài xây dựng tại số 11360 đại lộ Bellaire, khu tây nam thành phố Houston, nơi qui tụ đông đảo đồng hương cư trú lẫn kinh doanh thương mãi.
6. Tượng đài tại Brisbane, Australia.
Ngày 16/9/2005, tại miền Đông Australia, tượng đài Chiến Sĩ Việt Nam & Australia được khánh thành rất trang trọng trong Công Viên Roma Street tại trung tâm thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland, cách Sydney khoảng 1.000 cây số về phía bắc. Lễ khánh thành do bà Anna Bligh, Phó Thủ Hiến Queensland chủ tọa, với sự tham dự khoảng 700 người Việt và Úc. Theo tài liệu của anh Nguyễn Văn Sanh từ Brisbane cung cấp, Ủy Ban Xây Dựng thành lập từ tháng 4 năm 2001. Trách nhiệm thực hiện do Ban Điều Hành với hai vị đồng Trưởng Ban là cựu Đại Úy Huỳnh Bá Phụng và cựu Thiếu Tá Alan Cunningham. Tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hòa & Người Lính Australia, do điêu khắc gia Dean Rusling, nhà tạc tượng Frederick Whitehouse, và kiến trúc sư Lê Cương thực hiện.
7. Tượng đài tại Adelaide, Nam Australia.
Tại thành phố Adelaide, sau hơn 3 năm phối hợp công tác của Hội Cựu Chiến Binh Úc tham chiến tại Việt Nam và Hội Cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, ngày 15/10/2006, tượng đài Chiến Sĩ Việt Nam & Australia trong công viên Torrens Parade Ground trước Trung Tâm Quân Sự Tiểu Bang Nam Úc, được khánh thành trong buổi lễ rất trang nghiêm và cảm động, do ông Mike Rann, Thủ Hiến tiểu bang Nam Úc chủ tọa. Khoảng 4.000 quan khách Việt Nam và Australia tham dự, trong số đó có nhiều chính khách của thành phố Adelaide, tiểu bang, và liên bang. Đặc biệt, có mặt của Trung Tướng Donald Dunstan, cựu Tư Lệnh quân đội Úc tại Việt Nam Cộng Hòa năm 1971-1972.
Tượng chiến sĩ Việt-Úc cùng đứng bên nhau trên bệ đá hoa cương. Mặt Nam là mặt chánh, có dòng chữ “Vietnam War Memorial” mạ vàng. Mặt Đông khắc huy hiệu Hải Lục Không Quân Úc và huy hiệu Hải Lục Không Quân VNCH. Mặt Bắc ghi tên 58 chiến sĩ của Nam Úc đã hi sinh trên chiến trường VNCH. Nền gạch màu đỏ theo hình huy chương Victoria Cross, là huy chương cao quí của quân đội Úc. Quốc kỳ Việt Nam và quốc kỳ Úc phất phới trên đỉnh kỳ đài. Đây là sự đánh đổi bằng cách không nhận tài trợ 40.000 Úc kim từ chánh phủ liên bang để hai lá quốc kỳ được treo vĩnh viễn nơi đây. Tổng số chi phí tượng đài khoảng 350.000 Úc kim, do Ủy Ban Hổn Hợp Việt Úc vận động tài chánh trong cộng đồng Việt Nam tị nạn và cộng đồng bản xứ.
8. Tượng đài tại West Valley, Hoa Kỳ.
Sau gần 4 năm vận động và thực hiện, Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại thành phố West Valley, tiểu bang Utah, đã khánh thành Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ vào ngày 22/9/2007 trong buổi lễ trang nghiêm và trọng thể. Chiến hữu Nguyễn Mạnh Trí, Chủ Tịch Ủy Ban Xây Dựng, phụ trách điều hợp chương trình và cô Jenifer Hà thông dịch. Đông đảo cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, quân nhân Hoa Kỳ gốc Việt Nam, các cháu trong toán Young Marines Việt Nam, và cơ quan truyền thông báo chí tham dự. Về phía Hoa Kỳ, nhiều viên chức của Quận Hạt, thành phố, và cựu chiến binh. Đặc biệt có sự tham dự của cựu Trung Tướng Lâm Quang Thi, và Phó Thống Đốc tiểu bang Utah thay mặt Thống Đốc bận công tác.
Tượng đài xây dựng trong khu Trung Tâm Văn Hoá Các Sắc Tộc của thành phố. Với những gì liên quan đến tượng hai chiến sĩ Việt Mỹ trên bệ đài, kể cả hai lá quốc kỳ Việt Mỹ, là cả một nỗ lực của Ủy Ban Xây Dựng và bà con trong Cộng Đồng chỉ khoảng 8.000 người, đã vận dụng đến lịch sử Việt Nam lẫn lịch sử Hoa Kỳ và tranh luận rất gay go với Hội Đồng thành phố và Ủy Ban Duyệt Xét của West Valley gồm cả Thị Trưởng + Ban Quản Trị thành phố + Hội Đồng Nghị Viên + Luật Sư đoàn, ..v..v.. , sau cùng mới đạt được như vậy. Những khó khăn trở ngại mà Ủy Ban Xây Dựng phải đương đầu, do quan niệm của Ủy Ban Duyệt Xét muốn nhìn tượng đài dưới góc cạnh thuần túy văn hoá và tránh né những gì liên quan đến chiến tranh.
9. Tượng đài tại Saint Cloud, Hoa Kỳ.
Ngày 2 tháng 6 năm 2007, Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại tiểu bang Minnesota đã tổ chức lễ khánh thành “Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt-Mỹ” cạnh hồ George thuộc công viên Eastman, thành phố Saint Cloud, với sự tham dự của hằng ngàn đồng hương từ các thành phố của tiểu bang Minnesota, còn có đồng hương từ các tiểu bang lân cận và xa như Illinoise, California cũng đến. Ba vị khách từ xa đến là cựu Trung Tướng Lâm Quang Thi, Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, và chiến hữu Võ Văn Đức, Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Cựu SVSQ Trường Võ Bị Quốc Gia. Về phía chánh quyền địa phương tham dự có Thống Đốc tiểu bang, một số Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu, ông Thị Trưởng Saint Cloud, một số Nghị Viên Hội Đồng thành phố, Hội Đoàn VVA Chapter 290, Hội Đoàn VVA Chapter của Anoka County, Ban nhạc của City, và Đoàn Patriot Guard Riders với hằng trăm xe Motor Harley biểu diễn ngoạn mục.
Buổi lễ bắt đầu lúc 11 giờ trưa. Sau lễ chào quốc kỳ Mỹ-Việt và phút mặc niệm, Thống Đốc Tim Pawlenty và cựu Trung Tướng Lâm Quang Thi, cùng kéo bức màn phủ trên phiến đá hoa cương, hình ảnh hai chiến sĩ Việt-Mỹ hiện ra giữa tiếng vỗ tay kéo dài của khối người giữa rừng cờ vàng ba sọc đỏ, cờ tiểu bang, và cờ liên bang. Sau nghi thức cầu nguyện là lời giới thiệu của ông Thị Trưởng Dave Kleis, ông Chủ Tịch VVA Chapter 290 Jim Bestick, và ông Trưởng Ban Xây Dựng Đài Tưởng Niệm Nguyễn Kiếm Hoa. Kết thúc lễ khánh thành với nghi thức đặt vòng hoa tại đài chiến sĩ trong tiếng nhạc trầm buồn của xứ Tô Cách Lan, hòa vào âm thanh nốt nhạc Chiêu Hồn Tử Sĩ của Đoàn Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ. Chấm dứt lúc 1 giờ 10 phút.
10. Tượng đài tại Melbourne, Australia.
Sau hơn hai năm vận động và thực hiện, ngày 21/6/2008,”Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam” tổ chức lễ khánh thành “Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ & Thuyền Nhân Việt Nam” tại công viên Jensen, Melbourne, tiểu bang Victoria, Australia. Vì không có bài viết nên nhìn vào những tấm hình ước lượng khoảng 300 đồng hương cùng với 30 quan khách chánh quyền thành phố Melbourne và tiểu bang Victoria (ghi trên thư mời) tham dự. Cũng nhìn vào hình, tượng đài có hai cánh gắn liền nhau như tượng trưng hai cánh buồm đặt trên nền có dạng chiếc ghe. Chi phí 70.000 Úc kim do đồng hương đóng góp (tôi đang xin thêm tin tức, sẽ bổ túc khi nhận được).
11. Tượng đài tại Montréal, Canada.
Ngày 21/6/2008, Hội Bảo Vệ Di Sản Việt Nam và Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài đã tổ chức lễ khánh thành “Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ & Thuyền Nhân Việt Nam” tại Montréal, Canada, với khoảng 400 đồng hương và đại diện cơ quan chánh quyền Montreal cùng quan khách tham dự. Bắt đầu với nghi thức rước quốc quân kỳ Việt Nam và quốc kỳ Canada, sau lời tường trình của ông Ngô Anh Võ, Chủ Tịch Hội Bảo Vệ Di Sản Việt Nam kiêm Trưởng Ban Xây Dựng Tượng Đài, Hòa Thượng Thích Tâm Châu và Đức Ông Pierre Vlanchard Giáo Phận Montreal, cùng kéo tấm vải phủ bên trên thì “Tượng Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ & Thuyền Nhân” từ từ hiện ra với sự xúc động của đồng hương hòa trong tiếng vỗ tay kéo dài của mọi người có mặt, làm cho rừng cờ vàng trên những cánh tay đôi lúc cũng rung động. Tượng đài gồm 3 phần liền nhau: Bên trái là quốc kỳ Việt Nam, chính giữa là một Chiến Sĩ cầm súng với thế ngồi phảng phất Tượng Thương Tiếc Nghĩa Trang Quân Đội cạnh xa lộ Biên Hòa,và phần bên phải có hình chiếc thuyền bé bỏng giữa biển khơi! Thời gian thực hiện tượng đài 18 tháng kề từ buổi họp quyết định thực hiện công trình, với chi phí ước tính 75.000 gia-kim do đồng hương chung góp, nhưng khi hoàn tất lên đến 100.000 gia kim.

