Tuesday, May 14, 2024

Diễn Hành Duyệt Binh Ngày Quân Lực Hoa Kỳ 18 tháng 5 năm 2024 - Torrance California - Armed Forces Day Parade May 18th 2024 City of Torrance

Torrance Civic Center
3031 Torrance, CA 90503
310-328-5310
On Torrance BLVD giữa Crenshaw Blvd và Amapola

Parking in the civic center parking lot or along the neighbor of Torrance Blvd.

We are PROLOGUE group Arrive at Marshaling Area no later than 1200 hours. We do have 5 passes for parking @ Civic Center.  Dự trù sẽ gặp nhau tại địa điểm diễn hành lúc 11:00 am và ăn sáng tại 
 

Burger City Grill - Old Torrance

Address: 1975 Torrance Blvd, Torrance, CA 90501
Từ Orange Couty take 405N exit Western Ave turn LEFT gặp Del Amo Blvd turn RIGHT gặp Van Ness Ave turn LEFT gặp Torrance turn RIGHT . Điểm khởi hành của chúng ta chính giữa đường CRENSHAW Blvd và đường Amapola. 


SATURDAY, MAY 18
Parade: 1:30 p.m. - 3:30 p.m.
The 62nd Annual Armed Forces Day Parade begins at Crenshaw Boulevard traveling west on Torrance Boulevard
and ending at Madrona Avenue. All streets intersecting the parade route will be closed the majority of the day.
Torrance's parade is the longest-running Armed Forces Day Parade in the nation. As one of few cities designated by the Department of Defense, the City of Torrance is proud to honor the men and women of our nation's Armed Forces. This year's honorary branch is the United States Space Force.
Military Exhibits: 3 p.m. - 8 p.m.
Military assets will be on display, including aircraft, vehicles and support equipment at Del Amo Fashion Center.
The outdoor exhibits will be in the Del Amo Fashion Center parking lot east of the Lifestyle Wing, which is located along Madrona Avenue.
 



ARMED FORCES DAY OBSERVANCE MAY 17-19 PARADE MAY 18, 2024

 
ARMED FORCES DAY OBSERVANCE MAY 17-19 PARADE MAY 18, 2024 - The biggest Military Parade in the West Coast, pictures and videos will be archive in the Department of Defense. Armed Forces Day Parade in Torrance Blvd 12pm May 18th 2024.
Cuộc duyệt binh lớn nhất ở Miền Tây Hoa Kỳ , hình ảnh và video sẽ được lưu trữ tại Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Cuộc diễn hành Ngày Quân Lực Hoa Kỳ Torrance Blvd 12 giờ trưa ngày 18 tháng 5 năm 2024.
 
Torrance Civic Center
3031 Torrance, CA 90503
310-328-5310
On Torrance BLVD giữa Crenshaw Blvd và Amapola

Mark Your Calendars for May 17 - 19, 2024! 


EVENT DATES, TIMES & ACTIVITIES
FRIDAY, MAY 17
Concert: 7:30 p.m.
On Friday, May 17 at 7:30 p.m. a military concert will be performed for FREE at the James R. Armstrong Theatre,
3330 Civic Center Drive. For ticket information, please contact the Box Office at (31 O) 781-7171. The tickets to the evening concert are free and are on a first come, first served basis. There is a limit of four tickets per adult. Ticket holders must be in their seats 15 minutes prior to show time or the seat will be made available to other patrons.
Military Exhibits: 1O a.m. - 7 p.m.
Military assets will be on display, including aircraft, vehicles and support equipment at Del Amo Fashion Center.
The outdoor exhibits will be in the Del Amo Fashion Center parking lot east of the Lifestyle Wing, which is located
along Madrona Avenue.

SATURDAY, MAY 18
Parade: 1:30 p.m. - 3:30 p.m.
The 62nd Annual Armed Forces Day Parade begins at Crenshaw Boulevard traveling west on Torrance Boulevard
and ending at Madrona Avenue. All streets intersecting the parade route will be closed the majority of the day.
Torrance's parade is the longest-running Armed Forces Day Parade in the nation. As one of few cities designated by the Department of Defense, the City of Torrance is proud to honor the men and women of our nation's Armed Forces. This year's honorary branch is the United States Space Force.
Military Exhibits: 3 p.m. - 8 p.m.
Military assets will be on display, including aircraft, vehicles and support equipment at Del Amo Fashion Center.
The outdoor exhibits will be in the Del Amo Fashion Center parking lot east of the Lifestyle Wing, which is located along Madrona Avenue.

SUNDAY, MAY 19
Military Exhibits: 9 a.m. - 3 p.m.
Military assets will be on display, including aircraft, vehicles and support equipment at Del Amo Fashion Center.
The outdoor exhibits will be in the Del Amo Fashion Center parking lot east of the Lifestyle Wing, which is located along Madrona Avenue.
Times for certain events are subject to change. For updated information about the festivities, visit
www.TorranceCA.Gov/AFD

NGÀY, THỜI GIAN & HOẠT ĐỘNG SỰ KIỆN
THỨ SÁU, NGÀY 17 THÁNG 5
Buổi hòa nhạc: 7h30 tối
Vào thứ Sáu, ngày 17 tháng 5 lúc 7:30 tối. một buổi hòa nhạc 
quân đội sẽ được biểu diễn MIỄN PHÍ tại Nhà hát James R. Armstrong,
3330 Trung tâm hành chính Drive. Để biết thông tin về vé, vui lòng
liên lạc Phòng vé theo số (310) 781-7171. Vé xem buổi hòa nhạc 
buổi tối là miễn phí và được cung cấp trên cơ sở ai đến trước được 
ngồi trước. Có giới hạn bốn vé cho mỗi người lớn. Người giữ vé 
phải ngồi vào chỗ của mình 15 phút trước thời gian biểu diễn nếu 
không chỗ ngồi sẽ được nhường cho những khách hàng khác.
Triển lãm quân sự: 1O sáng - 7h tối
Tài sản quân sự sẽ được trưng bày, bao gồm máy bay, phương tiện
và thiết bị hỗ trợ tại Trung tâm thời trang Del Amo.
Các cuộc triển lãm ngoài trời sẽ diễn ra tại bãi đậu xe của Trung tâm 
Thời trang Del Amo ở phía đông của Cánh Lifestyle.
dọc theo Đại lộ Madrona.

THỨ BẢY, NGÀY 18 THÁNG 5
Diễn hành: 1h30 chiều - 3:30 chiều.
Cuộc diễu hành Ngày Quân Lực Thường niên lần thứ 62 
bắt đầu tại Đại lộ Crenshaw đi về phía tây trên Đại lộ Torrance
và kết thúc tại Đại lộ Madrona. Tất cả các đường phố giao nhau 
với tuyến đường diễn hành sẽ bị đóng cửa phần lớn thời gian 
trong ngày. Cuộc diễn hành của Torrance là cuộc diễu hành Ngày Quân Lực 
kéo dài nhất trên toàn quốc. Là một trong số ít thành phố được Bộ Quốc phòng 
chỉ định, 
Thành phố Torrance tự hào tôn vinh những người đàn ông và phụ nữ trong Quân Lực của quốc 
gia chúng ta. Grand Marshall năm nay là Lực lượng Không gian 
Hoa Kỳ.
Triển lãm quân sự: 3 giờ chiều - 8 giờ tối.
Tài sản quân sự sẽ được trưng bày, bao gồm máy bay, phương tiện 
và thiết bị hỗ trợ tại Trung tâm thời trang Del Amo.
Các cuộc triển lãm ngoài trời sẽ diễn ra tại bãi đậu xe của Trung 
tâm Thời trang Del Amo ở phía đông Cánh Lifestyle, nằm dọc theo 
Đại lộ Madrona.

CHỦ NHẬT, NGÀY 19 THÁNG 5
Triển lãm quân sự: 9 giờ sáng - 3 giờ chiều
Tài sản quân sự sẽ được trưng bày, bao gồm máy bay, 
phương tiện và thiết bị hỗ trợ tại Trung tâm thời trang Del Amo.
Các cuộc triển lãm ngoài trời sẽ diễn ra tại bãi đậu xe của Trung
 tâm Thời trang Del Amo ở phía đông Cánh Lifestyle, nằm dọc theo 
Đại lộ Madrona.
Thời gian cho một số sự kiện nhất định có thể thay đổi. Để biết 
thông tin cập nhật về lễ hội, hãy truy cập
www.TorranceCA.Gov/AFD






 




















Sunday, May 12, 2024

Phá vỡ cấm kỵ vũ khí hóa học, bước leo thang mới của Putin ở Ukraine


Le Point nhận định Vladimir Putin đã phá vỡ điều cấm kỵ xưa nay, cho dùng vũ khí hóa học trên mặt trận Ukraina, bất chấp các thỏa thuận quốc tế đã ký kết. Đáng ngạc nhiên là châu Âu ít phản ứng trước sự vi phạm trầm trọng lằn ranh đỏ này.

Ảnh minh họa : Một phụ nữ đi qua những ngôi nhà bị hư hại ở Mariupol, ngày 08/04/2022. Ukraina cho biết đang điều tra về việc Nga thả chất độc hóa học xuống thành phố Mariupol bị vây hãm. AP - Alexei Alexandrov
Thụy My

Trong tháng Năm, tháng có nhiều ngày nghỉ nhất trong năm tại Pháp, tuần này chỉ có Le Point ra báo, những tuần báo khác đã ra số đúp kỳ trước. Trên trang mạng của các báo, thời sự vẫn được cập nhật, nhất là hai cuộc chiến tranh đang diễn ra ở Ukraina và Trung Đông.

Lần đầu tiên từ một thế kỷ, vũ khí hóa học xuất hiện ở châu Âu  
Le Point chú ý đến sự kiện « Vladimir Putin đã phá vỡ cấm kỵ vũ khí hóa học », khi quân Nga bất chấp các thỏa thuận quốc tế đã sử dụng khí độc trên mặt trận Ukraina. Lần đầu tiên để từ hơn một thế kỷ, vũ khí hóa học vừa được quân Nga sử dụng trên một chiến trường ở châu Âu là Donbass. Người Ukraina đã tố cáo từ nhiều tháng qua, nhưng Hoa Kỳ chỉ vừa mới xác nhận. Trong thông cáo ngày 01/05, Washington công nhận việc Nga dùng chloropicrine, một hóa chất vô cùng độc hại được quân Đức sử dụng trong Đệ nhất Thế chiến.

Công ước về vũ khí hóa học ký tại Paris năm 1993 cấm các Nhà nước dùng đến và buộc phải tiêu hủy số dự trữ. Nga đã phê chuẩn văn bản quan trọng này, là công ước đầu tiên cấm tất cả vũ khí phi quy ước trên toàn cầu. Nhưng Vladimir Putin chẳng hề quan tâm đến những hiệp ước mà nước mình đã ký kết. Hàng ngày ông ta đang dẫm đạp lên bản ghi nhớ Budapest năm 1994, trong đó Nga cam kết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina kể cả Crimée.

Đáng ngạc nhiên là châu Âu ít phản ứng trước sự vi phạm trầm trọng lằn ranh đỏ này. Sau khi hủy diệt toàn bộ các thành phố như Mariupol, Bakhmut, những vụ hãm hiếp, tra tấn, bắt cóc trẻ em, cố ý tấn công thường dân, phá hủy bệnh viện, nhà máy điện, hành quyết tùy tiện tù nhân, Kremlin vừa có bước leo thang mới. Điều này chứng tỏ Vladimir Putin ngày càng ngoan cố, biết rằng số phận của ông ta nay gắn liền với kết cuộc của chiến tranh.