Phần năm. Bia và tượng đài tưởng niệm Thuyền Nhân.
Bia Tưởng Niệm, Tượng Đài Tưởng Niệm, và Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân Việt Nam, là những biểu tượng góp phần lưu giữ chứng tích tội ác của lãnh đạo cộng sản Việt Nam, từ sau khi vi phạm trầm trọng Thỏa Ước Hòa Bình ký ngày 27/1/1973 tại Paris, thủ đô Pháp quốc, xua quân tràn qua vĩ tuyến 17 đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa ngày 30/4/1975, và áp dụng chính sách độc tài cai trị toàn dân.
1. Bia tưởng niệm trên đảo Galang và đảo Bidon.
Tháng 3 năm 2005, khoảng 150 đồng hương trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản từ Australia, Canada, Hoa Kỳ, và Thụy Sĩ, cùng hội ngộ tại Malaysia và Indonesia để thăm lại khoảng 300 ngôi mộ của những thân nhân hoặc bạn đồng hành đã vượt thoát chế độ cộng sản độc tài trên hành trình tìm tự do, nhưng đã nằm lại nơi đây! Cũng để cùng nhau dựng hai bia trên đảo Galang (Indonesia) bằng bê tông cốt sắt. Cao 1 thước, ngang 0.7 thước, và dầy 0.03 thước.
Bia màu trắng là “Bia Tri Ân” với dòng chữ: “In appreciation of the efforts of UNHCR, the Red Cross & Indonesian Red Crescent Society and other world relief organizations, the Indonesian Government and people as well as countries of first asylum and resettlement. We also express our gratitude to the thousands of individuals who worked hard in helping the Vietnamese refugees. OVERSEAS VIETNAMESE COMMUNITIES, 2005”. Tri ân những nỗ lực của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, của Hồng Thập Tự và Hội Hồng Nguyện Nam Dương cùng các tổ chức cứu trợ quốc tế khác, chánh phủ và nhân dân Nam Dương cũng như các quốc gia tạm dung và các quốc gia định cư. Chúng tôi cũng tri ân hằng ngàn người đã làm việc tận lực để giúp đỡ người tị nạn Việt Nam. CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM HẢI NGOẠI, 2005.
Bia màu đen là “Bia Tưởng Niệm” với dòng chữ: “In commemoration of the hundreds of thousands of Vietnamese people who perished on the way to Freedom 1975-1996. Though they died of hunger or thirst, of being raped, of exhaustion or of any other case, we pray that they may now enjoy lasting peace. Their sacrifice will never be forgotten. OVERSEAS VIETNAMESE COMMUNITIES, 2005”. Tưởng niệm hằng trăm ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên đường tìm tự do 1975-1996. Dù Họ chết vì đói khát, vì bị hãm hiếp, vì kiệt sức, hay vì bất cứ lý do nào khác, chúng ta hãy cùng cầu nguyện để Họ được an nghỉ cõi vĩnh hằng. Sự hi sinh của Họ sẽ không bao giờ bị lãng quên. CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM HẢI NGOẠI, 2005.(trích bài của ông Nguyễn Duy An, 2008)
Một bia khác trên đảo Bidon (Malaysia) có kích thước: ngang 1.0 thước và cao 3.0 thước, do công ty Bold Express của Singapore làm trung gian và công ty Bida thực hiện.
Theo báo Jakarta Post ngày 20/6/2005 tại thủ đô Indonesia, ông Trần Đức Lương, Chủ Tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đã yêu cầu Tổng Thống Indonesia (ông Susilo) khẩn cấp phá bỏ bia tưởng niệm trên đảo Pulau Galang vì đã xúc phạm đến Việt Nam. Nhân viên bảo trì công viên, ông Mursidi nói với phóng viên rằng: “Lệnh phá bỏ bia tưởng niệm phải thực hiện ngay tức khắc, đến mức phải dựng mái lều dưới cơn mưa trong đêm tối, để làm công việc đục bỏ phần có những hàng chữ trên bia.” Còn Anne Oh, người điều hợp công ty Bold Express cho biết: “Chánh phủ cộng sản Việt Nam không chỉ đòi phá bỏ bia tưởng niệm tại Galang, mà họ còn đòi phá bỏ bia trên đảo Bidong bên Malaysia nữa”.
Hành động của lãnh đạo cộng sản Việt Nam, chứng tỏ họ rất sợ những chứng tích nói lên tội ác của họ, dù chứng tích đó thể hiện qua những vật thể nào ở bất cứ nơi đâu, nhưng cả cái Bộ Chính Trị cộng sản Việt Nam, không bao giờ và cũng không thể nào phá bỏ được những chứng tích tội ác của họ trong mỗi người Việt Nam không cộng sản. Hơn thế nữa, mỗi người Việt Nam tị nạn cộng sản là “tấm bia sống” tố giác vô vàn tội ác của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam!
2. Bia tưởng niệm tại Genève, Thụy Sĩ.
Nguồn tin từ e-mail Diễn Đàn Nước Việt do Thanh Thảo tường trình. Ngày 9/2/2006, Cộng Đồng Viêt Nam ở Thụy Sĩ đã tập trung về thành phố Grand Saconnex, Genève, dự lễ khánh thành Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân. Buổi lễ dưới quyền chủ tọa của bà Elizabeth Boehler, Thị Trưởng thành phố Grand Saconnex, và là Phó Chủ Tịch đảng Parti Radical thành phố Genève. Bia Tưởng Niệm đặt trong khuôn viên Campagne du Château Pictet, một khung cảnh thanh tịnh, yên lành.
Nhà báo Thierry Oppikofer, Chủ Tịch Ủy Ban Thụy Sĩ - Việt Nam, đã ca ngợi sự hỗ trợ mạnh mẽ của ông Michel Rossetti cựu Thị Trưởng thành phố Genève, và ông Pierre Marti, cựu Chủ Tịch Hội Đồng thành phố Genève. Ông Trần Hữu Kinh, Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân Việt Nam cộng Hòa, thay mặt Cộng Đồng Việt Nam cảm tạ chánh quyền thành phố Genève đã nhiệt tình giúp đỡ Thuyền Nhân Việt Nam tị nạn cộng sản. Sự kiện đặt Bia Tưởng Niệm hôm nay, thể hiện lòng nhân ái của chánh quyền và nhân dân Thụy Sĩ đối với Cộng Đồng Việt Nam. Bà Thị Trưởng Elizabeth Boehler, bày tỏ lòng ngưỡng mộ những sự hi sinh của những người Việt Nam can đảm trên đường tìm tự do.
Sau phần nghi lễ, bà Thị Trưởng cùng ông Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân Việt Nam, kéo tấm màn phủ tấm Bia Tưởng Niệm. Do sự kiện Bia Tưởng Niệm tại Insonesia và Malaysia bị phá bỏ theo yêu cầu của cộng sản Việt Nam, nên Bia Tưởng Niệm này giữ theo hình thức của hai bia đó. Bia tưởng niệm và cây tùng được đặt trên một khung sỏi theo hình chiếc ghe. Những viên sỏi lớn tượng trưng cho sóng biển, tấm bia tượng trưng cho cánh buồm, cây tùng tượng trưng cho cột buồm. Cây tùng còn tượng trưng cho những người trẻ Việt Nam và Thụy Sĩ có gốc rễ ở nước này, sẽ mãi mãi không quên những người đã chết vì lý tưởng tự do, và thảm trạng này là khởi điểm của sự hình thành Cộng Đồng Việt Nam tại Thụy Sĩ.
Bia làm bằng đá cẩm thạch đen, một bên là Anh ngữ “In memory of the exodus of the Boat People through out the world 1975 - 2005. The Vietnamese refugees are grateful to Switzerland and to the host countries. We are happy to live in a space of peace, freedom, and democracy. Vietnam, land of our ancestors, will forever be in our heart”. Và một bên là Pháp ngữ“En souvenir de l’ exode des boat-people dans la monde 1975-2006. Les réfugie’s Vietnamiens remercient Liège, la Belgique, et les pays d’accueil. Nous sommes heureux de vivre dans cet espace de paix, de liberté, et démocratie. Le Vietnam, pays de nos ancêtres, restera à jamais dans nos coeurs”. Được dịch ra Việt ngữ như sau: “Tưởng niệm cuộc ra đi của những Thuyền Nhân trên thế giới 1975 - 2005. Người Việt tị nạn chân thành cám ơn Thụy Sĩ và các nước tiếp cư, đã giúp cho chúng tôi được sống hạnh phúc trong hòa bình, tự do, và dân chủ. Chúng tôi sẽ mãi mãi không quên quê hương Việt Nam, mãnh đất ngàn đời của Tổ Tiên để lại”.
Viên chức tòa lãnh sự cộng sản Việt Nam tại đây đã can thiệp với chánh quyền Thụy Sĩ và thành phố Genève, nhưng tất cả sự can thiệp đều thất bại. Bia Tưởng Niệm này cách tòa lãnh sự của chúng chỉ 2 cây số, là cái gai trước mắt chúng nhưng chúng bó tay.
Sau lễ khánh thành, Bia Tưởng Niệm là món quà của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tặng cho thành phố Genève, và do Hội Đồng thành phố quản trị.
3. Bia tưởng niệm tại Liège, Bỉ.
Nguồn tin từ e-mail của . Ngày 30/6/2006, Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại Bỉ đã tập trung tại Công Viên D’Avroy, thành phố Liège, tham dự lễ khánh thành Bia Đá Tưởng Niệm Thuyền Nhân. Công Viên D’ Avroy là nơi có “Monument de la Résistance” kỷ niệm những người Tây Ban Nha tị nạn Franco. Buổi lễ do thành phố Liège và Cộng Đồng Việt Nam tại Bỉ phối hợp tổ chức. Sau phần nghi lễ, ông Michel Firket Phó Thị Trưởng thành phố Liège, và ông Lê Hữu Đào Chủ Tịch Cộng Đồng Việt Nam, cùng kéo quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ phủ tấm Bia Tưởng Niệm.
Tổng quát thì Bia Tưởng Niệm này tương tự như Bia Tưởng Niệm ở thành phố Genève (Thụy Sĩ) đã khánh thành ngày 9/2/2006. Trên bia đá là chiếc thuyền đầy ấp người đang chông chênh trên sóng biển, với dòng chữ Pháp như sau: “En souvenir de l’ exode des boat-people dans la monde 1975-2006. Les réfugie’s Vietnamiens remercient Liège, la Belgique, et les pays d’accueil. Nous sommes heureux de vivre dans cet espace de paix, de liberté, et démocratie. Le Vietnam, pays de nos ancêtres, restera à jamais dans nos coeurs”. Sau đó, ông Paul Allard, thuyền trưởng tàu dầu Maaskroon, đã xúc động khi tường thuật sự kiện ông và thủ thủy đoàn đã vớt được 61 “Thuyền Nhân Việt Nam” trên chiếc tàu mong manh.
Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam do Hội Đồng thành phố Liège bảo quản.
Cũng như nhiều nơi khác, cơ quan ngoại giao của cộng sản Việt Nam tại Bỉ đã can thiệp với Bộ Ngoại Giao và thành phố Liège, nhưng họ đã thất bại như đã thất bại tại Genève (Thụy Sĩ), tại Ottawa (Canada), tại Westminster (California, Hoa Kỳ), ..v..v…
4. Tượng đài tưởng niệm tại Hamburg, Đức quốc.
Lúc 12 giờ trưa ngày 14/10/2006, Ban Tổ Chức đã cử hành lễ khánh thành Tượng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân tại nghĩa trang Oejendorf thành phố Hamburg, Cộng Hòa Liên Bang Đức. Hơn 200 quan khách Việt-Đức với sự có mặt của các vị Linh mục Andreas, Mục sư Nguyễn Văn Hiếu, các Sư cô Tuệ Đàm Hương, Tuệ Đàm Châu, Tuệ Đàm Giác, cùng đại diện các tổ chức Đức và Việt: Các ông Carsten Siegfried, ông Braubach, ông Rehkopf, bà Winter, bà quả phụ Wangnik của Thuyền Trưởng Cap Anamur, ông Schwenke, ông Bekrater, ông Bùi Hoàng Thủy, ông Đặng Hữu Hào, bà Nguyễn Thị Kiều Hạnh, ông Phạm Công Hoàng, ông Nguyễn Thanh Văn, ông Trần Văn Các, ông Đinh Kim Tân, và đài truyền hình NDR.
Sau nghi thức chào quốc kỳ Đức-Việt và phút mặc niệm, ông Quách Anh Trường, Chủ Tịch Hội Người Việt Nam tị nạn cộng sản tại Hamburg chào mừng quan khách, trình bày ý nghĩa tượng đài tưởng niệm vừa tưởng niệm Thuyền Nhân vì cộng sản tàn bạo độc ác mà bỏ mình trên biển cả, vừa cám ơn chánh phủ và nhân dân Đức cưu mang đùm bọc, vừa lưu lại chứng tích cho tuổi trẻ Việt Nam sinh sống nơi đây hiểu được nguyên nhân họ có mặt trên đất nước này. Sau nghi thức cắt băng khánh thành là nghi thức cầu nguyện của tôn giáo.
Ông Bà Ngũ Thời Trọng, được xem là người khai sinh công trình này, nhắc đến Ban Quản Trị Nghĩa trang Ohlsdorf và Oejendorf đã tặng 36 thước vuông đất trị giá 27.000 Euro. Nghệ nhân Hoàng Nhật Lục tác giả của tượng đài và điêu khắc trong 6 tuần lễ. Không thể không nhắc đến công sức của cựu Đại Tá Bùi Văn Mạnh và gia đình ông, và nhiều nhiều nữa. (Tóm tắt bản tin tường thuật tại chỗ của Phù Vân).
5. Bia tưởng niệm tại Troisdorf, Đức quốc.
Cuối tháng 4/1982, một chiếc ghe chở 46 người vượt biển từ Việt Nam được tàu Cap Anamur kéo từ Biển Đông về hải cảng Hamburg, Đức quốc. Sau đó kéo về thành phố Troisdorf, quê của ông bà Ruppert Neudeck, người đã thành lập Ủy Ban Cap Anamur để cứu Thuyền Nhân Việt Nam chạy trốn cộng sản. Nhiều người Đức đến nhìn qua chiếc ghe bé bỏng, rất khâm phục người Việt Nam đã đánh đổi mạng sống trên biển cả để tìm tự do. Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại Đức rất hãnh diện về “chiếc ghe nhân chứng” này và quyết định dựng Bia Tưởng Niệm thuyền nhân xấu số với kinh phí vào khoảng 25.000 Euro. Thế là một Ủy Ban được thành lập. Công trình này được chánh phủ Đức, nhất là ông Thị Trưởng thành phố Troisdorf và đông đảo người dân địa phương nhiệt tình ủng hộ. Trong khi công trình còn trên bản thảo, sứ quán cộng sản Việt Nam từ Bonn tới Troisdorf yêu cầu thành phố này không cho phép xây dựng vì đó là điều sĩ nhục họ và ảnh hưởng đến bang giao hai nước, nhưng Hội Đồng thành phố và ông Thị Trưởng vẫn quyết định chấp thuận công trình và cho phép Ủy Ban thực hiện. “Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân” được khánh thành ngày 30 tháng 4 năm 2007. (Trích bản tin phóng viên Minh Thùy đài RFA)
6. Tượng đài tại Ottawa, Canada.
Ngày 30 tháng 4 năm 1995, Liên Hội Người Việt Tị Nạn tại Ottawa, thủ đô Canada, đã long trọng khánh thành Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam, với sự tham dự của rất đông đồng hương và nhiều nhân vật chánh quyền tại thủ đô Ottawa. Ngay sau bức tượng đồng Người Mẹ Bế Con Thơ đang chạy trốn cộng sản, là những dòng chữ tưởng niệm, với bản đồ Việt Nam được bao tròn bởi nền vàng với ba sọc đỏ.
Viên đại sứ cộng sản Việt Nam tại Canada, đã phản đối mạnh mẽ ngay từ lúc Liên Hội Người Việt Canada bắt đầu. Đến những ngày trước khi Tượng Đài được khánh thành, họ vẫn liên tục vận động với Liên Hội Người Việt và Uỷ Ban Thực Hiện Tượng Đài, để xóa bỏ hình bản đồ Việt Nam được bao tròn bởi nền vàng với ba sọc đỏ, đến những dòng chữ tưởng niệm, nhưng khi tiến sĩ Lê Duy Cấn yêu cầu viết thành văn những yêu cầu đó thì ông mới có yếu tố thảo luận, thì họ im lặng. Nghĩa là những viên chức trong tòa đại sứ cộng sản Việt Nam chỉ nói miệng chớ không dám dùng văn bản. Phía Ủy Ban Thực Hiện hoàn toàn giữ nguyên tất cả những gì ghi trong dự án. Liên Hội Người Việt và Ủy Ban Thực Hiện Tượng Đài, đã thắng một cách vẻ vang. Vì vậy mà cộng sản Việt Nam không thành công trong cuộc vận động với chánh phủ Canada, và sự kiện này đã dẫn đến tình trạng lạnh nhạt trong bang giao giữa Canada với cộng sản Việt Nam một thời gian.
7. Tượng đài tại Nam California, Hoa Kỳ.
Theo thông tín viên Hà Giang của đài RFA, với sự hiện diện của hơn 1.000 đồng hương và một số viên chức chánh quyền địa phương, tượng đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân được khánh thành trọng thể ngày 25/04/2009 trong khuôn viên nghĩa trang Westminster, Nam California. Theo ông Jeff Gibson, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Nghĩa Trang, khu đất dành cho tượng đài trị giá hơn 1.000.000 mỹ kim để bày tỏ lòng quí mến Cộng Đồng Việt Nam tại đây. Trước đó, Hội Đồng thành phố Westminster đã ra “Nghị Quyết 4228 công nhận tượng đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân là biểu tượng tự do của Cộng Đồng Việt Nam và tưởng nhớ những người đã bỏ mình trên biển”.
Tượng đài gồm 4 người trong một gia đình trên chiếc thuyền mong manh do điêu khắc gia Võ Hồng Kiệt thực hiện, đặt trên mặt hồ nước nhân tạo. Người Vợ với nét tuyệt vọng, quỳ gối, tay ôm đứa con thiêm thiếp, tay kia như đang tìm nơi bám víu trên khoảng không, trong khi người Chồng vừa cúi nhìn vợ con vừa đưa tay đỡ lưng Mẹ già đang mệt lã, mặt ngửa lên không trung với đôi mắt nhắm nghiền như đang cầu nguyện. Chung quanh cụm tượng đồng là 54 phiến đá tượng trưng 54 chiếc thuyền đã tan biến trong lòng biển. Bề mặt các phiến đá có khắc tên hơn 6.000 nạn nhân, những người “trốn cộng sản độc tài bằng cách vượt biển tìm dân chủ tự do” đã chết trên biển cả mênh mông! (Tên các nạn nhân do thân nhân cung cấp).