Răn đe không tác dụng do nhiều lần « nói mà không làm »
Thái độ của Putin là do răn đe của phương Tây không hiệu quả. Hôm 19/04, các ngoại trưởng G7 đã cảnh báo Nga là « mọi việc sử dụng vũ khí hóa học, sinh học hay nguyên tử đều sẽ dẫn đến hậu quả trầm trọng ».Ngay từ tháng 3/2022, vài tuần sau khi quân xâm lăng Nga tràn sang, tổng thống Joe Biden cũng đã cảnh cáo Vladimir Putin về cái giá « nghiêm trọng » nếu dùng vũ khí hóa học. Có thể nghĩ rằng những lời cảnh báo đã bị coi thường, kể từ hôm 30/08/2013, khi Barack Obama nuốt lời, không tấn công chế độ Bachar Al-Assad vì dùng vũ khí hóa học.

Tại Ukraina, theo Kiev, mấy trăm vụ dùng khí độc đã diễn ra trong tháng Tư. Bị những quả lựu đạn chứa chloropicrine, chất độc hại cho phổi, da và mắt, các chiến binh trong chiến hào không có chọn lựa nào khác là phải chạy trốn để tránh bị chết ngạt, nhờ đó quân Nga giành được ưu thế mà ít tốn kém. Khoảng 500 chiến sĩ Ukraina đã được chữa trị vì nhiễm khí độc, ít nhất một quân nhân đã tử vong.

Ngày 01/05, Washington đã trừng phạt ba định chế Nga liên quan đến một chương trình vũ khí hóa học và sinh học (gồm một đơn vị đặc biệt và hai viện nghiên cứu), bốn công ty Nga đã hợp tác ; tuy nhiên hiệu quả không cao. Trước hết, phần nào do một loạt sự kiện : Tấn công Irak năm 2003, nhân nhượng trước Damas, rút quân khỏi Afghanistan năm 2021…Nhưng cũng do Nga cảm thấy đang ở thế mạnh, chủ yếu nhờ Trung Quốc tiếp tay. Tổng thống Emmanuel Macron rốt cuộc đã hiểu ra, vấn đề còn lại là huy động các đồng nhiệm nhất là Đức. Le Point cho rằng điều này là khẩn cấp, trước khi Vladimir Putin chuyển sang giai đoạn mới.

Tấn công Kharkiv, Nga mở chiến dịch mới ?

image.png
Phải chăng giai đoạn đó đã đến rồi ? Trước việc quân Nga tấn công vào gần Kharkiv, Courrier International tự hỏi liệu có phải đây là khởi đầu cho một chiến dịch lớn hay không, khi Matxcơva loan báo đã « giải phóng » sáu ngôi làng ở miền đông Ukraina. Tổng thống Volodymyr Zelensky trong cuộc họp báo ở Kiev hôm thứ Sáu cùng với đồng nhiệm Slovakia cho biết Nga đang có đợt tấn công mới vào Kharkiv. Trước đó, bộ trưởng quốc phòng Ukraina nói rằng từ sáng sớm những xe thiết giáp của quân Nga đã cố xuyên thủng phòng tuyến ở nhiều điểm, và không kích những vùng gần biên giới. Chính quyền đã cho sơ tán thường dân ở một số nơi.

Tờ Kyiv Independent cho rằng cuộc tấn công này nằm trong khuôn khổ một chiến dịch rộng lớn hơn trong những tháng tới. Tương tự, Newsweek nhận định đây có thể là khởi đầu cho mục tiêu chiếm Kharkiv, thành phố chiến lược lớn thứ nhì Ukraina, tạo ra một « vùng đệm » và tránh được những vụ tấn công của lực lượng Ukraina vào Belgorod. Tờ báo Đức Süddeutsche Zeitung dẫn một số nguồn tin ước tính quân đội Nga tập trung khoảng mấy chục ngàn binh lính vào đây. Sự kiện bộ Quốc Phòng ở Kiev phát biểu về việc này thay vì Bộ Tổng tham mưu như thường lệ cho thấy tình hình là trầm trọng.

Từ Luân Đôn, nhật báo The Guardian nêu ra một giả thiết khác : « Các chuyên gia khẳng định Nga triển khai nửa triệu quân trên lãnh thổ Ukraina, có thể tấn công nhiều địa điểm khác nhau, dựa vào ưu thế pháo binh trong khi phòng không của Ukraina không đáng kể. Các hoạt động ở Kharkiv có thể chỉ nhằm buộc Ukraina phải huy động lực lượng vào đây, nhưng Nga chủ yếu nhắm vào Donbass và tây nam Ukraina ». Còn theo thông tin của Politico được Courrier International trích dẫn, Hoa Kỳ hôm qua viện trợ thêm 400 triệu đô la bằng hỏa tiễn Patriot, hỏa tiễn địa-không Stinger, chiến xa Bradley, thiết giáp MRAP và hỏa tiễn chống tăng Javelin.

Nga giành lợi thế trước Ukraina do viện trợ phương Tây quá chậm
Trả lời phỏng vấn The Economist, tư lệnh lục quân Ukraina nhận định quân Nga tiếp tục tập trung vào Donetsk, nhưng muốn kéo giãn quân Ukraina về Kharkiv và Sumy. Tuần báo Anh lấy làm tiếc rằng việc phương Tây chi viện chậm trễ đã giúp Vladimir Putin khai thác lợi thế quân đông hơn Ukraina.

Đặc phái viên của tờ báo tại Kostiantynivka, một ngôi làng nhỏ ở Donbass, gặp gỡ trung tá Alexander Timchenko, chỉ huy đơn vị phòng không Ukraina. Lực lượng của ông không sở hữu phương tiện nào để tiêu diệt phi cơ hay bom lượn của Nga, có nhiệm vụ cảnh báo cho các đơn vị pháo binh và các nhóm cơ động trên mặt trận. Là người nói tiếng Nga sống ở Kharkiv, người sĩ quan vốn là độc giả trung thành của Alexandre Soljenitsyne nói rằng ông chiến đấu để không phải sống trong một « quần đảo ngục tù » mới.

Mục tiêu của các trận đánh xung quanh Chasiv Yar không phải để giữ từng centimet đất, mà nhằm cầm chân quân Nga không tràn xuống phần còn lại của Ukraina và chiếm các thành phố chính như Kharkiv, Dnipro, Odessa và Kiev. Tuần trước khi trả lời phỏng vấn The Economist, tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã cảnh báo « mọi sự có thể diễn biến nhanh hơn chúng ta nghĩ nhiều ». Từ lính trơn đến tướng lãnh Ukraina đều nói với tuần báo Anh rằng Kiev không có đủ nguồn lực để quay về với biên giới năm 1991. Trung tá Timchenko đề nghị những ai nói về việc này « hãy đến tận Bakhmut ».

« Nếu họ không về, có thể sẽ không còn Tổ quốc để mà trở về »
Vấn đề không còn là toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina mà là sự tồn tại. Lo sợ leo thang, phương Tây chưa bao giờ chuyển giao tất cả những loại vũ khí mà Kiev cần đến. Sau sáu tháng phải đếm từng viên đạn do phe Cộng Hòa ở Quốc Hội Mỹ cản trở, nay nhiều vũ khí đã đến được Ba Lan. Tuy Nga chiếm ưu thế về quân số và đạn pháo, đại tá Fedosenko cho rằng có thể họ đã nỗ lực tối đa.

Mới cách đây vài tuần bộ binh Nga còn được 10 đến 20 xe tăng, thiết giáp hộ tống, cứ hai đến ba tiếng đồng hồ lại có một đợt xung phong. Nhưng nay khoảng năm ngày quân Nga mới tấn công một lần, dùng mô tô và xe địa hình với những nhóm nhỏ. Theo ông, khoảng 70 % lính Nga trong các vụ tấn công này là tù nhân, bên cạnh đó là lính đánh thuê người Tadjikistan, Uzbekistan, Turkmenistan, Cuba, Somali.

Dù không bị vỡ trận, nhưng mỗi tuần Ukraina mất khoảng 20 kilomet vuông lãnh thổ. Đồng thời Putin bóp nghẹt kinh tế Kiev bằng cách đánh vào các nhà máy điện, oanh kích các thành phố để làm kiệt lực dân chúng. Kharkiv đã phải định lượng điện sử dụng, ngày nào cũng bị bom lượn đe dọa. Nhưng thành phố một triệu dân này vẫn bình tĩnh, người ta vẫn đi dạo công viên, nhân viên vệ sinh vẫn chăm chỉ quét rác. Giữ cho thành phố sạch sẽ và hoạt động bình thường cũng là một cách kháng chiến.

The Economist nhận thấy cho đến nay, chiến sự chỉ tập trung ở một số nơi, nhưng Nga càng mở rộng tấn công, càng ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Mọi nam giới từ 25 đến 60 tuổi sống tại Ukraina biết rằng sẽ có ngày đến lượt mình cầm súng. Áp lực tăng dần lên những người đàn ông Ukraina đã chạy ra nước ngoài. Trung tá Timchenko nói : « Nếu họ không quay về, có thể họ sẽ không còn Tổ quốc để mà trở về nữa ! ».

Đổ bộ Normandie : Câu chuyện về cựu quân nhân da đỏ 100 tuổi
image.png
Tại châu Âu, sống trong hòa bình quá lâu, người ta ngỡ rằng an ninh, thịnh vượng có được là điều đương nhiên, quên mất phải trả giá bằng máu. Nhân kỷ niệm 80 năm đồng minh đổ bộ, khởi đầu công cuộc giải phóng nước Pháp, Le Nouvel Obs chọn lựa 18 câu chuyện đặc sắc để thuật lại, trong đó có chuyện « Một người da đỏ ở Omaha Beach ».

Ngày 06/06/1944, y tá Charles Norman Shay đi vào lịch sử khi xông pha dưới màn lưới lửa cứu được nhiều đồng đội bị thương. Ông là một trong số 500 người da đỏ Mỹ tham gia cuộc đổ bộ. Trong những giấc mơ của ông Shay ở tuổi 100, những viên đạn vẫn bắn như mưa trên một vùng biển đỏ máu. Người lính mới 19 tuổi thuộc một bộ lạc da đỏ ở bang Maine, không giống chút nào với những chú GI cao lớn trong túi đầy những gói thuốc Lucky Strike và chewinggum.

Vào lúc 6 giờ 35 sáng, đơn vị The Big Red One do tướng Huebner chỉ huy thuộc những toán đầu tiên trong số 160.000 quân nhân đổ bộ xuống bãi biển Colleville-sur-Mer ở Normandie, bằng những chuyến phà từ các tàu đậuh ngoài khơi. Shay lao xuống nước dưới những làn mưa đạn của quân Đức, xung quanh có những đồng đội bị trúng đạn hay chết đuối. Ông nhớ lại « một vùng biển loang đỏ máu của những người lính tử thương và bị thương ».