Theo Ban Tổ Chức lễ khánh thành, tượng đài này là một công trình do nhà thơ nhà báo Thái Tú Hạp & Ái Cầm, tiêu biểu một gia đình Thuyền Nhân đã sống sót khi cái chết kề cận! Theo lời ông Hạp, sau khi ra khỏi trại tập trung của cộng sản vào năm 1980, ông đưa gia đình vượt biển. Khi tàu chạy gần đảo Hải Nam bị cơn bão dữ dội đánh giạt vào một đảo hoang và tàu bị bễ, 13 người chết trong số hơn 200 người trên tàu. Với hình ảnh đó, ông bà Thái Tú Hạp và một số bạn đồng hành tâm nguyện, không bao giờ quên những người đã nằm lại nơi đây cũng như những nơi khác.
8. Tượng đài tại cảng Hamburg, Đức quốc.
Ngày 12/09/2009, hằng ngàn người trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản từ nhiều thành phố trên lãnh thổ Cộng Hòa Liên Bang Đức đổ về hải cảng Hamburg, dự lễ khánh thành tượng đài tưởng niệm
Thuyền Nhân. Trong số quan khách Đức có Bộ Trưởng Nội Vụ Wolfgang Schauble và ông Franz Muentefering, Chủ Tịch đảng đối lập. Đặc biệt, Bộ Trưởng Kinh Tế & Lao Động & Giao Thông tiểu bang Niedersachsen người Đức gốc Việt, tiến sĩ Philipp Roesler, đã đọc diễn văn trong buổi lễ trang trọng này.
Theo ông Nguyễn Hữu Huân, Hội Trưởng Hội Xây Dựng Tượng Đài, khởi sự từ 3 năm trước, nhưng gặp khó khăn từ cơ quan chánh quyền buộc phải thay đổi hnìh thức tượng đài. Sau những lần vận động với các viên chức và trình bày những cố gắng tối đa của Cộng Đồng tị nạn, đã được chánh phủ Đức chấp thuận dự án nguyên thủy. Về tài chánh do Cộng Đồng tị nạn tại Đức chung góp, còn có danh sách ân nhân bên ngoài Đức quốc, đặc biệt là nhóm thân hữu từ Hoa Kỳ do nhà văn Đào Vũ Anh Hùng đại diện chung góp. Ông Huân tâm sự: “Tôi rất cảm động về sự ủng hộ của nhiều nhà chính trị người Đức. Đây là công sức do tất cả bà con đóng góp. Rất nhiều bà con lái xe từ xa đến đây chiều qua. Mừng nhất là hôm nay có một ngày nắng đẹp”
Trượng đài gồm quyển sách bằng đồng đặt trên trụ đá hoa cương trong khuôn viên rnột khu vườn nhỏ 7m x 5m tại hải cảng Hamburg (Ueberseebruecken). Bà Thủ Tướng Angela Merkel có thư vinh danh hoạt động của Ủy Ban Cap Anamur. “Tưởng niệm các đồng hương tị nạn cộng sản đã bỏ mình trên đường tìm tự do” là một phần trong nội dung Việt ngữ trên trang sách đang mở ra, viết bằng Việt, Đức, và Anh ngữ. Hàng chữ nổi tri ân tiến sĩ Rupert Neudeck, người sáng lập chương trình Cap Anamur đã thuê 3 chiếc tàu vận tải từ tháng 09/1979 đến tháng 07/1987, đã vớt được 11.300 Thuyền Nhân Việt Nam và được chánh phủ Đức tiếp nhận định cư (trích e-mail từ địa chỉ ngày 16/09/2009).
9. Dự án Viện Bảo Tàng tại Hoa Kỳ.
Theo bản tin Thời Sự Dân Sinh tháng 3 năm 2006 tại San Jose, ngày 14/3/2006, nhà văn Giao Chỉ Vũ Văn Lộc, Giám Đốc IRCC, và ông Phạm Phú Nam, Phụ Tá Điều Hành, tham dự buổi họp của Hội Đồng Quản Trị Khu Vườn Lịch Sử Kelly (Kelly Historical Park) tại San Jose, tiểu bang California. Trước đó, ông David, Giám Đốc Kelly Historical Park và Bà Phó Giám Đốc, đến thăm cơ sở tạm thời của Viện Bảo Tàng Việt Nam trên đường Park, thành phố San Jose. Trong buổi họp, ông David công nhận những vật chứng trong khu trưng bày tạm thời, đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ và rất xúc động.
Sau phần trình bày dự án và nhấn mạnh đến quyết tâm thực hiện của phía Việt Nam, toàn thể 18 thành viên Hội Đồng Quản Trị đã bỏ phiếu thuận 100%, cung cấp cho phía Việt Nam ngôi nhà 2 tầng hiện có trong Khu Vườn Lịch Sử, để phía Việt Nam nới rộng, chỉnh trang, và tạo cảnh trí thích hợp cho một “Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân & Việt Nam Cộng Hòa”. Bản thỏa ước được ký kết tại chỗ với thời hạn 30 năm trong điều kiện được tái tục vô thời hạn.
Một đề nghị tài trợ 400.000 mỹ kim đang được tiểu bang California cứu xét, song song với chương trình gây quỹ 400.000 mỹ kim do IRCC phụ trách, để hoàn thành những bước đầu của dự án trong năm 2006-2007. Những vật chứng trong khu trưng bày tạm thời ở San Jose, đã được mang đến trưng bày nhân ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 2006 tại Nam California, và đông đảo đồng hương đến thưởng lãm, đã công nhận là rất xúc động!
Tháng 2/2008, hoàn tất các công trình giai đoạn 1 và mở cửa đón tiếp khách đến thăm trong những ngày Tết Mậu Tý. Sau đó, lần lượt đón tiếp các phái đoàn thăm viếng đặc biệt có hẹn trước. Trong tháng 3 sẽ hoàn tất lối đi dành cho xe lăn. Theo kế hoạch, từ tháng 4/2008 sẽ mở đón tiếp công chúng. Hằng năm có khoảng 50.000 học sinh tiểu và trung học vào thăm khu vườn lịch sử bao gồm các Viện Bảo Tàng trong khu vườn có tuổi thọ 140 năm, là: Trung Hoa, Hy Lạp, Thổ Nhỉ Kỳ, Mễ Tây Cơ, và bây giờ có thêm Viện Bảo Tàng Việt Nam. Trong Viện Bảo Tàng Việt Nam có một bản đồ ghi đầy đủ các thành phố, quận hạt, và tiểu bang đã công nhận quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ dựa theo bản tổng hợp này. Ngoài ra còn lưu trữ các văn kiện công nhận quốc kỳ chúng ta.
10. Dự án Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân tại Canada.
Theo tin cung cấp bởi Tiến Sĩ Lê Duy Cấn, Liên Hội Người Việt Canada, từ tháng 12 năm 2005, Liên Hội Người Việt Canada bắt đầu vận động gây quỹ cho dự án “Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân” tại Ottawa, thủ đô Canada, với mục đích trưng bày những vật chứng cùng những dữ kiện dân tộc Việt Nam chạy trốn chế độ cộng sản đi tìm tự do, vĩ đại nhất và bi thảm nhất trong lịch sử nhân loại. Mẫu vẽ Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân là tòa nhà 2 tầng đối diện với Tượng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân đã khánh thành ngày 30 tháng 4 năm 1995. Ngân khoản dự trù vào khoảng 2.000.000 Gia kim (tiền Canada), và dự trù thực hiện trong năm 2008-2010. Dự án này được hỗ trợ từ đồng hương và một số giới chức công quyền tại Canada nói chung và tại thủ đô Ottawa nói riêng. Rất mong được sự hưởng ứng và ủng hộ của đồng hương nhiều nơi trên thế giới. Xin liên lạc với Tiến sĩ Lê Duy Cấn, đại diện Ban Tổ Chức tại địa chỉ e-mail <
hg_yen@yahoo.com>.

Phần sáu. Những địa phương đã công nhận quốc kỳ Việt Nam.
Với những thành công trong 79 tháng qua, những phái đoàn cao cấp của cộng sản Việt Nam như phái đoàn Phan Văn Khải (Thủ Tướng, 2006), Phạm Gia Khiêm (Phó Thủ Tướng), nhất là phái đoàn Nguyễn Minh Triết (Chủ Tịch, 2007 & 2009) và Nguyễn Tấn Dũng (Thủ Tướng, 2008) đến thành phố nào trên đất Mỹ mà có Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn, họ thấy cả rừng cờ vàng ba sọc đỏ của chúng ta. Cho nên lãnh đạo cộng sản Việt Nam rất nhục. Thêm nữa, Cộng Đồng chúng ta khắp nơi liên tục vận động với các cơ quan chánh quyền địa phương, tin tưởng đến ngày nào đó, quốc kỳ Việt Nam chúng ta ngang hàng với quốc kỳ Hoa Kỳ, sẽ rực rỡ tung bay trên bầu trời của hầu hết các tiểu bang có Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cư trú.
Khởi đi ngày 19 tháng 2 năm 2003 từ thành phố Westminster, tiểu bang California, vòng qua các tiểu bang theo thứ tự mẫu tự sau đây: Colorado, Connecticut, Florida, Georgia, Hawaii, Indiana, Iowa, Kansas, Louisiana, Massachussetts, Michigan, Minnesota, Mississippi, Missouri, Nebraska, New Mexico, New York, New Jersey, North Carolina, Oklahoma, Ohio, Oregon, Pennsylvania, South Carolina, Texas, Utah, Virginia, và tiểu bang Washington (29 tiểu bang).
Đến ngày 30 tháng 07 năm 2009, quốc kỳ Việt Nam chúng ta đã được các đơn vị hành chánh địa phương chánh thức công nhận theo thứ tự thời gian, như sau:
1. Ngày 19/2/2003, thành phố Westminster, tiểu bang California. Nghị Quyết 3750.
2. Ngày 11/3/03, thành phố Garden Grove, tiểu bang California. Nghị Quyết 8486-03.
3. Ngày 14/4/03, thành phố Falls Church, tiểu bang Virginia. Nghị Quyết TR-03-07.
4. Ngày 5/5/03, thành phố Milpitas, tiểu bang California. Nghị Quyết 7300.
5. Ngày 3/6/03, quận hạt Santa Clara, tiểu bang California. Quận Hạt này bao gồm 15 thành phố, kể cả thành phố San Jose, với dân số toàn Quận khoảng 1.700.000 người.
6. Ngày 4/6/03, thành phố Hooland, tiểu bang Michigan.
7. Ngày 18/6/03, thành phố Houston, tiểu bang Texas. Nghị Quyết 17-2003.
8. Ngày 24/6/03, thành phố Saint Paul, tiểu bang Minesota. Nghị Quyết 03-502.
9. Ngày 7/7/03, thành phố Pomona, tiểu bang California. Nghị Quyết 2003-140.
10. Cùng ngày 7/7/03, quận hạt Fairfax, tiểu bang Virginia.
11. Ngày 15/7/03, tiểu bang Louisiana. Luật số 839. Đây là tiểu bang đầu tiên.
12. Ngày 30/7/03, thành phố Sacramento, thủ phủ tiểu bang California.
13. Ngày 30/7/03, thành phố Boston, tiểu bang Massachussetts. Nghị Quyết 03-1104.
14. Ngày 8/9/03, thành phố Springfield, tiểu bang Massachussetts.
15. Ngày 12/9/03, thành phố Oklahoma, thủ phủ tiểu bang Oklahoma.
16. Ngày 16/9/03, thành phố El Monte, tiểu bang California. Nghị Quyết 8384.
17. Ngày 16/9/03, thành phố Garland, ngoại ô thành phố Dallas, tiểu bang Texas.
18. Ngày 16/9/03, thành phố Tumwater, tiểu bang Washington. Nghị Quyết R2003-013.
19. Cũng cùng ngày 16/9/03, thành phố Malden, tiểu bang Massachussetts.
20. Ngày 17/9/03, thành phố Rowley, tiểu bang Massachussetts.
21. Ngày 30/9/03, thành phố Grand Rapids tiểu bang Michigan.
22. Ngày 9/10/03, thành phố Lacey, tiểu bang Washington
23. Ngày 8/10/03, thành phố Quincy, tiểu bang Massachussetts.
24. Ngày 20/10/03, thành phố Doraville, tiểu bang Georgia.
25. Ngày 21/10/03, thành phố Olympia, tiểu bang Washington.
26. Cùng ngày 28/10/03, thành phố Lowell, tiểu bang Massachussetts.
27. Ngày 3/11/03, thành phố Norcross, tiểu bang Georgia.
28. Cùng ngày 3/11/03, thành phố Clarkston, cũng tiểu bang Georgia.
29. Cùng ngày 3/11/03, thành phố Dekalb, tiểu bang Georgia.
30. Cũng ngày 3/11/03, thành phố Gwinnett, tiểu bang Georgia.
31. Ngày 4/11/03, thành phố Lawrence, tiểu bang Massachussetts.
32. Ngày 11/11/03, thành phố Arlington, tiểu bang Texas. Nghị Quyết 03-E-555.
33. Cùng ngày 11/11/03, thành phố Port Arthur, tiểu bang Texas.
34. Ngày 12/11/03, thành phố Rainer, tiểu bang Washington. Nghị Quyết 461.
35. Ngày 18/11/03, thành phố Marina, tiểu bang California. Nghị Quyết 2003.
36. Ngày 1/12/03, thành phố Puyallup, tiểu bang Washington. Nghị Quyết 1834.
37. Ngày 6/12/03, thành phố Worcester, tiểu bang Massachussetts.
38. Ngày 8/12/03, thành phố Lakewood, tiểu bang Washington. Nghị Quyết 2003-29.
39. Ngày 16/12/03, thành phố Fort Worth, tiểu bang Texas. Nghị Quyết 3017.
40. Ngày 13/1/2004, thành phố Lincoln, tiểu bang Nebraska.
41 Cùng ngày 13/1/04, thành phố Dupont, tiểu bang Washington. Nghị Quyết 04-279.
42. Cùng ngày 13/1/04, thành phố Wichita, tiểu bang Kansas.
43. Ngày 14/1/04, thành phố San Diego, tiểu bang California. Nghị Quyết R-2004-670.
44. Ngày 27/1/04, quận hạt Pierce, tiểu bang Washington.
45. Ngày 29/1/04, thành phố Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania.
46. Ngày 3/2/04, thành phố Grand Prairie, tiểu bang Texas. Nghị Quyết 3975.
47. Ngày 10/2/04, thành phố South El Monte, tiểu bang California.
48. Ngày 17/2/04, thành phố Stockton, tiểu bang California.
49. Trong cùng ngày 21/2/04, ba văn kiện Resolution của Hạ Viện, Resolution của Thượng Viện, và Proclamation của Thống Đốc tiểu bang New Jersey, công nhận và vinh danh quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ chúng ta. Đây là tiểu bang thứ hai.
50. Ngày 20/2/04, thành phố Hartfort, tiểu bang Connecticut. Nghị Quyết ngày 20/2/04.
51. Ngày 24/2/04, thành phố Centralia, tiểu bang Washington.
52. Cùng ngày 24/2/04, thành phố University Place, tiểu bang Washington.
53. Ngày 28/2/04, thành phố Jersey City, tiểu bang New Jersey.
54. Ngày 15/3/04, thành phố West Hartfort, tiểu bang Connecticut. NQ ngày 15/3/04.
55. Cùng ngày 15/3/04, thành phố Salina, tiểu bang Kansas.
56. Ngày 16/3/04, thành phố Biloxi, tiểu bang Mississippi.
57. Cùng ngày 16/3/04, thành phố Orlando, tiểu bang Florida.
58. Cũng cùng ngày 16/3/04, thành phố Fort Wayne, tiểu bang Indiana
59. Ngày 24/3/04, thành phố Honolulu, thủ phủ tiểu bang Hawaii. Nghị Quyết 04-72.
60. Ngày 1/4/04, thành phố Tampa, tiểu bang Florida.
61. Ngày 12/4/04, thành phố Syracure, tiểu bang New York.
62. Ngày 15/4/04, tiểu bang Virginia. Đây là tiểu bang thứ ba. Luật 1457 ER.
63. Ngày 16/4/04, thành phố Minneapolis, tiểu bang Minnesota. Nghị Quyết 2004R-155.
64. Ngày 20/4/04, thành phố Kent, tiểu bang Washingon. Nghị Quyết 1667.
65. Cùng ngày 20/4/04, thành phố Tacoma, tiểu bang Washington. Nghị Quyết 36154.
66. Ngày 24/4/04, quận hạt Thurston, tiểu bang Washington.
67. Ngày 30/4/04, thành phố Saint Louis, tiểu bang Missouri. Nghị Quyết 16.
68. Cùng ngày 30/4/04, quận hạt Camden, tiểu bang New Jersey.
69. Ngày 4/5/04, thành phố West Valley, tiểu bang Utah. Nghị Quyết 04.
70. Ngày 11/5/04, thành phố Bonney Lake, tiểu bang Washington.
71. Ngày 3/6/04, thành phố Seaside, tiểu bang California.
72. Ngày 7/6/04, thành phố Vancouver, tiểu bang Washington.
73. Ngày 12/6/04, tiểu bang Colorado. Đây là tiểu bang thứ tư.
74. Ngày 15/6/04, thành phố Coral Springs, tiểu bang Florida.
75. Cùng ngày 15/6/04, thành phố Carrollton, tiểu bang Texas.
76. Ngày 19/6/04, tiểu bang Georgia. Đây là tiểu bang thứ năm. Nghị Quyết 1866.
77. Ngày 28/6/04, thành phố Beaverton, tiểu bang Oregon.
78. Ngày 19/7/04, thành phố St. Cloud, tiểu bang Minnesota. Nghị Quyết 2004-7-180.
79. Ngày 20/7/04, thành phố Portland, thủ phủ tiểu bang Oregon.
80. Cùng ngày 20/7/04, thành phố Eagle Mountain, tiểu bang Utah.
81. Ngày 10/8/04, quận hạt Marin, tiểu bang California. Quận Marin có 10 thành phố.
82. Ngày 24/8/04, thành phố Sugar Land, tiểu bang Texas.
83. Ngày 7/9/04, thành phố Missouri, tiểu bang Texas.
84. Ngày 4/10/04, thành phố Indianapolis, tiểu bang Indiana. Nghị Quyết 70.
85. Ngày 29/10/04, tiểu bang Florida. Đây là tiểu bang thứ sáu.
86. Ngày 11/11/04, thành phố Austin, thủ phủ tiểu bang Texas.
87. Cùng ngày 11/11/2004, tiểu bang Texas. Đây là tiểu bang thứ bảy.
88. Ngày 22/11/04, thành phố Charlotte, tiểu bang North Carolina.
89. Ngày 13/12/04, thành phố Albuquerque, tiểu bang New Mexico. NQ R-04-156.
90. Ngày 6/2/2005, thành phố Reading, tiểu bang Pennsylvania.
91. Ngày 1/3/05, tiểu bang Oklahoma. Đây là tiểu bang thứ tám.
92. Ngày 3/3/05, thành phố Kansas, tiểu bang Kansas. Nghị Quyết 050233.
93. Ngày 11/5/05, tiểu bang Minnesota. Đây là tiểu bang thứ chín. Nghị Quyết SR0097 Thượng Viện ký ngày 10/5/05, và Nghị Quyết HR0017 Hạ Viện ký ngày 11/5/05.
94. Ngày 17/5/05, thành phố San Jose, tiểu bang California.
95. Ngày 18/5/05, thành phố San Antonio, tiểu bang Texas.
96. Ngày 10/6/05, thành phố Greenville, tiểu bang South Carolina.
97. Ngày 14/6/05, thành phố Columbus, tiểu bang Ohio. Nghị Quyết ngày 14/06/06.
98. Ngày 5/10/05, thành phố Greer, tiểu bang South Carolina. Trước đó, tuy chưa chánh thức, nhưng quốc kỳ Việt Nam chúng ta đã phép treo vĩnh viễn trên kỳ đài trong công viên Victor Memorial Veterans Park của thành phố Greer từ ngày 23/8/05.