Tìm được một góc an toàn trên bờ biển, Shay cứu chữa khoảng mấy chục thương binh. Thấy những đợt sóng có thể kéo các quân nhân bị thương khác trở lại biển, anh y tá trẻ vội vàng chạy đến kéo từng người lên, dưới trận mưa đạn và những khẩu đại bác 75 ly của quân Đức trên đồi cát gần đó. Big Red One mất đến 30 % quân số trong những giờ đầu tiên. Trong số 34.250 quân nhân Mỹ đổ bộ xuống Omaha Beach, 2.500 người đã tử trận chỉ trong vòng một ngày. Người bạn thân của Shay thở hơi cuối cùng trên tay anh.

Charles Norman Shay được Hoa Kỳ tặng huy chương Silver Star và Pháp tặng Bắc Đẩu bội tinh. Kể từ 2007, hàng năm ông đều trở về Normandie. Mặc chiếc áo khoác bằng da hươu trên lưng gắn hình một con rùa, biểu tượng của bộ lạc, ông đốt những điếu thuốc quấn bằng lá thơm, dùng một chiếc lông đại bàng quạt lên « để tiếp xúc với linh hồn những người lính can đảm còn ở lại ».

Giám đốc CIA Bill Burns và các « điệp vụ bất khả thi »
<image.png>

Quay lại với chiến tranh ở Ukraina, L’Express đề cập đến một nhân vật nhiều ảnh hưởng ở Hoa Kỳ : Bill Burns, giám đốc CIA. Chính ông đã thuyết phục Mike Johnson bằng những báo cáo cụ thể, khiến chủ tịch Hạ Viện Mỹ rốt cuộc đã thay đổi ý kiến, ủng hộ viện trợ quân sự cho Kiev.

Tác giả Chris Whipple nhận xét, một lần nữa người đứng đầu cơ quan tình báo CIA đã chứng tỏ có thể thực hiện những nhiệm vụ bất khả thi. Trong ba năm qua, Bill Burns đã tiến hành 50 chuyến đi bí mật để gặp gỡ các nhà lãnh đạo trên khắp thế giới. Cựu đại sứ Pháp ở Liên Hiệp Quốc và Washington Gérard Araud nhận xét « ông ấy là người Mỹ tử tế nhất mà tôi từng làm việc cùng ».

Vào lúc chiến tranh đang diễn ra ở Ukraina và Gaza, kinh nghiệm của Bill Burns về thế giới hậu xô-viết và Cận Đông trở nên vô cùng quý giá. Ông là nhà ngoại giao chuyên nghiệp đầu tiên được bổ nhiệm làm lãnh đạo CIA. Đội ngũ này khoảng 22.000 người gồm điệp viên, chuyên viên tin học, nhà khoa học, luật sư, nhà ngôn ngữ học, nhà kỹ trị, quân nhân. Điều hành đội quân trong bóng tối này vốn là điều không dễ dàng vì phải đưa ra những quyết định mang tính sống còn.

Những thông tin làm thay đổi cục diện chiến trường
Ông Burns có thế mạnh là được tổng thống tin tưởng hoàn toàn. Thành công bắt đầu từ tháng 11/2021, khi Joe Biden gởi Bill Burns làm nhiệm vụ bí mật ở Matxcơva. Ông kinh ngạc khi thấy mình biết nhiều hơn đồng nhiệm Nikolai Patrouchev : do sợ Covid, ông chủ điện Kremlin ở ẩn trong datcha, chỉ nói chuyện qua điện thoại với giám đốc tình báo. Burns cảnh báo về hậu quả nếu xâm lăng Ukraina, và khi trở về Washington ông khẳng định với Biden : Chiến tranh nhất định sẽ xảy ra. Với sự đồng ý của tổng thống, giám đốc CIA quyết định công khai những thông tin về ý định xâm lược Ukraina của Putin.

Việc « giải mật chiến lược » này là sự kiện chưa từng thấy, hóa giải hết những cái cớ mà Kremlin định đưa ra. Vào thời đại mạng xã hội, đây là vũ khí răn đe hiệu quả. Không dừng lại ở đây, Burns sang Kiev để thông báo cho Volodymyr Zelensky cách mà tình báo Nga dự định ám sát ông. Chưa hết sững sờ, tổng thống Ukraina còn được biết kế hoạch chi tiết của đặc nhiệm Nga chiếm phi trường Antonov, nhờ đó Kiev đã « tiên hạ thủ vi cường ».

Giờ đây CIA đã trở thành hấp dẫn với số người ứng tuyển cao kỷ lục trong năm 2023. Bill Burns tăng gấp đôi ngân sách dành cho Trung Quốc – điểm yếu hiện nay, bộ phận chuyên về Trung Quốc chiếm hẳn một tòa nhà trong trụ sở CIA bên bờ sông Potomac. Ông đã trở thành nhân vật chủ chốt trong chính quyền Biden, ảnh hưởng vượt lên cả ngoại trưởng Antony Blinken và cố vấn an ninh quốc gia Jake Sullivan, nhưng vẫn có quan hệ tốt đẹp. Bí quyết của Bill Burns ? Không hề kiêu căng, thực sự lắng nghe người khác.

Tất cả ‘như chỉ mới hôm qua’…

30-4-1975 – một ngày đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam; một ngày mà cả miền nam Việt Nam phải gánh chịu những sự trả thù tàn khốc của Việt Cộng, ngày mà Việt Cộng đã trả thù không thương tiếc với những sĩ quan, quân, cán chánh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, không những với người từng cầm súng trực tiếp trên chiến trường, mà còn đối với vợ, con của họ.

Nước mắt, đau thương và tang thương cao ngất trời do Việt Cộng đã gây ra kể từ cái ngày 30-4-1975, ngày mà chúng gọi là “giải phóng miền Nam”. Viết ra cả ngàn trang giấy cũng không thể nào hết được!

Gia đình tôi thuộc loại “gia đình ngụy quân” như chúng gọi. Sau cái ngày ấy, bố tôi mắc kẹt ở lại, không di tản kịp. Những ngày sau đó, bố tôi ra “trình diện” để “học tập 10 ngày!” như Việt Cộng lúc đó  kêu gọi. Bố tôi cũng tưởng “chính sách hòa giải- hòa hợp dân tộc, không trả thù những người đứng bên kia chiến tuyến” của Việt Cộng là thật. Bố tôi vốn là trung uý ngành chiến tranh-chính trị của Không quân VNCH.

Ngày 26-6-1975, bố tôi ra “trình diện”, rồi 10 ngày trôi qua, và một tháng trôi qua cũng không thấy tin tức bố tôi. Mọi người trong gia đình đều lo lắng, nhưng không biết hỏi ai và hỏi ở đâu. Trong lúc không khí Sài Gòn u ám và ảm đạm, không ai dám lên tiếng vì sợ Việt Cộng nhốt tù vì ghép vào tội “phản động”, “chống lại chính quyền cách mạng”. Sài Gòn không còn tên gọi, không còn luật lệ, không còn đạo đức, và văn minh. Sài Gòn đã mất hết, mất tất cả, kể từ 11:30 trưa ngày 30-4-1975.

Bố tôi bị “tập trung, cải tạo” như hàng vạn sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa lúc đó và cả gia đình phải chịu đựng những đòn trả thù của Việt Cộng. Một hôm, bỗng có lá thư bố tôi gửi về từ “Hòm thơ T, D” từ Kà Tum, Tây Ninh, một nơi rừng thiêng, chướng khí mà ngày xưa đầy mìn, bom và chất độc thời chiến tranh. Kà Tum xưa kia là Mật khu Trung Ương Cục R của Việt Cộng.

Hơn một tuần sau, nhà tôi bị một đám thanh niên mang băng đỏ trên cánh tay vào lục soát. Một buổi trưa, tháng 7-1975, bọn chúng gồm bốn tên vào nhà tôi, súng dắt trên lưng.

 – “Yêu cầu mọi người im lặng, chấp hành kể từ giờ phút này!” – tên chỉ  huy nhóm Cờ Đỏ ra lệnh.

Tôi lúc đó ngỡ ngàng và không hiểu chuyện gì. Chúng đi vòng quanh nhà, mắt nhìn mọi nơi, mọi đồ vật. Thấy hai tủ sách của bố tôi ngay giữa nhà, chúng bắt đầu cạy khóa, lục soát hết mọi quyển sách và hình ảnh của bố tôi từ ngày vào quân đội đến khi làm sĩ quan. Chúng thấy cái bằng “Tốt Nghiệp Sĩ Quan Trường Bộ Binh Thủ Đức Khoá 6-69” và bằng Thủ Khoa của bố tôi.

Chúng xé tan nát với thái độ thù hằn. Tên trưởng nhóm hằn học với giọng Nghệ Tĩnh: “Đồ Ngụy! Ác ôn!” Sau đó, sách vở, hình ảnh, đồ đạc của bố tôi bị tịch thu và mang đi.

Phan Lạc Tuyên là anh trai của bố tôi. Trước 1960 ông ấy là đại úy Biệt Động Quân nhưng sau cuộc đảo chánh hụt Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông ấy trốn sang Miên và đi theo Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Ông ấy trở về Sài Gòn vào tháng 8-1975, sau khi được Cộng sản Bắc Việt cử đi học và lấy bằng tiến sĩ tại Ba Lan.

Chúng không tin ông ấy nữa sau ngày 30-4-1975. Tuy nhiên, ông Tuyên vẫn cố “lấy điểm, lập công” với gia đình họ tộc miền Nam. Ông ấy tìm về gặp ông nội tôi. Ông tôi vốn là nhà nho, trưởng tộc của cả họ Phan Lạc. Cụ cứ ngỡ con trai mình vẫn là con người như ngày nào, nhưng vừa chưa kịp thỏa vui mừng cho ngày đoàn tụ thì Tuyên ghé qua nhà Từ đường của họ Phan và gây chuyện. Khi thấy ông Nội tôi treo hình Khổng Tử cũng như quả chuông của dòng họ Phan từ thời nhà Lê ở nhà Từ đường, Tuyên nói như ra lệnh:

 – “Tại sao Cậu lại treo hình tên Khổng Tử? Một tên phong kiến. Tôi đã theo cách mạng giờ đây về Sài Gòn. Tôi mà thấy mười tên phản động chống lại cách mạng, tôi cũng bắn! Từ giờ phút này phải dẹp cái Từ đường, nhà thờ họ kia đi!”.

Ông Nội tôi kinh ngạc và rất buồn khi thấy Tuyên cầm hình cụ Khổng Tử xé nát. Từ ngày ấy, Tuyên đóng cửa nhà thờ họ Phan. Ông nội tôi từ đó hiểu rằng: Tuyên không phải là đứa con ngày xưa nữa mà nay đã thành cộng sản với chủ trương Tam Vô (vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo).

Cụ lặng lẽ dọn về nơi khác ở Hòa Hưng đến cuối đời. Cụ biết rằng, dù thế nào đi nữa thì giờ này cụ đã ở cái tuổi gần 80 và thân cô thế cô. Cụ từng được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trao giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc vào năm 1973.

Còn tôi lúc ấy 15 tuổi, là tuổi ăn, tuổi học. Thế nhưng, tôi bị buộc đi “lao động thủy lợi” và nằm trong thành phần “gia đình ngụy- thuộc diện đi kinh tế mới”. Chúng cắt hộ khẩu, cắt lương thực… Tôi phải rời xa mái trường, xa nhà. Hôm đưa tôi cũng như hàng trăm anh em cựu binh lính quân lực VNCH lúc đó đi lao động không công, xe chuyển bánh từ Bảy Hiền, hướng Bà Quẹo, lên Củ Chi, tôi ngoảnh nhìn ngôi trường Nguyễn Thượng Hiền mà lòng buồn không tả. Thế là mình xa mái trường, và mất hết ước mơ.

Cái nón tai bèo che khuất tương lai. Giờ đây trên tay tôi là cuốc, xẻng… để lấp hố bom, mìn bẫy ở Củ Chi, nơi trước kia là Vành Đai Trắng của Việt Nam Cộng Hòa. Chiếc xe chở tôi ngang qua Thành Ông Năm, Hóc Môn, nơi bố tôi đang bị giam giữ với cụm từ mỹ miều “học tập cải tạo”, tôi buồn vô cùng.

Thân phận những người thua cuộc là đây! Con cũng như bố, cũng trong cái gọng kìm kẹp, trả thù dã man của Việt Cộng. Vận nước, vận nhà đều chung một vận. Miền Nam Việt Nam kể từ ngày 30-4-1975 đã biến thành một nhà tù lớn.

Việt Cộng đã đánh lừa hơn 30 triệu dân miền Nam lúc đó! Sau 46 năm kể từ “tháng Tư Đen” ấy, bản chất Cộng sản Việt Nam vẫn tham lam, quỷ quyệt, và luôn đàn áp những người mà chúng chụp mũ là “phản động”, những người dám đứng lên cất tiếng nói ôn hòa vì khao khát cho nhân dân Việt Nam được sống trong tự do, dân chủ, và nhân quyền, muốn bảo vệ, duy trì đạo đức đích thực, của dân tộc Việt Nam hơn 4000 năm lịch sử.

49 năm trôi qua, nhưng tiếng thét, tiếng gào của người dân Đồng Tâm, Lộc Hưng… vì bị cướp đất, cướp nhà thì vẫn ‘Như Chỉ Mới Hôm Qua’. 49 năm trôi qua, nhưng vết sẹo vẫn còn trên thân thể của những người thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Họ phải lê lết, xin ăn, và chết mòn nơi quê hương. Chúng ta từng là nạn nhân của cái gọi là “hòa giải, hòa hợp” của Cộng sản Việt Nam sau 30-4-1975, xin đừng bao giờ lầm một lần nữa, hãy ghi nhớ: ‘Như Chỉ Mới Hôm Qua’.

Phan Lạc Đông Quân

BA MƯƠI THÁNG TƯ NGẤT NGƯ ĐỜI NGHỆ SĨ

 
Tháng Tư lại về, nỗi buồn len lén con tim. Thương lắm người vì ngày này mà chịu nhiều khổ nạn tai ương, tủi nhục ngút ngàn, biết bao gia đình ly tán chia lìa, ngậm ngùi chua xót.

Giết chóc, tử hình, giam cầm, “cải tạo”…

Tịch thu tài sản, nhà cửa, ruộng vườn, sách báo Mỹ ngụy…

Vượt ngục, vượt trại, vượt biên, vượt biển…

Đất nước lâm cảnh bi hài…, kể sao cho xiết. Không chỉ một vài năm mà gần tròn nửa thế kỷ!

Nhiều nạn nhân bị đày ải, trù dập, bắt bớ, hành hạ… suốt thời gian dài. Bài viết này xin ghi lại những tình cảnh “ngất ngư”, tơi tả của một số văn nghệ sĩ sau ngày tang thương cuối Tháng Tư Đen.

Nhà Văn nỗi tiếng của Việt Nam Cọng Hòa. Xuất bản hơn mười tác phẩm viết về chiến tranh. Sau 75, sách Ông bị đốt trên đường phố Saigon. Những lúc biệt giam trong ngục tối, Ông có làm nhiều bài thơ.

Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn từng mời về Hà Nội dự đại hội nhưng Ông từ chối.

* Những ngày trong tù: Theo Nhà Văn Đào Vũ Anh Hùng (“Phan Nhật Nam Dựa Lưng Nỗi Chết”, batkhuat.net): Họ Phan bị đưa ra Bắc từ 1976, trải qua những trại tù kinh khiếp nằm sâu trong rừng núi thượng du hùm thiêng nước độc chết người. Nhưng anh vẫn phập phồng dưới nắng lửa mưa dầm, vây quanh bởi những cặp mắt nham hiểm rình mò cú vọ của một bầy lang sói. Bị chúng đánh đập, cùm xiềng, giam vào hầm đá biệt lập tối tăm lạnh lẽo, chịu đựng đói khát suốt nhiều ngày đêm khổ nhục, tình trạng sức khỏe xuống thê thảm, thân hình tiều tụy, suy nhược khó mà nhận ra. Chân run không đứng vững, đầu váng mắt hoa, phổi hư, răng mục nguyên hàm, tóc rụng từng mảng, bệnh trĩ nội xuất huyết hậu môn.

* Ngày trở về: Năm 1988 được thả ra. Phan Nhật Nam xuôi quốc lộ 1 quay lại Saigon.

Đến Đà Nẵng vào buổi trưa thì tàu dừng. Dưới sân ga có những tiếng la to: Hoan hô Tướng Lê Minh Đảo! Hoan hô lính Việt Nam Cọng Hòa!

Hoan hô…! Hoan hô…!

Nam kể lại:

Một người trong toán phục vụ có lẽ do thấy tôi tương đối trẻ so với đám tù, thân mật hỏi:

– Chú cấp bực gì mà giờ này mới về?

– Đại Úy

Đại Úy. Trời ơi! Đại Úy người ta về từ mười năm trước. Mà Đại Úy đơn vị chi?

– Nhảy Dù.

Vậy chú là Nhà Văn Phan… Chú muốn ăn uống chi… Con đem tới…

Tôi uống hết một két 12 chai bia cho đến chiều tàu tới ga Hàm Tân. Được tháo cùm tay, chân bước xiêu ngã trên sân ga, nhìn xung quanh chập chờn…

* Nhà Văn khí khái:

Thoạt đầu bị giam tại Long Giao. Nam viết vào bản tự khai: “Trong đời, tôi mang theo một điều ân hận là có ông bố hành nghề cộng sản”.

Suốt thời gian ở tù, anh chỉ gặp lại cha một lần sau hơn 20 năm người Bắc kẻ Nam. Anh chua xót kể lại:

“Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên, gọi tôi bằng anh. Bố hỏi tôi học tập thế nào. Bố nói là có đọc văn tôi. Tôi ngồi yên nghe bố nói. Sau cùng, bố đứng dậy, móc trong xách ra một gói nhỏ bảo là đường và thuốc lá, trao cho tôi, khuyên tôi cố học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt bố, lòng thấy dửng dưng”. Rồi cha con giã biệt để lại nghịch cảnh phân chia, ngăn cách đôi bờ…, không thể nào hàn gắn nổi.

Cũng theo Đào Vũ Anh Hùng: “Tuy biết thân phận như một người ngã ngựa, song Phan Nhật Nam vẫn hiên ngang bước vào lò luyện ngục với nụ cười khinh mạn, nhận chịu những ngón đòn thù đê tiện và cực kỳ độc ác. Để chứng tỏ đảm lược một chiến sĩ nhảy dù, hào khí của người lính quốc gia hay phong thái bất khuất của nhà văn hữu hạng miền Nam. Anh bác khước mọi lời dụ dỗ hoặc làm tờ tự khai tự thú theo ý muốn của cộng sản, chối bỏ đặc ân từ ảnh hưởng chức vụ người cha. Hơn thế nữa, vợ anh bị cấm thăm nuôi chồng, phải dùng tên giả, gởi cho người khác nhờ chuyển đến Nam lén lút. Tất cả chỉ vì cái mộng trở lại cầm bút viết văn để nói lên thực trạng hệ thống lao tù và bản chất tàn độc mất hết nhân tính của người cộng sản”.

* Chuyện trưa 30/4/75 (“Chung quanh…bụi rác và nỗi đau”, Phan Nhật Nam, Đại Học Sư Phạm Saigon): Trưa 30/4/75, anh vào cư xá sĩ quan Bắc Hải, nay đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Ông đang trải tấm bản đồ trên mui xe jeep, bàn thảo với viên sĩ quan nhảy dù có nhiệm vụ bảo vệ an ninh khu vực. Khi biết lệnh đầu hàng của Dương văn Minh, Ông hất tung bản đồ, gầm lên lời nguyền rủa. Nhưng viên Thiếu Úy trả lời quyết liệt: “Tôi không đầu hàng, tôi với trung đội sẽ ra bến tàu tiếp tục chiến đấu”. Thiếu Úy Thái tập họp đơn vị, hô nghiêm, xếp hàng, ban lệnh di chuyển. Trung đội rời cư xá theo lối cổng Tô Hiến Thành, rẻ vào Nguyễn Tri Phương, đi về phía Chợ Cá Trần Quốc Toản hướng bến tàu Bạch Đằng. Nhưng họ không ra tới chỗ đó. Ngang bùng binh Ngã Sáu Chợ Lớn, họ xếp thành vòng tròn, đưa súng lên trời, đồng hô lớn: Việt Nam Cọng Hòa Muôn Năm! Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng bực nổ sau lời chào vĩnh quyết cùng đất nước miền Nam.

Viết văn, làm thơ, soạn nhạc. Nhà Văn có nhiều tác phẩm xuất bản nhất, gần 100 cuốn. Được đông đảo độc giả mến mộ. Sách bị cấm lưu hành trong nước.

Rất nhiều tác giả viết về Duyên Anh. Xin cùng nghiền ngẫm một số tư liệu đó::

* Tính khí của Duyên Anh: Nhà Văn Đỗ Bình (“Đắng Cay của Một Đời Tù”, daihocsuphamsaigon.org) nhận xét: “Sự nổi tiếng trong văn chương quá nhanh, đời sống sung túc dư giả, tiền bạc rủng rỉnh khiến anh tự mãn, trở thành ngạo mạn ngông cuồng, xem thường kẻ khác, thể hiện qua những bài viết có chất cay nghiệt.

* Tư tưởng chống Cộng: Trong cuộc phỏng vấn của Hưng Việt đăng trên Tạp Chí Văn Chương Da Màu, nhà văn Nguyễn Vy Khanh nhận định: “Duyên Anh rõ ràng là kẻ thù của chế độ cộng sản. Ông là nhà văn, mà là nhà văn nổi tiếng, được ưa thích, nhất là giới trẻ. Ông lại di cư năm 54 và trong tác phẩm của Ông nhiều lần lý luận chống chủ nghĩa cũng như con người cộng sản.

* Trò chuyện với Vũ Trung Hiền:

Sau khi ra tù, Duyên Anh hay tìm gặp bạn bè. Một bữa, tại quán cà phê đường Trương Minh Giảng Saigon, Duyên Anh tâm sự với Hiền:

– Mỗi tuần anh phải đến đó 2 lần để “làm việc”.

– Anh làm việc với cơ quan nào?

– Làm việc chó gì đâu. Anh dùng chữ của tụi nó. Đây là cách để chúng kiểm soát anh thôi.

– Vậy thì mỗi lần vào đó anh làm những gì?

– Cũng nhẹ nhàng lắm. Kiểu mạn đàm thân mật, có cà phê, thuốc lá, trà nóng. Những thằng công an văn hóa này, đa số từ Bắc vào, đều thuộc loại trình độ đại học, tương đối lịch sự. Chúng đọc các tác phẩm của anh kỹ lắm. Đại khái chúng muốn biết anh làm gì, đi chỗ nào, giao du với ai. Nhưng cái điều chính chúng nhắm là thuyết phục anh hợp tác.