99. Ngày 28/01/2006, thành phố Allentown, tiểu bang Pennsylvania.
100. Ngày 26/4/06, thành phố Pennsauken, tiểu bang New Jersey. Nghị Quyết 126-06.
101. Ngày 3/6/06, quận hạt San Diego, tiểu bang California.
102. Ngày 5/8/2006, tiểu bang California. Đây là tiểu bang thứ 10 Thống Đốc Arnolt Schwarzenegger đã ký Executive Order S-14-06 (Sắc Lệnh) tại khu Little Saigon, Nam California lúc 10 giờ 30 sáng.
103. Ngày 19/8/06, tiểu bang Ohio. Đây là tiểu bang thứ 11. Tiểu bang Ohio có hai Nghị Quyết do ông Thống Đốc ký ngày 30/7/05 và ngày 19/8/06. Được giải thích rằng, NQ 30/7/05 có sự chống đối nên tiểu bang giữ lại, mãi đến ngày 19/8/06 ông Thống Đốc ký một NQ nữa, và tiểu bang phổ biến cả hai bản. Do vận động của Uỷ Ban Bảo Vệ Cờ Vàng tiểu bang OHIO để nâng cao giá trị văn bản, Dự Luật mang ký hiệu HB 55 do Dân Biểu McGregor đệ nạp với đồng bảo trợ của 22 Dân Biểu, Hạ Viện OHIO đã thông qua ngày 30/1/2008. Sau đó, Dự Luật “Heritage and Freedom Flag of the Former Republic of Viet Nam Day” có ký hiệu SB 163 được Thượng Viện thông qua ngày 29/4/2008 với số phiếu 32/32. Thống Đốc tiểu bang ký ban hành ngày 14/5/2008. Đến nay có hai tiểu bang (Louisiana và Ohio) công nhận quốc kỳ chúng ta bằng Luật. (trích bài của anh chị Phạm Ngọc Tấn, Dayton, Ohio)
104. Ngày 10/11/06, thành phố San Francisco, tiểu bang California. Nghị Quyết 642-06. Tổng Lãnh Sự cộng sản Việt Nam tại San Francisco, đã chạy đôn chạy đáo vận động khắp nơi để ngăn chận Nghị Quyết này nhưng đã thất bại như đã từng thất bại các nơi khác.
105. Ngày 3/12/06, thành phố Davenport, tiểu bang Iowa.
106. Ngày 16/12/06, tiểu bang Michigan. Nghị Quyết SA 148 ngày 16/12/07của Thượng Viện và Nghị Quyết HR 16 ngày 21/3/07 của Hạ Viện. Đây là tiểu bang thứ 12.
107. Ngày 13/4/07, tiểu bang Oregon. Nghị Quyết ký ngày 13/4/07, chánh thức trao cho Cộng Đồng Việt Nam Oregon ngày 23/4/07 tại văn phòng ông Thống Đốc. Đây là tiểu bang thứ 13.
108. Ngày 26/4/07, tiểu bang Nebraska. Tuyên Cáo của ông Thống Đốc ngày 25/4/07, và chánh thức trao cho ông Chủ Tịch Cộng Đồng Việt Nam tại đây. Đây là tiểu bang thứ 14.
109. Ngày 30/4/07, tiểu bang Utah. Tuyên Cáo (Declaration) do Thống Đốc tiểu bang ký ban hành. Đây là tiểu bang thứ 15.
110. Ngày 29/5/07, thành phố Rosemead, tiểu bang California.
111. Ngày 1/1/2008, thành phố Sunnyvale, tiểu bang California.
112. Ngày 2/2/2009, thành phố Santa Ana, tiểu bang California. Nghị Quyết 85A.
113. Ngày 26/5/2009, thành phố Stanton, tiểu bang California. Ông Thị Trưởng Stanton trao Nghị Quyết cho Nghị viên Diệp Miên Trường ngày (tối) 26/5/2009.
114. Ngày 16/6/2009, thành phố Costa Mesa, California.

Sơ kết 114 địa phương đã công nhận quốc kỳ Việt Nam chúng ta, gồm: 15 tiểu bang, 7 quận hạt, 92 thành phố. Và 114 địa phương này thuộc 29 tiểu bang theo thứ tự mẫu tự sau đây: Tiểu bang California và 3 quận hạt (QH) với 18 thành phố (TP). Tiểu bang Colorado. Connecticut có 1 TP. Tiểu bang Florida và 3 TP. Tiểu bang Georgia và 5 TP. Hawaii có 1 TP. Indiana có 2 TP. Iowa có 1 TP. Kansas có 3 TP. Tiểu bang Louisiana. Massachussetts có 8 TP. Tiểu bang Michigan và 2 TP. Tiểu bang Minnesota và 3 TP. Mississippi có 1 TP. Missouri có 1 TP. Tiểu bang Nebraska và 1 TP. New Mexico có 1 TP. New York có 1 TP. Tiểu bang New Jersey với 1 QH và 2 TP. North Carolina có 1 TP. Tiểu bang Oklahoma và 1 TP. Tiểu bang Ohio và 1 TP. Tiểu bang Oregon và 2 TP. Pennsylvania có 3 TP. South Carolina có 2 TP. Tiểu bang Texas và 11 TP. Tiểu bang Utah và 2 TP. Tiểu bang Virginia với 1 QH và 1 TP. Sau cùng là Washington State với 2 quận hạt và 13 thành phố.
Địa phương không sẳn lòng đón cộng sản.
Ngày 29/5/2004, Nghị viên thành phố Westminster và thành phố Garden Grove, tiểu bang California, đã thông qua hai Nghị Quyết với nội dung tương tự nhau là “không đón tiếp các viên chức hay các phái đoàn cộng sản Việt Nam đến thăm chánh thức thành phố này”. Thành phố Westminster được xem là “thủ đô” của Cộng Đồng Tị Nạn chúng ta, và Garden Grove là thành phố láng giềng thân thiết của Westminster.
Hai Nghị Quyết này càng tạo thêm niềm tin trong Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản trên khắp thế giới và ngay cả dư luận trên quê hương Việt Nam. Ngược lại, lãnh đạo cộng sản Việt Nam càng thêm tối tăm mặt mũi.

Những tổ chức công nhận quốc kỳ Việt Nam.
Những tổ chức không thuộc đơn vị hành chánh địa phương công nhận quốc kỳ Việt Nam chúng ta, nhưng dù sao thì quốc kỳ chúng ta cũng được chánh thức ngang hàng với quốc kỳ Hoa Kỳ trong một khoảng không gian nhất định tại đó:
- Ngày 7/4/03, đảng Cộng Hòa thuộc Khu Vực 48.
- Ngày 17/5/03, đảng Cộng Hòa tiểu bang Washington.
- Ngày 9/6/03, đảng Cộng Hòa quận hạt Pierce, tiểu bang Washington.
- Ngày 10/12/03, Trường Đại Học SPSCC, tiểu bang Washington.
- Ngày 28/3/05, khu học chánh Birdville, Fort Worth, Texas, nhận quốc kỳ Việt Nam chúng ta do Nhóm Vận Động trao tặng. Khu học chánh hứa sẽ treo quốc kỳ chúng ta tại tất cả các trường từ lớp 1 đến lớp 12 trực thuộc khu học chánh Birdville.

Phần bảy. Hạ cờ cộng sản.
Theo gợi ý của Ủy Ban Chống Cờ cộng sản và Chống Tuyên Vận cộng sản Việt Nam tại tiểu bang Washington.
1. Bưu Chính Hoa Kỳ. Trong tập cẩm nang đa ngôn ngữ của Bưu Chính Hoa Kỳ “A World of Services to Meet Your Needs” phát hành tháng 8 năm 2001, nhằm quảng cáo những dịch vụ của cơ quan này trên thế giới, có trang tiếng Việt với lá cờ máu của cộng sản Việt Nam. Một cuộc phối hợp rộng khắp do nhiều tổ chức trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ, đã liên tục vận động với Bưu Điện Hoa Kỳ. Kết quả là Bưu Điện Hoa Kỳ đồng ý thu hồi toàn bộ tập cẩm nang đó.
2. Trường trung học Showalter ở Tukwila. Ủy Ban Chống Tuyên Vận Cộng Sản tiểu bang Washington, đã vận động thành công với Ban Giám Đốc trường “Showalter Middle School” tại thành phố Tukwila, thay thế lá cờ máu cộng sản Việt Nam bằng quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ ngày 19/12/2001.
3. Trường đại học ở Olympia. Uỷ Ban Chống Cờ Cộng Sản tại Olympia, đã phối hợp nhiều tổ chức bạn của tiểu bang Washington, và nhiều tổ chức Cộng Đồng từ nhiều tiểu bang tại Hoa Kỳ cũng như từ nhiều quốc gia khác, đã vận động thành công với Ban QuảnTrị trường đại học SPSCC, lá cờ máu của cộng sản đã bị hạ xuống ngày 3/3/2006. Ngoài ra, Ủy Ban Chống Cờ Cộng Sản cũng vận động thành công cho dự án xây dựng Vietnamese Garden với kỳ đài Việt - Mỹ tại trường đại học này. Hiện Ủy Ban đang thảo luận kế hoạch vận động gây quỹ 125.000 mỹ kim để thực hiện dự án.