– Hợp tác như thế nào?

– Chúng muốn anh viết lại. Viết toàn truyện cho tuổi thơ thôi. Chúng bảo cả ngoài Bắc lẫn trong Nam không có thằng nào viết về tuổi thơ cự phách như anh. Chúng còn nói, việc bắt giam những nhà văn miền Nam hồi 76 là một sai lầm lớn.

– Họ bốc anh như vậy chắc là có dụng ý gì rồi, đời nào anh hợp tác, phải không?

– Hợp tác thế nào được với chúng. Ở cái đất này thêm ngày nào, mình chết dần chết mòn ngày ấy. Anh đang chờ cơ hội để dzọt đây.

– Nhưng anh sẽ không nói gì để họ nghi ngờ anh có ý định ấy chứ?

– Dĩ nhiên rồi. Trước mặt chúng, anh bảo chỉ ước ao được về lại quê Thái Bình, sống với bố anh, chứ chẳng còn tham vọng gì nữa cả.

Sau một thời gian trốn tránh, sống lây lất, Duyên Anh vượt biên qua Mã Lai, ở đó 7 tháng rồi trở thành dân tị nạn tại Pháp từ tháng 10/83. Tiếp tục viết, xuất bản cuốn Một Người Nga ở Saigon.

* Ý Kiến Thân Hữu:

Nhà văn thành danh. Xuất bản hơn 50 tác phẩm và một tập thơ.

* Phiên họp kín: Mai Thảo kể “buổi họp” diễn ra trong phòng âm u của ngôi nhà trên đường Tự Do, Saigon. Đó là buổi họp đầu tiên và cuối cùng cực kỳ nghiêm trọng giữa Nhã Ca và 5 người con nhằm đi tới biểu quyết: Có đồng ý cho bác Mai Thảo tạm trú một thời gian, giữa lúc bác đang bị chính quyền cộng sản săn lùng ráo riết?

Mỗi lần nhớ lại hình ảnh 5 bàn tay nhỏ xíu cùng hăng hái, dứt khoát giơ lên trong tình cảnh tai hoạ có thể ập xuống bất cứ lúc nào, trên mái đầu những trẻ thơ này, tôi không khỏi bùi ngùi và cảm phục.

Nghe qua chuyện này, Du Tử Lê nói: Tôi vẫn nghĩ không thể tự nhiên cùng lúc có được 5 bàn tay bé xíu giơ lên, trong một quyết định đầy nguy nan như thế, khi mà người cha của chúng còn đang dật dờ trôi dạt từ nhà tù này tới nhà tù khác. Khi mà chính người mẹ cũng từng chịu cảnh tù đày gần 2 năm. Hiện vẫn còn bị theo dõi ngày đêm.

* Gian Nan Trốn Thoát: Sau đây là phần lược dịch của Ngô Thế Vinh từ nguyên bản sách “Artists in Exile, American Odyssey”, Jane Katz, 1983:

Người Mỹ rút khỏi Saigon năm 1975. Do các bài viết chống Cộng trước đó, tôi bị liệt kê trong danh sách những nhà văn có nguy hại cho chế độ.

Hầu hết số nhà văn ấy đều bị bắt đi tù, nhiều người chết tại đó vì không đủ ăn hoặc thiếu thuốc men.

Tôi thì may mắn hơn, được dân chúng chăm sóc và che chở. Không có tình thương yêu của họ, tôi đã không thể sống còn ở Việt Nam.

Cộng sản ra thông báo là bất cứ ai hỗ trợ những nhà văn có tên trong sổ đen sẽ bị bắt giữ. Hệ thống an ninh của họ rất chu đáo. Họ chỉ định những người hàng xóm canh chừng nhau và báo cáo lên chính quyền địa phương. Nhưng cũng có nhiều người liều mạng để bảo vệ cho tôi. Họ che dấu tôi trong 8 căn nhà khác nhau suốt 2 năm. Tôi sống dưới hầm tối, bất cứ ánh sáng hay sinh hoạt nào bị hàng xóm phát hiện sẽ gây hiểm nguy cho gia chủ. Cộng sản lục soát một số nhà nhưng họ đã không tìm ra tôi.

Tôi sống như một con vật trong bóng tối. Có những đêm hoàn toàn mất ngủ, những ngày giống nhau buồn chán. Một người bạn đem đến cỗ mạt chược và tôi chơi cùng một lúc cả hai phe. Đôi khi quá tuyệt vọng, tôi phải bí mật tìm cách ra ngoài trong bóng đêm. Tôi sâu sắc cảm thấy nhà văn là thuộc về xã hội và quần chúng. Với những người đã cùng nhau hợp tác cứu sống tôi, tôi thấy mình phải can đảm để xứng đáng trước sự trợ giúp mà tôi nhận được.

* Ra Đi: Cuối năm 1977, một tổ chức tư nhân giúp người vượt biên liên lạc với tôi và bảo cứ chờ họ ở nơi đang ẩn lánh.

Vào một đêm tối trời, có người mặc áo đen đi xe Honda, đậu trên gốc cây sau căn nhà, hướng dẫn tôi ngồi lên xe và lặng lẽ chạy ra phía bờ sông Saigon, nơi thuyền nhỏ đánh cá đang chờ. Tôi được bảo nên đóng vai chèo ghe, giả bộ như ngư dân. Sau 2, 3 giờ thì chuyển sang thuyền máy trên biển. Tôi nhìn thành phố Saigon lần chót và bật khóc vì hiểu rằng mình chẳng còn bao giờ thấy nữa. Người dân miền Nam hết sức gắn bó với thành phố mang tên Saigon.

Trên biển cả, tôi có cảm giác được phóng thả. Tôi đã là một con người tự do.

Đó là một đêm tối đen không trăng. Vừa ra tới biển khơi nhưng lại có cơn bão thổi tới làm vật vã con tàu nhỏ, buộc chúng tôi phải quay lại bờ. Trở về nơi ẩn náu. Vài ngày sau được tin cha tôi chết ở tuổi 82. Các anh tôi khuyên không nên về nhà vì có thể bị bắt. May thay là tôi đã âm thầm tới thăm được mộ cha, đọc lời cầu nguyện tỏ lòng tưởng nhớ và điều ấy đã làm dịu phần nào nỗi đau mất mát.

Rồi chiếc xe máy khác đến trong đêm tối, chuyến đào thoát thứ hai nguy hiểm hơn lần trước. Thuyền đánh cả nhỏ đưa tôi tới một cái chòi. Tôi phải núp ở đó suốt 2 ngày trong vùng sình lầy có cây che khuất. Cuối cùng thì một chiếc ghe đưa tôi ra khơi rồi chuyển qua tàu đánh cá lớn hơn. Tôi bước lên con tàu với sức chứa 20 người nhưng số thuyền nhân là 58, bao gồm những người tị nạn chính trị, sinh viên, học sinh, ông bà già, trẻ thơ.

Trải qua 6 ngày đêm, mọi người đói khát, một số ngã bệnh. Tới được Mã Lai nhưng họ không muốn tiếp nhận, tỏ ra thiếu thân thiện, do đã có quá nhiều tàu tị nạn dạt vào đây. Cố cập bến thì họ đẩy ra xa. Cuối cùng một ngư phủ Mã ra dấu cho chúng tôi cứ ủi vào bãi. Nếu tàu bị vỡ hư hại thì họ phải đón nhận. Chúng tôi làm như vậy và có hiệu quả. Viên chức Liên Hiệp Quốc tới giúp đỡ. Tôi được yêu cầu viết bài đọc trên đài phát thanh và giữ chức chủ tịch trại.

Nhã Ca viết nhiều, xuất bản hơn 40 tác phẩm. Là nhà văn miền Nam đầu tiên có sách được dịch ra Anh và Pháp ngữ, với hai cuốn: “Đêm Nghe Tiếng Đại Bác” và “Đoàn Nữ Binh Mùa Thu”.

Đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc 2 năm liền: 1965, 1966.

Nhã và Từ viết bài Tâm lý chiến cho Đài Tự Do của Mỹ nhằm tuyên truyền chiêu hồi, lay chuyển tinh thần và tư tưởng bộ đội cộng sản.

Nhã ở tù gần 2 năm, còn Từ tới 12 năm.

* Tuổi Trẻ Tài Cao của Trần Dạ Từ:

Nhà Báo Hồ Văn Đồng tiết lộ: Năm 1955, Đài Phát Thanh Pháp Á tổ chức giải thơ. Thắng hạng nhất là một học sinh 15 tuổi, khi tới Đài mặc quần sọt. Ban Giám Khảo phải mời chú thiếu niên ra thử tài đủ kiểu, xét xem chú có phải là tác giả bài thơ đoạt giải hay không. Thi Sĩ Hồ Đình Phương, thư ký hội đồng lập biên bản, ký bảo lãnh rồi mới chịu phát cho Từ mấy ngàn bạc. Đến năm sau, vẫn thiếu niên ấy lại đoạt giải nhất về truyện ngắn của tuần báo Nhân Loại.

Nhờ tài năng xuất chúng, nên mới 22 tuổi mà Từ đã là Tổng Thư Ký nhật báo Dân Việt của Công giáo. Tuy học hành bằng cấp không cao, tiếng Tây tiếng Mỹ bập bẹ, vậy mà trong bộ biên tập do anh điều khiển, nhiều người là đại khoa bảng.

* “Đường Sữa Trong Tù”, Phạm Thị Hoài, 5/8/2013:

Sau mấy tháng bị giam trong cat-so vì ngoan cố không chịu nhận tội và không tố giác người tù, sức khỏe bà suy yếu, một cán bộ Sở Bảo Vệ Văn Hóa Chính Trị sai nhân viên đem đến cho Nhã ly sữa do chính con bà gởi vào. Sáng nào ông ta cũng hộ tống bà từ phòng giam nữ, đi qua những dãy phòng giam tập thể khác đến lớp học về nọc độc của văn hóa Mỹ ngụy và chính sách nhân đạo của cách mạng. Theo sau là một nhân viên cung kính bưng ly sữa. Bà không chịu nỗi đám rước sữa trình diễn lòng nhân đạo hay đòn phép ân huệ ấy. Người ta ép bà uống, vì: “chúng tôi muốn tạo điều kiện giúp chị mau phục hồi, trở về với các cháu”. Tay cán bộ nói: Như chị Nhã Ca kìa, trong những buổi lên lớp vừa qua, tôi đã phân tích rõ những cuốn sách phản động của chị ấy. Vậy mà các anh quay lại coi, cách mạng đã đối xử với chị như thế nào”.

Bà Nhã Ca kể: nhiều người từ bàn trên đã quay lại và hầu như tất cả đều tủm tỉm cười, không phải với bà mà với ly sữa để trước mặt bà.

Tên cán bộ còn nói: “cách mạng muốn giết chị, không cần phí một viên đạn. Bắt chị vào đây chỉ là thi hành chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng. Muốn giết, đã giết rồi”.

Trong tù, Nguyễn Mạnh Côn kể lại với Hồ Văn Đồng: “Moa nói với họ là bao nhiêu nhân vật quan trọng ở miền Nam, đâu có người nào cách mạng bắt đi tù cả chồng lẫn vợ như trường hợp Trần Dạ Từ và Nhã Ca. Nhốt bà mẹ của 6 đứa con nhỏ, có đứa còn chập chững tập đi. Nói thật, bà ta chỉ là một người viết văn bình thường, chẳng hiểu biết gì về chính trị. Nếu sách bà ta có chống Cộng, ấy là do tôi mà có. Thả bà ta về, rồi muốn tôi làm trâu, làm ngựa gì cũng được”.

* Những Ngày Giờ Cuối (Hồi Ký Nhã Ca):

Đại diện Sở Ngoại Vụ nói với Nhã: Những năm vừa qua, anh chị đã chịu nhiều khổ cực. Nhất là chị và các cháu đôi lúc từng bị đối xử bất công. Trong thời kỳ quá độ, mọi lãnh vực đều có những sai lầm đáng tiếc. Chúng tôi mong anh chị nhìn về tương lai và bỏ qua điều này.

Dạo ấy hai vợ chồng vô cùng bận rộn đi thăm viếng từ giả bạn bè. Nhã chợt nghĩ: Mới đêm nào, nhớ chiếc xe tù vào Chí Hòa cùng anh em. Thoáng chốc mười hai năm. Bây giờ tôi đứng ngoài, phía sau lưới sắt, khuôn mặt anh Hoàng Hải Thủy, anh Doãn Quốc Sỹ xạm xanh một màu chì. Bên cạnh tôi, mái tóc chị Thủy bạc phơ, đôi mắt chị Sỹ đang sắp trào lệ.

Nhịn ăn nuôi chồng. Các chị đều gầy mòn, ốm yếu. Giỏ thăm tù nhẹ hều. Vậy mà hai chị, chả hiểu sức ở đâu ra, vẫn đang mạnh mẽ dán người vào lưới sắt, như muốn phá tung rào chắn để nhào vào vòng tay thân yêu.

* Việc viết trước và sau 75:

Nhã Ca nói với Tina Hà Giang (“Nhã Ca, O Xưa và một buổi tối tràn đầy ký ức”), BBC News, 19/2/2023:

– “Khác nhau nhiều lắm. Trước 75, tôi viết sách, sáng tác thơ, có khi làm báo nữa. Sau 75, bản thân tôi và chồng bị bỏ tù, mất nhà cửa, xe cộ, tài sản, con cái bị đuổi học vì tội chúng tôi làm báo, viết văn. Viết sao được. Khi ra khỏi tù, bị quản thúc, theo dõi, tôi đã không viết gì. Chỗ ở bị khám xét, một tờ giấy có viết chữ, dù là giấy gói xôi cũng bị lấy đi”. Nhưng tôi vẫn giữ trong lòng, và khi ra hải ngoại, tôi đã viết.

* “Hồi ký của một người mất ngày tháng”:

Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng nhận định: Phải là người có ý chí mạnh mẽ mới có thể đứng vững được trước những sóng gió của cơn hồng thủy 30 Tháng Tư 75 đổ ập xuống Saigon.

Nói về kỷ niệm mà chị nhớ hoài là thời kỳ trong nhà tù nhỏ và nhà tù lớn ở Việt Nam. Nhã Ca kể có lần được theo xe tù đi thăm Nhà Trưng Bày Tội Ác Mỹ ngụy, thấy sách của mình được bày trang trọng bên cạnh Lê Xuyên, Hoàng Anh Tuấn, Trần Việt Sơn…

Ở nước ngoài, Nhã Ca ra mắt sách “Hoa Phượng, Đừng Đổ Nữa” kể lại câu chuyện của một nhóm bạn nữ sinh Trưng Vương khi Saigon đã mất tên.

Bà nói: Sau Tháng Tư 75, cộng sản biến cả nước thành nhà tù. Thành phố, đường sá bị đổi tên. Nhà nhà bị cướp bóc. Người người bị đày ải. Ngày ngày, tài sản của Saigon bị ăn cướp, đêm đêm cư dân bị đẩy lên xe bít bùng đưa vào rừng sâu. Nhà báo, nhà giáo, nhà văn, nhà thơ và nhà nghệ sĩ Saigon, hàng loạt bị bắt vào nhà tù.

Lấy nhiều bút hiệu: Hoàng Hải Thủy, Công Tử Hà Đông, Con Trai Bà Cả Đọi…

Sang Mỹ năm 1994 theo diện tù chính trị.

“Viết để sống và sống để viết” suốt 66 năm trời, từ 1951 đến 2017.

Sáng tác nhiều thể loại: truyện, làm báo, dịch sách, hồi ký, tạp ghi…

Được coi là ngòi bút phóng tác và phiếm luận hàng đầu của Việt Nam.

* Trước 54: đi lính với cấp bậc trung sĩ, coi tù ở Phú Quốc. Từng viết thư giùm một tù binh cộng sản gởi vào đất liền cho vợ. Hơn 20 năm sau, anh này về làm chủ nhiệm báo Giải Phóng. Gặp lại Thủy, anh bảo chôn hết tên Hoàng Hải Thủy đi rồi viết cho cách mạng.

– Bút hiệu gắn liền với đời sống của tôi. Hoặc tôi viết ký Hoàng Hải Thủy hoặc tôi không bao giờ viết nữa.

Đó là câu trả lời quyết liệt của Thủy trong bữa tiệc rượu tái ngộ cố nhân.

* “Nhớ Về Nhà Văn Hoàng Hải Thủy”, Nguyễn Văn Tới, Gia Đình Khóa 1 Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Học Viện CSQG:

Từng ở tù và là học trò Anh Văn của Thủy tại Chí Hòa: “Sống gần Bố Thủy mới biết Ông là người dễ mến, dễ gần, thẳng tính, vui vẻ, hòa đồng, không kênh kiệu, không nói xấu ai, sống rất chân thật với mọi người và có bản chất một văn nghệ sĩ chân chính, giữ được khí tiết của người viết văn”.

* Trả lời nhà báo ETC (Etcetera), Việt weekly, 30/9/2005:

– Qua tới Mỹ Ông còn kiêng kỵ gì nữa không?

– Không, không kiêng kỵ gì cả. Tôi muốn viết gì cũng được. Tất nhiên là viết theo lẽ phải. Đã tới đây, tôi còn sợ gì nữa. Tôi viết văn thơ, phê bình những chuyện chướng tai gai mắt, chỉ trích bất cứ ai ca tụng cộng sản hay đòi bỏ qua tội ác của chúng hoặc về cọng tác với họ. Theo tôi, chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ. Ở nước ta, bọn cộng sản không còn là cộng sản nữa, nhưng tôi vẫn gọi là cộng sản vì họ cứ giữ nguyên những sự ác ôn, ngu xuẩn, bạo tàn…Trước sau, cộng sản vẫn là chế độ xấu, phải chống đến cùng.

* Ông chống Cộng để làm gì?

Lê Thị Huệ, chủ bút Gió O blog đưa ra câu hỏi:

– Hoàng Hải Thủy là nhà văn đắt giá. Ông đã từng và đang là nhà văn mà các báo Việt Nam lấy làm may mắn khi Ông nhận lời gởi bài. Lý do là Ông có nhiều độc giả. Họ phải trả nhuận bút thì mới có bài của Ông. Bây giờ ở trên blog Hoàng Hải Thủy.wordpress, Ông chống Cộng và chống nhiều thứ kịch liệt. Ông nghĩ gì khi làm những chuyện như thế ở thời điểm này? Để làm gì?

– Vì tôi thấy mình có bổn phận phải làm những việc đó.

* Thương Nhớ Saigon:

Trong bài “Nhà Văn Hoàng Hải Thủy Vĩnh biệt Rừng Phong” (Việt Báo, 8/12/2020), tác giá Vương Trùng Dương thuật lại: Ngày mới đến Mỹ, Hoàng Hải Thủy nói: “Tôi mang Saigon trong trái tim tôi”. Tôi muốn nói tôi yêu Saigon. Tôi sống đến 40 năm trong lòng thành phố Saigon thương yêu. Tôi đã vui buồn, đau khổ với Saigon.

Đi xa, Ông viết nhiều bài nói lên nỗi nhớ Saigon da diết, nhớ Saigon hơn Hà Nội vì nơi đó đã tạo nên sự nghiệp cầm bút của Ông và nhớ cả tháng ngày đen tối nhất cuộc đời qua 8 năm tù tội. Ông nhớ thương Saigon đến vỡ tim, xé gan, cháy lòng, đứt ruột như nhớ thương người đàn bà mình yêu và từng sống hạnh phúc bên nàng mà nay phải xa cách.

* “Người Tù Trí Siêu Lê Mạnh Thát”, Hoàng Hải Thủy, 28/2/2008:

Tháng ba năm 1984, anh Cao Hữu Đính, nguyên là Tổng Thư Ký Liên Ban Tôn Giáo chống độc tài Ngô Đình Diệm có cho tôi biết:

– Lại có chiến dịch khủng bố Phật Giáo đồ, Tuệ Sĩ, Trí Siêu bị bắt hôm qua.

Buổi sáng Hòa Thượng Trí Thủ được mời tới trụ sở Mặt Trận Tổ Quốc. Tại đây, Hòa Thượng được cho nghe cuộn băng ghi tiếng nói của một tăng sinh can tội phản động, cung khai Tuệ Sĩ, Trí Siêu là những người trong ban lãnh đạo tổ chức.

Khi trở về chùa, hay tin Tuệ Sĩ, Trí Siêu bị bắt, Ngài ứa nước mắt. Khoảng 7 ngày sau thì đột ngột tạ thế.

Tháng 2/84, một tối lúc 11 giờ đêm, đang luay huay rị mọ chiếc radio cũ rích thì tình cờ tôi bắt được bản tin: “Các văn nghệ sĩ Quốc Gia VNCH có cái tội là không tích cực chống Cộng, nhưng sau 1975 họ có cái hay là không người nào cọng tác với cộng sản. Trong năm 1983, chúng ta đã được đọc văn thơ chống Cộng của Hoàng Hải Thủy, Hoàng Cầm, Nguyễn Chí Thiện”.

Tôi bồi hồi xúc động với những cảm giác vui, lo, kiêu hãnh, sợ hãi lẫn lộn. Tôi được kể tên trước Hoàng Cầm, nhà thơ mà tôi ái mộ. Hết giờ phát thanh, tôi tức tốc xuống gác, nói với vợ tôi:

– Em nghe rõ tên anh chứ? Chắc chúng nó sẽ bắt anh thôi, chúng không để yên anh đâu.

Một buổi sáng, anh Nguyễn Văn Đạt, nguyên Trung Tá Tỉnh Trưởng Bình Định đến cho hay, anh nghe đài và biết tôi sắp bị bắt. Dừng chiếc xe đạp bên cửa, anh nói lời từ biệt với vợ tôi:

– Chị đừng buồn. Làm vợ một người chồng có tài, chị phái chịu cái tai của anh ấy.