4. Trường đại học Texas tại Arlington. (UTA)
Biểu tượng của sinh viên Việt Nam trong trường đại học Texas tại Arlington (Dallas Forworth) là quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, được treo trong Nedderman Hall từ 20 năm qua. Năm 2006, với sự vận động của một số du học sinh từ Việt Nam mà người đứng đầu (về mặt nổi) là du sinh Dung Nguyễn. Quốc kỳ Việt Nam chúng ta bị kéo xuống và lá cờ máu của cộng sản kéo lên ngày 11/4/2006. Cuộc đấu tranh quyết liệt về phía sinh viên Việt Nam với sự hỗ trợ mạnh mẽ của Cộng Đồng tị nạn bắt đầu ngày 12 tháng 4, và liên tục sau đó vì sự cứng rắn kỳ lạ của Tiến sĩ James Spaniolo, Viện Trưởng. Cao điểm của trận chiến hạ cờ máu là cuộc biểu dương lực lượng của khoảng 5.000 người vào ngày 30/4/2006. Về phía Việt Nam, ngoài số sinh viên Việt Nam hải ngoại tại trường UTA, còn có đông đảo đồng hương trong Cộng Đồng Việt Nam Dallas Forworth, Washington DC, California, Denver (Colorado), Houston, San Antonio, Austin tham dự. Và đặc biệt là sự góp mặt của Phong Trào Hưng Ca với Nguyệt Ánh và Việt Dũng. Về phía Hoa Kỳ có các Nghị Viên Lana Woff, Katherine Wilmon, và Robert Rivera của thành phố Arlington, Nghị Viên Clyde Pitch thành phố Forworth. Ngoài ra còn có ông Bill Laurie, cựu chiến binh từ Phoenix (tiểu bang Arizona) đến. Về truyền thông có các đài truyền hình số 4, số 5, số 8 Hoa Kỳ, và đài 2072 SBTN Việt Nam, các báo Dallas Morning News, The Star Telegram, và UTA Shorthorn. Phóng viên của Sở Cảnh Sát cũng đến thu hình làm tài liệu.
Cao điểm của trận chiến hạ cờ máu đã dẫn đến sự can thiệp và áp lực từ Thống Đốc Texas Rick Perry, Thượng Nghị Sĩ Cornyn, Jay Guerrero, bà Kate McArthur, và ông Scott Smith. Đặc biệt là Dân Biểu Toby Goodman và các đồng viện của ông đã áp lực với Tiến sĩ Spaniolo rằng: “Nếu không hạ lá cờ Việt Nam cộng sản xuống, sẽ có Nghị Quyết của Tiểu Bang ngưng ngay ngân khoản trợ cấp cho UTA xây dựng thêm cơ sở cho khu vực đào tạo Kỹ Sư. Mặt khác, một số vị thương gia Mỹ gốc Việt gởi thư cho một số Nghị Sĩ tiểu bang, yêu cầu tiền thuế đóng cho tiểu bang không được sử dụng trợ cấp cho trường UTA nếu trường này tiếp tục treo cờ cộng sản gây phương hại tinh thần con em họ đang theo học tại đây. Sau cùng, Tiến sĩ James Spaniolo, Viện Trưởng UTA, ngày 10/5/2006 quyết định hạ tất cả 123 quốc kỳ của các quốc gia xuống, và từ nay chỉ treo quốc kỳ Hoa Kỳ, cờ tiểu bang Texas, và cờ của trường UTA, trong khi chờ đợi Hội Đồng tìm một quyết định hợp lý. Vậy là trận chiến hạ cờ máu kết thúc với thắng lợi về phía sinh viên Việt Nam hải ngoại và Cộng đồng Việt Nam tị nạn tại Dallas - Fort Worth.
Sinh viên Việt Nam hải ngoại tại UTA nhận thức rằng, thắng lợi này chưa hoàn toàn vì ông Viện Trưởng Spaniolo dường như có thâm ý khi hạ tất cả 123 cờ thay vì chỉ hạ lá cờ máu của cộng sản Việt Nam, để gây hiềm khích giữa sinh viên Việt Nam hải ngoại với du sinh từ các quốc gia khác. Các cháu sinh viên hải ngoại tại UTA lúc nào cũng chuẩn bị đối phó những bất trắc có thể xảy ra vì thâm ý đó. Mong rằng, mọi nỗ lực của các cháu luôn nhận được sự hỗ trợ đúng lúc đúng mức của bậc cha ông, nhất là quí vị quí bạn trong tổ chức Cộng Đồng tại địa phương cùng với sự hỗ trợ mạnh mẽ của quí đồng hương, để chiến thắng của các cháu được tròn vẹn.
5. Tại Stockton, Hoa Kỳ.
Hằng năm, thành phố Stockton, tiểu bang California, Hoa Kỳ, có tổ chức Lễ Hội Măng Tây (The Stockton Asparagus Festival) vào hạ tuần tháng 4. Năm nay là lần thứ 22, diễn ra từ ngày 27 đến 29 tháng 4. Trong lễ hội này rất đông các tổ chức thuộc các sắc dân tham dự vui chơi, với sự có mặt của nhiều cơ quan truyền thông làm phóng sự. Không biết bằng cách nào mà cơ quan ngoại giao cộng sản đưa lá cờ máu của họ vào treo trước lều tiếp tân.
Được cung cấp tin tức này, ông Nguyễn Hữu Hiến, Chủ Tịch Ủy Ban Cờ Vàng của Stockton, hướng dẫn phái đoàn hùng hậu đến gặp bà Cathi McJilton, phụ tá Giám Đốc Điều Hành, trình bày việc treo cờ cộng sản là không hợp lý. Lúc đầu bà Cathi có vẻ không bằng lòng, nhưng sau khi ông Hiến trưng dẫn Nghị Quyết Cờ Vàng của thành phố Stockton ngày 17/2/2004, và Sắc Lệnh Cờ Vàng của tiểu bang California ngày 5/8/2006, bà Cathi đồng ý thay bằng quốc kỳ Việt Nam chúng ta ngay chiều hôm ấy.
6. Tại Sundre, Alberta, Canada.
Năm 1984, vợ chồng anh Trần Nam, một gia đình trong Cộng Đồng Việt Nam nhỏ bé tại thành phố Sundre, tỉnh bang Alberta, Canada, đã mua một trong số 11 cột cờ quốc tế trong công viên dẫn vào thành phố Sundre với giá 125 đồng Canada, và được phép của Hội Đồng thành phố treo quốc kỳ Việt Nam vĩnh viễn nơi đây. Ngày 11/10/1984, Cộng Đồng Việt Nam từ Calgary và Edmonton cùng với bà con tại Sundre, trong buổi lễ thượng kỳ rất trang nghiêm trọng thể. Cũng từ đó, quốc kỳ Việt Nam chúng ta phất phới cùng quốc kỳ Canada và các quốc gia khác. Vào ngày 1 tháng 7 hằng năm -ngày Quốc Khánh Canada- bà con từ các vùng lân cận kéo về Sundre làm lễ chào quốc kỳ, cũng là lúc anh Trần Nam thay lá cờ mới. Điều đặc biệt là anh Trần Nam, thay vì mua món quà thông thường thì anh lại mua cột cờ cao chót vót mừng sinh nhật vợ anh (năm 1984), và vợ chồng anh quyết định tặng Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại đó. Trên thế giới, có lẽ anh Trần Nam là người Việt Nam tị nạn duy nhất sở hữu chủ một cột cờ với lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ trên đỉnh, và rất có thể Sundre là thành phố đầu tiên tại hải ngoại từ sau 30/4/1975, quốc kỳ Việt Nam chúng ta chánh thức phất phới ngang hàng với các quốc gia khác.
Ngày 14/5/2007, do kẻ “nằm vùng” rỉ tai Nghị Viên thành phố là cờ vàng ba sọc đỏ không tiêu biểu cho Việt Nam. Sự việc đưa vào thảo luận, và vì không tìm thấy văn kiện nào nói về quốc kỳ này nên Hội Đồng thành phố quyết định hạ xuống.
Thật nhanh, Cộng Đồng Việt Nam từ Sundre, Calgary, Edmonton thuộc tỉnh bang Alberta, và Liên Hội Người Việt từ Ottawa, qui tụ lại cơ quan Hội Đồng thành phố Sundre khiếu nại, với số người đông đến nỗi đứng đầy ngoài hành lang. Trong buổi họp 16/7/2007 chưa xong. Buổi họp 23/7/2007, hình ảnh và ý nghĩa cao cả của bức ảnh “Vá Cờ” cùng với hỗ trợ của cư dân Canada đã đem lại hy vọng thành công, nhưng ông Thị Trưởng hẹn lại kỳ họp tới. Buổi họp ngày 27/8/2007, kết quả bỏ phiếu 5 thuận/1 chống với những tràng pháo tay kéo dài. Và ngày 30/8/2007, quốc kỳ Việt Nam chúng ta đã phất phới trên đỉnh cột cờ như đã phất phới trên đó từ 23 năm qua. (trích bài của Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích).