Hai giờ sáng rạng ngày 2/5/1984, công an thành Hồ đem xe bông rước tôi vào Phan Đăng Lưu. Một năm sau thì chuyển qua Chí Hòa cùng nhóm Biệt Kích Cầm Bút, rồi gặp và trở thành bạn tù thân nhất của Trí Siêu, người từng tốt nghiệp Y Khoa ở Mỹ. Anh về nước năm 1974, tu trong chùa Già Lam cho đến tháng 3/84 thì bị bắt, bị kết án tử hình cùng với Thầy Tuệ Sĩ. Đây là cộng sản đã tính trước. Họ biết rằng thế nào hàng giáo sĩ và tín đồ cũng lên tiếng phản đổi, nên họ chơi đòn “giơ cao, đánh khẽ”. Cứ tuyên thật nặng, đợi xin khoan hồng là sẽ hạ giảm thời hạn. Như vậy họ có cái lợi, vừa nhân đạo, vừa giáng được những cái án nặng lên đầu hai can phạm.

Quả vậy, vụ Già Lam mau chóng đưa ra xét xử lại chỉ sau hơn một tháng. Hai Thầy được giảm xuống 20 năm tù.

Tới 1988 tôi chuyển lên Z30A. Một năm sau hết án. Ngày ra về có Trí Siêu tiễn chân sau 5 năm chung sống.

Tốt nghiệp Kỹ Sư Không Lưu Khí Tượng, Pháp.

Cao Học Khí Tượng Học, Mỹ

Nổi tiếng từ những bài thơ tình lãng mạn sáng tác khi du học. Nghe Cung Trầm Tưởng là nhiều người nhớ đến Mùa Thu Paris, Lên Xe Tiễn Em Đi, Chưa Bao Giờ Buồn Thế, Trời Mùa Đông Paris, Suốt Đời Làm Chia Ly…

Trung Tá Không Quân. Lao tù 10 năm, thêm 3 năm quản chế.

* Làm Thơ vì Căm Phẩn: những ngày biệt giam trong conex, Ông tự ví mình như con thú bị vây hãm bởi lũ thợ săn hung ác:

Dù bị đe dọa trước sự chết chóc, cộng sản cấm, Ông vẫn viết:

Ở tù không có giấy bút, nhưng Ông vẫn làm thơ, đọc cùng bạn bè nghe, nhờ họ ghi nhớ trong đầu để sau này ra tù phổ biến cho đời.

Họ Cung là biểu tượng của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn đau thương nhất, nỗi oan khiên không bao giờ xoá nhoà khỏi tâm khảm người Việt. Chiến Sĩ văn hóa Cung Trầm Tưởng hy sinh gần hết cuộc đời để viết lên dòng sử thi, lưu lại cho thế hệ hậu sinh những chứng tích hùng hồn về lịch sử Việt Nam trong giai đoạn khốn cùng, đó là bản cáo trạng trung thực nhất về chế độ cộng sản.

* Thơ phản kháng giải trừ tuyệt vọng: Những dòng thơ phản kháng quyết liệt của Cung mà Giáo Sư Nguyễn Ngọc Diễm và đồng đội gọi là nộ thi:

Nhà Thơ chia sẻ nỗi thống khổ của đồng bào:

Trong bài “Bảy bước chân Cung Trầm Tưởng qua Một Hành Trình Thơ” (Dương Hoàng Mai, 20/10/2013, tiengquehuong), tác giả bày tỏ niềm kinh ngạc: “Người ta phải rùng mình khi nghĩ đến thân phận chàng lãng tử hào hoa đang ở nơi đầy ánh sáng văn minh của kinh thành Paris hoa lệ, bỗng chốc phải rơi vào thời vượn cổ hoang sơ, man rợ đến mức lý trí và sức sống con người có thể bị bóp chết uất nghẹn.

Nhưng kỳ diệu thay, ở nơi đó tâm hồn thi sĩ lại bừng sáng như ngọn lửa luyện ngục”.

Bắc Đẩu Võ Ý, người bạn trải qua bao trại tù với thi nhân đã nói: liều thuốc cần thiết giúp chúng tôi vượt qua tuyệt vọng chính là vần thơ phản kháng của Cung Trầm Tưởng.

* Bài Ca Níu Quan Tài:

Theo Trung Tá Võ Ý (“Cung Trầm Tưởng: Một Hành Trình Thơ 1948 – 2008”, nguoiviet.com): “Năm 1985 khi vừa ra khỏi tù, Cung Trầm Tưởng âm thầm viết “Bài Ca Níu Quan Tài” rồi cất giấu tại tầng 3 chung cư ngay trung tâm Saigon.

Thiếu Tá Lâm Tùng Nguyên, Trưởng Phòng Quân Báo Sư Đoàn 4 Không Quân đã nhận lời học thuộc lòng cả ngàn câu thơ trong vòng một tháng trước khi gia đình anh qua Mỹ theo diện ODP. Bài Ca Níu Quan Tài xuất bản tại Mỹ năm 1989.

Theo Võ Ý, Thơ Tù của Họ Cung, di sản văn hóa dân tộc được đồng đội cưu mang trong tình nghĩa như thế. Đủ thấy ý chí bất khuất của người lính Cọng Hòa. Tinh thần anh dũng vô biên ấy được Nhà Thơ biểu tượng qua hình ảnh cây Vầu, loại cây cùng họ tre trúc, đứng thẳng trên triền dốc núi cao, bất kể mưa nắng dãi dầu, vẫn đong đầy khí phách hiên ngang như chiến sĩ miền Nam trước kẻ thù gian ác:

* Hình Ảnh Nhà Thơ Trong Tù: xin lắng nghe Cung Trầm Tưởng vẽ ra vóc dáng tàn tạ của Ông cũng như bạn tù ở Hoàng Liên Sơn:

Hoạt động âm nhạc ròng rã hơn 60 năm. Một trong 3 thành viên của Nhóm Lê Minh Bằng.

Sáng tác gần 100 ca khúc. Cọng thêm chừng 60 bài hát viết chung với một số nhạc sĩ khác.

Vượt biên nhiều lần thất bại. Bị bắt giam. Sau cùng cũng tới được Canada. Chủ Nhiệm Nguyệt san Nghệ Thuật, Giám Đốc Đài Phát Thanh Tiếng Nói Việt Nam tại Montreal.

Mang nặng nỗi sầu không nguôi khi mất Minh Kỳ và xa Anh Bằng. Cõi lòng buồn đau cho cả dân tộc bất hạnh.

* Nhận Xét Về Nền Âm Nhạc Việt Nam trước và sau 1975:

Năm 2015, Nhà Văn Điệp Mỹ Linh thực hiện cuộc phỏng vấn với Lê Dinh:

Xin Anh cho biết về những sáng tác của Anh sau năm 75:

– Từ ngày cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, tôi ngưng viết nhạc ra giấy, nhưng có nẩy nở ý tưởng và sáng tác trong trí vài ca khúc, mở đầu cho Mười Bài Hận Ca. Đến 1978, vượt biên tới Đài Loan thì hoàn tất, trong đó có vài bài được thu thanh.

Anh nghĩ thế nào về nền âm nhạc Việt Nam?

– “Từ 1954 đến 75, nền âm nhạc phát triển mạnh ở miền Nam tự do phóng khoáng và một nửa bị chôn vùi trong chốn ngục tù miền Bắc. Rất đông nhạc sĩ ngoài Bắc di cư vào Nam, kết hợp với số nhạc sĩ trong đó, tao thành lực lượng sáng tác vững chải, nhân bản và lãng mạn nhất.

Trong khi đó miền Bắc với chính sách bịt miệng và láo khoét, cho nên các nhạc sĩ viết toàn những bài đề cao cộng sản và ca tụng bác Hồ một cách gàn dỡ, vô duyên, lố bịch, bưng bô…, không thể lọt tai thính giả được.

Từ 75 đến nay, nền âm nhạc của cả nước là một sự tuột dốc thảm hại. Nhiều bài ca quá buồn cười, giống như lời đối thoại trong vở tuồng cải lương rạp hát, như bài Chồng Xa do Cẩm Ly hát: “Dậy đi mua đồ nấu canh chua về cho ba mày bữa cơm trưa”.

Trong khi đó nhạc miền Nam trước 75 nhiều bài sao nghe mà tha thiết quá, du dương, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thương. Dù cho cả đời hay 100 năm cũng khó quên.

Ca sĩ trong nước hát nhạc xã hội chủ nghĩa, một số đông chỉ biết la hét toáng lên, khiến người nghe không hiểu họ hát gì. Họ hay uốn éo chữ cuối câu hoặc giữa câu nghe rất khó chịu. Việc “láy” này người viết nhạc chỉ dùng khi thật cần thiết thôi. Nếu tác giả không để thêm nốt láy thì ca sĩ đừng nên tự động uốn éo, ỏng ẹo. Lả lướt như vậy không đúng chỗ, nghe không được.

Lý do ca sĩ trong nước bây giờ hát khó nghe vì cách viết lời ca của đa số nhạc sĩ “lớp ba trường làng”. Chỗ nốt cao thì để chữ dấu huyền hay dấu hỏi, còn chỗ nốt thấp thì để dấu sắc hay dấu ngã. Viết lời như thế thì chỉ có “giết” ca sĩ, bởi họ không thể nào truyền đạt cho thính giả hiểu mình hát cái gì.

Chính vì vậy mà nhạc miền Nam dù cộng sản cố tiêu diệt, nhưng vẫn tồn tại và ngày càng được ưa chuộng ở khắp mọi nơi: trong nhà ra quán cà phê, đường phố công viên, đại nhạc hội…

Thời VNCH, nhạc sĩ viết ca khúc nhạc ra nhạc, lời ra lời, âm điệu bài hát nghe như tiếng suối reo, như tiếng sáo diều êm ái, diễn đạt được tâm trạng của nhạc sĩ. Lời ca bóng bẫy, trau chuốt, không dùng sáo ngữ và không nghịch với nốt nhạc, cho nên ca sĩ dễ hát, dễ diễn tả.

Trong khi đó, đa số những bài hát bây giờ, nhạc thì đâm lên đâm xuống vô trật tự, không căn bản, như lấy vật gì nhọn chích vào tai chúng ta, nhạc mà thiếu hẳn tiết tấu của một dòng nhạc, không theo luật lệ sáng tác”.

* Vài bài viết của Lê Dinh:

Việt Cộng (10/1/2012):

Hai tiếng này, cho đến ngày nay, nó trở thành thuật ngữ xấu xa, kinh tởm nhất trong số những danh từ để ám chỉ hạng người mà ai ai cũng oán ghét, hận thù và muốn xa lánh.

Trước 75, ở thôn quê miền Nam, khi nghe “Việt Cộng về” hay “Mấy ông về” là bà con gồng gánh, già trẻ lớn bé chạy trối chết về phía thành phố để trốn lánh Việt cộng.

Chắc chẳng mấy ai quên Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, trước làn sóng xâm lăng của cộng sản, hàng trăm ngàn đồng bào Huế, Quảng Trị liều mạng bán sống bán chết rời bỏ nhà cửa ruộng vườn để vào Đà Nẵng tìm nơi tạm trú an toàn dưới sự chăm sóc bảo vệ của chính quyền miền Nam.

Phải Lên Tiếng, Đừng Im Tiếng:

Lê Dinh không chấp nhận thái độ của những người hay mượn câu “Nghĩa tử là nghĩa tận” để đừng nhắc nhỡ nói gì về Nguyễn Cao Kỳ nữa, dành cho lịch sử phán xét. Nhạc Sĩ nêu câu hỏi: Lịch sử là ai vậy? Chừng nào phán xét? Tại sao xã hội không phán xét bây giờ để lấy đó làm bài học dạy cho con cháu chúng ta cách sống ở đời, ăn ở cư xử với nhau sao cho phải phép, không đàng điếm, lừa thầy phản bạn, không khiếp nhược bợ đỡ kẻ thù, không hèn hạ tìm miếng đỉnh chung.