7. Tại Kansas City.
Được tin trường Đại Học Cộng Đồng Penn Valley, thành phố Kansas, tiểu bang Missouri, treo cờ máu của cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Cộng Đồng Kansas City & Vùng Phụ Cận họp phiên khẩn cấp vào ngày 8/9/2007 để lấy quyết định chung. Một phái đoàn Cộng Đồng đến trường đại học ngày 11/9/2007 tiếp xúc với các viên chức thẩm quyền, trình bày ý nghĩa giữa cờ máu của cộng sản độc tài với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ của Cộng Đồng Việt tị nạn cộng sản trên thế giới nói chung và tại Hoa Kỳ nói riêng. Ngày 15/9/2006, Tiến sĩ Al Dimit ký văn thư chấp nhận ý kiến của Cộng Đồng Việt Nam, và cho biết sẽ thượng kỳ Việt Nam trong buổi lễ được tổ chức ngày gần đây, với sự tham dự Cộng Đồng Việt Nam, sinh viên, Ban Giám Đốc trường, và quan khách. (trích e-mail của ông Triệu H. Nguyễn)
8. Tại San Jose, California.
Ngày 22/7/2008, ông Nguyễn Ngọc Tiên, Chủ Tịch Cộng Đồng Bắc California được ông Đặng Thiên Sơn cho biết, một người bạn trông thấy lá cờ của CSVN treo trong thư viện San Jose High School. Ngay buổi chiều, một phái đoàn đại diện của nhiều tổ chức địa phương do ông Chủ Tịch Cộng Đồng hướng dẫn đến trường gặp ông Hiệu Trưởng Robert R. Perez. Sau khi nghe phái đoàn Việt Nam trình bày sự kiện với dẫn chứng Nghị Quyết do ông Thị Trưởng San Jose ký công nhận quốc kỳ Việt Nam, trong đó có qui định “các trường học chỉ được phép treo cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản”. Ngay sau đó, chính ông Hiệu Trưởng hạ lá cờ đỏ CSVN xuống trước mặt phái đoàn nhưng chưa treo cờ vàng Việt Nam lên vì cờ do phái đoàn mang đến lớn hơn những lá cờ đang treo tại đó. Trường sẽ thực hiện cờ vàng cùng kích thước và sẽ thông báo cần thiết cho Cộng Đồng Việt Nam Bắc California.(trích bài trong Diễn Đàn Phố Nắng ngày 24/7/2008).
9. Tại tiểu bang Massachussetts.
Quốc Hội lưỡng viện tiểu bang Massachussetts với số phiếu tuyệt đối đã cùng thông qua Nghị Quyết H3415 vào cuối tháng 3 năm 2009, cấm treo cờ đỏ của CSVN trong phạm vi tiểu bang vì cờ này mang tính đàn áp và kích động Cộng Đồng Việt Nam. Đồng thời công nhận chỉ có cờ vàng ba sọc đỏ đại diện cho Cộng Đồng Việt Nam chánh thức treo tại các sinh hoạt công cộng do tiểu bang bảo trợ và tại các cơ sở giáo dục, vì lá cờ này biểu tượng Nhân Ái, Dân Chủ, và Quật Cường từ năm 1954.
10. Tại Houston Texas.
Được tin Trường Đại Học Houston (UoH) treo cờ đỏ CSVN, phái đoàn của Cộng Đồng Việt Nam tại Houston và phụ cận đến trường trình bày lý lẽ và yêu cầu hạ cờ đỏ xuống và treo cờ vàng thay vào đó, nhưng nhà trường không đồng ý. Sau đó nhà trường tự ý treo cờ vàng chúng ta bên cạnh cờ đỏ của cộng sản. Nhận ra âm mưu của cộng sản và tay sai cộng sản, Cộng Đồng chúng ta phản đối vì không chấp nhận cờ đỏ đứng chung với cờ vàng chúng ta, nhưng chưa thành công. Lúc ấy, ông Hubert Võ (cư dân Houston) Dân Biểu tiểu Bang Texas, trực tiếp tham gia bằng cách vận động các đồng viện tại lưỡng viện Quốc Hội, và thành công khi Nghị Quyết HCR 258 được Hạ Viện thông qua ngày 22/05/2009 với số phiếu thuận 148/148, và Thượng Viện thông qua ngày 30/05/2009 với số phiếu 31/31. Nghị Quyết đã được ông Thống Đốc tiểu bang ký ngày 22/6/2009. Nội dung yêu cầu trường đại học Houston hạ cờ đỏ xuống và treo cờ vàng lên. Đồng thời khuyến cáo tất cả các trường đại học trong tiểu bang Texas không treo cờ đỏ cộng sản mà chỉ treo cờ vàng biểu tượng tự do của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại Texas. Đây là một chiến thắng lớn của Cộng Đồng chúng ta tại Texas, vì từ nay 145 trường đại học trong tiểu bang (tài liệu năm 2009) không treo cờ đỏ CSVN, chỉ treo cờ vàng của chúng ta. Ngày 19/07/2009, Hội Đồng đại diện các Cộng Đồng San Antonio, Austin, Dallas, Fort Worth, và Houston, đã tổ chức buổi họp mặt tại Houston với sự tham dự đông đảo của các Hội Đoàn và đồng hương để cám ơn Dân Biểu Hubert Võ.
Trong cùng thời gian, trường đại học Texas tại thủ phủ Austin cũng treo cờ đỏ của CSVN, Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại trường cùng với Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại Austin tiếp xúc với Ban Giám Đốc trường nhưng chưa thành công. Khi Nghị Quyết HCR 258 được ông Thống Đốc ký ban hành thì trường đại học Texas/Austin liền hạ cờ cộng sản xuống.
11. Tại Abilene, Texas.
Năm học 2008-2009, Cháu Hoàng Anh, con một quân nhân Thủy Quân Lục Chiến, sinh viên năm thứ nhất trường đại học ACU tại thành phố Abilene (gần Dallas). Đây là đại học Tin Lành do các nhà hảo tâm từ Anh và Đức bảo trợ. Tháng 03/2009, trường tổ chức một lễ hội trình bày về sự chuẩn bị của trường cho năm học 2009-2010, vì vậy mà học sinh muốn vào học cùng đến đây tham dự rất đông. Trường treo quốc kỳ của các học sinh từ các nơi đến tham dự, trong số cờ treo ở đây có lá cờ đỏ của CSVN. Cháu Hoàng Anh đến trình bày với Ban Giám Đốc nhưng không thành, vì nhà trường cho rằng VNCH không còn nên quốc kỳ cũng không còn. Cháu về thưa chuyện cho ba cháu nghe. Cháu nhận trách nhiệm thuyết phục Ban GIám Đốc trong mục đích thay lá cờ đỏ bằng lá cờ vàng chúng ta, sau khi trình bày với ba cháu và quí vị trong các Cộng Đồng Dallas, Fort Worth, Houston. Cháu được các bác các chú cung ứng những kinh nghiệm trong việc hạ cờ đỏ tại UTA, Houston, Austin, các Nghị Quyết Texas và các thành phố công nhận lá cờ vàng là biểu tượng tự do của Cộng Đồng Tị Nạn cộng sản. Trong suốt tháng 04/2009, cháu Hoàng Anh nhiều lần gặp Ban Giám Đốc, giải thích những thắc mắc của các vị này về lịch sử lá cờ và những đấu tranh của các Cộng Đồng thay lá cờ đỏ bằng lá cờ vàng tại nhiều trường học. Cháu Hoàng Anh cẩn thận chuẩn bị tìm hậu thuẫn từ các sinh viên, bằng cách vận dụng khéo léo tế nhị để tránh sự hiểu lầm từ các bạn, cháu thu thập tài liệu trên internet về tình trạng đàn áp tôn giáo, buôn bán phụ nữ. Cháu quan niệm rằng, ba cháu và các bác các chú có sự ủng hộ của bà con trong Cộng Đồng, nhưng cháu thì tìm sự ủng hộ từ các bạn đồng môn trong trường. Vấn đề nêu lên, chẳng hạn như công dân Hoa Kỳ không được liên hệ đến Đức phát xít, đến cộng sản tàn bạo, thì tại sao cờ CSVN lại treo trong trường này? Sự hi sinh của 58.000 quân nhân Hoa Kỳ trên đất Việt Nam không bằng lá cờ đỏ kia sao?
Sau nhiều lần dàn xếp, ông Viện Trưởng đưa lá cờ vàng lên và hỏi cháu, cháu trả lời ngay: “Tôi muốn lá cờ đỏ hạ xuống vì nó mà tôi phải qua đây, bao nhiêu tội lỗi của họ không thể nào chấp nhận được”. Ông Viện Trưởng hỏi tiếp: “VNCH không còn nữa thì lá cờ vàng cũng không còn? Cháu trả lời: “Đúng là VNCH không còn nhưng tâm hồn Việt Nam Cộng Hòa vẫn đứng tại đây và những nơi người Việt tị nạn đang cư ngụ tại nước Mỹ”. Sau đó, Ngày 24/08/2009, lúc 11 giờ khai mạc năm học 2009-2010, sau khi cùng con gái Hoàng Anh đến trường, người cha về nhà trong tình trạng thấp thỏm đợi chờ! Lúc 12 giờ trưa, ông vội vàng cầm ống nói lên kịp lúc có tiếng con gái bên kia đầu giây: “Bối ơi! Nó dẹp rồi bố ơi! ..... Chiến thắng ... Chiến thắng ... Con di ăn mừng với các bạn nha”. (Trích e-mail của PhatIuu ngày 26/08/2009)

Phần kết.
Nhìn lại lịch sử thế giới, hầu như chưa có trường hợp nào một quốc gia không tồn tại mà quốc kỳ của quốc gia đó vẫn tồn tại trong những trường hợp khác nhau trên thế giới như quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ của chúng ta.

Vậy, với đà chiến thắng này, mong rằng Cộng Đồng chúng ta khắp nơi liên tục vận động với chánh quyền địa phương, để nhanh chóng mở rộng diện tích mà quốc kỳ chúng ta chánh thức tung bay trên bầu trời liên bang Hoa Kỳ. Và những chiến thắng trong trận chiến này, trong một mức độ nào đó, đã thể hiện nhãn quan của những nhà chính trị trong những cơ quan lập pháp và hành pháp Hoa Kỳ cấp địa phương, vì những bài học kinh nghiệm trong sinh hoạt chính trường cho thấy sự kiện chính trị nào cũng mang theo nét nhìn riêng của nó.

Người tổng hợp xin được góp lời vinh danh và cám ơn quí vị cùng quí bạn trẻ, đã vận động thành công với các cơ quan chánh quyền địa phương cho “Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ” của Cộng Đồng chúng ta, và hành động đó đã góp phần tạo nên bản tổng hợp này./.


Houston, 19 tháng 6 năm 2004.
Nhật tu ngày 01/10/2009. Phạm Bá Hoa tổng hợp