Sáng tác hơn 100 nhạc phẩm.

Nổi tiếng nhất là Chiều Mưa Biên Giới. Quái Kiệt Trần Văn Trạch đã trình diễn ở Pháp rất thành công, đưa tên tuổi Nguyễn Văn Đông vang danh.

* Đời Sống Sau 75: Là sĩ quan cao cấp, Ông phải ở tù 10 năm. Đến 1985 được trả về với lý do: “đương sự bị bệnh sắp chết, cho đem về chôn cất”.

Trở lại nhà, thân xác Ông quá tàn tạ, không khác chi một phế nhân, chỉ còn là bộ xương thoi thóp. Trong tình cảnh thê lương đó, ắt hẳn là khó thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Vì vậy mà Ông và gia đình đành đoạn xin rút lại hồ sơ đi diện H.O. Ông cho biết là không muốn cúi mình xin xỏ, năn nỉ, ỉ ôi, đi lên đi xuống, rồi nghe hạch hỏi tra vấn, làm mất hết khí phách của người sĩ quan quân lực Cọng Hòa.

Cũng không ai ngờ được Ông còn sống thêm hơn 30 năm nữa. Nhiều người cho rằng chính nhờ sự tận tụy chăm sóc hết tình hết nghĩa của Bà Vợ mà Ông chiến thắng tất cả những căn bệnh quái ác thập tử nhất sinh.

Là mẫu người cương trực tiết tháo, luôn giữ tư cách, sĩ diện và chính khí của anh lính VNCH. Hơn thế nữa, Ông còn là nhạc sĩ tài hoa được hằng triệu người ái mộ tôn vinh. Từ cái tâm niệm thanh cao ấy mà suốt mấy chục năm Ông không mảy may trở lại với hoạt động nghệ thuật, sống lặng lẽ, không hội họp hay hợp tác với Việt cộng, viện cớ sức khỏe yếu. Cho nên bị xếp vào thành phần thiếu thiện chí hay hạng người lạc lõng.

Ông cũng từ chổi sinh hoạt văn nghệ với Phạm Duy khi nhạc sĩ này mới về nước. Khước từ lời mời phát biểu trên đài truyền hình của chính quyền.

* “Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông – Những Gì Còn Lại”, Tuấn Khanh, Người Việt News, 26/2/2024:

Ngày 2/3/2018 tại Saigon, đám tang nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông xuất hiện cảnh tượng đầy xúc động. Khi lễ di quan diễn ra, nhiều người đàn ông mặc thường phục, không ai bảo ai, bất ngờ đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Động tác rất quen thuộc khiến đám người xa lạ xích lại gần nhau. Có những chế độ đã mất nhưng lòng người vẫn mãi hoài niệm tiếc thương.

Thấp thoáng trong những hàng người, đâu đây nhiều khuôn mặt nghiêm trang, lặng lẽ đưa tay chào, không cần hiệu lệnh, hầu hết họ là cựu quân nhân đến tiễn biệt Ngài Đại Tá Chánh Văn Phòng của Tổng Tham Mưu Phó quân lực VNCH về nơi an nghỉ cuối cùng.

Vài ngày sau đám tang, nhiều tờ báo bị khiển trách vì đã có lời lẽ trân trọng thái quá với một “sĩ quan ngụy”.

Nhà văn Hà Thúc Sinh cho hay: Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông mang bệnh ghẻ nhầy nhụa, cả mảng lưng lở loét. Thêm nữa, nhiều căn chứng hành hạ liên tục: bao tử, thấp khớp, huyết áp…Bạn tù khiêng Ông ra hố nước để tắm rửa. Ông nằm sấp trên mặt đất, không còn đứng nổi, cố múc nước rồi quơ quào một mình.

Nhà văn Chu Tất Tiến kể lại: Trong tù, anh Đông nằm trên miếng ván nhỏ gắn bánh xe do bạn tù làm cho, để anh lấy tay đẩy ván trôi đi, y như người què cụt sắp chết.

Vào lúc thập tử nhất sinh, anh em phụ nhau đưa lên trạm xá, được ít bữa thì y tá đuổi về vì không có thuốc chữa trị, với thâm ý là lỡ chết cũng khỏi mang trách nhiệm.

* “Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông và Những Điều Chưa Nói Hết”, Trịnh Thanh Thủy, Việt Báo, 2/3/2018:

Tác giả kể lại cuộc gặp gỡ trò chuyện với nhạc sĩ vào tháng 12/2011:

“Nhà Ông nho nhỏ trên đường Nguyễn Trọng Tuyển, Phú Nhuận, có chiếc xe bánh mì giò chả do phu nhân Nguyệt Thu đứng bán. Bây giờ căn nhà đã thành tiệm thực phẩm và bánh mì Nhiên Hương khang trang hơn trước.

Dạo đó, nhạc sĩ nhấn mạnh rằng, sau 36 năm, đây là lần đầu tiên Ông tiếp người lạ. Từ 30/4/75, Ông không tiếp xúc ai hết, kể cả giới truyền thông, báo chí, nghệ sĩ, ca sĩ ngày xưa từng quen biết hay khán thính giả ái mộ và thương mến Ông. Nhờ có sự giới thiệu của Cô Bích Huyền, Ông mới tiếp tôi. Ông có nói thêm rằng sở dĩ không tiếp xúc hay cho ai phỏng vấn vì e ngại, dè dặt trong việc tiếp cận và Ông muốn sống yên thân, đừng ai nói hoặc nhắc tới Ông nữa. Ông sợ sự liên hệ hoặc tin đồn không đúng lan rộng, làm bất lợi cho Ông, để tránh những rắc rối phiền phức sau này, gây lôi thôi trong cuộc sống hằng ngày.

Về đến Mỹ, tôi bắt đầu viết thì Ông gởi điện thư, bảo thôi đừng viết vì Ông muốn mọi người quên Ông đi, Ông không tha thiết gì nữa, nên đừng nhắc đến tên Ông.

Tuân theo ý nguyện đó, tôi xếp lại và thầm cảm thương cho người nhạc sĩ tài hoa chịu điều bất hạnh.

Có lẽ Ông nghĩ đúng, biết đâu những hệ lụy của cái tài danh sẽ mang đến cho Ông nhiều thảm hoạ hơn là thứ tiếng tăm hư ảo của người đời”.

Người cao, lưng hơi khòm, cận thị nặng, lãng tai, hen suyễn…

Vào cuối thập niên 1950, lên Saigon học lớp nhạc của Trịnh Hưng, cùng với Thanh Thúy, Đỗ Lễ.

Sáng tác chừng 50 bài, hầu hết đều rất thành công. Được mệnh danh là “Ông Hoàng” của dòng nhạc Bolero.

* Mối Tình Đơn Phương của Trúc Phương (“Danh Ca Thanh Thúy và Những Mối Tình Đơn Phương”, Trúc Giang, thanhthuy.me, 2/1/2021):

Trúc Phương yêu Thanh Thúy bằng mối tình trọn vẹn, nhưng hai người có duyên mà không có nợ.

Thanh Thúy viết: Đường đời chia chúng tôi làm hai ngã. Anh và tôi không hẹn nhưng gặp nhau trên con đường sống cho kiếp tằm nhả tơ. Anh trút tâm sự qua cung đàn, còn tôi, qua tiếng hát. Trong thập niên 60, tên tuổi anh và tôi gắn liền nhau: Nhạc Trúc Phương – Tiếng Hát Thanh Thúy.

Tâm trạng, nỗi lòng của người mang tình yêu đơn phương bàng bạc vang vọng qua nhiều bản nhạc phảng phất bóng dáng Thanh Thúy. Với Trúc Phương, duyên nợ bẽ bàng, nhưng mối giao cảm vẫn còn cao đẹp. Hình ảnh Thanh Thúy ấp ủ trọn vẹn trong tim Trúc Phương.

Thanh Thúy nói thêm: Như một định mệnh, tôi vào đời ca hát đúng vào thời điểm anh say mê sáng tác và tình cờ tôi trở thành sứ giả đem tâm sự của anh đến mọi người.

Từ khi nhạc phẩm “Nửa Đêm Ngoài Phố” ra đời, tên tuổi của anh vang danh khắp nơi. Với thể điệu Rumba quen thuộc, thể hiện nỗi buồn khôn nguôi của một lữ khách đa tình, cứ mãi đi tìm một người không hẹn đến.

Xin hãy cho tâm hồn mình lắng đọng cùng tác giả:

* Vượt Biên:

Sau 75, Trúc Phương vượt biên 3 lần nhưng đều bất thành. Nhà cửa bị tịch thu, gia đình ly tán, chẳng còn tài sản gì. Trở thành trắng tay, tù tội, mang nhiều chứng bệnh không tiền chữa trị.

Nhạc sĩ kể trên Asia 55 về tình cảnh những ngày bi thảm:

Sau biển cố đổi đời, tôi sống cái kiểu rày đây mai đó, “bèo dạt hoa trôi”. Nếu mà nói đói thì cũng không đói ngày nào, nhưng nói no thì chẳng ngày nào gọi là no. Tôi không có một mái nhà, vợ con thì cũng tan nát rồi. Tôi sống nhờ bạn bè. Nhưng khốn nỗi, hoàn cảnh của họ cũng bi đát, khổ cực, không ai đùm bọc ai được… Hơn nữa vấn đề an ninh lúc đó rất khe khắt, không ai dám chứa chấp vì tôi không có giấy tờ gì trong người. Tôi nghĩ ra được một cách là tìm nơi nào có khách vãng lai rồi chui vào đó ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ.

Ban ngày lê la thành phố, đêm ra xa cảng miền Tây thuê chiếc chiếu 1 đồng. Suốt năm tôi ngủ ở đó hết 9 tháng. Khổ lắm. Hôm nào có tiền đi xe lam ra sớm, khoảng chừng 5 giờ, thuê chiếc chiếu trải được ở chỗ lịch sự, tương đối vệ sinh một chút. Còn bữa nào ra trễ thì họ chiếm hết những chỗ sạch sẽ mất rồi, tôi đành ngủ gần nơi “có những thằng cha đi tiểu vỉa hè”.

Nghe câu chuyện quá bi đát của Trúc Phương, nhiều bạn bè nghệ sĩ đã mau chóng gởi tiền bạc về giúp Ông trong cơn hoạn nạn.

Nhưng rồi cuối cùng Trúc Phương cũng đành rủ áo ra đi, giã từ cuộc đời trần ai gió bụi, để lại tiếc thương ngậm ngùi cho nhiều người. Ở nơi xa xôi nào đó tận trời Tây, Thanh Thúy nghẹn ngào gởi tới người bạn văn nghệ thâm giao những lời lẽ chân thành:

* Kỷ Niệm với Trúc Phương: Lê Nguyên, sinh viên Đại Học Mỹ Thuật Saigon kể lại: Vào năm 1988, tôi đi vẽ trang trí cho Nhà Hàng Đại Dương, gần Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế Kỳ Đồng.

Trúc Phương quen anh Chín Củi, thầu khoán, người cưu mang Nhạc sĩ trong thời gian này. Chỗ đó có quán cơm bụi giá rẻ. Một chiều thứ bảy, cả bọn tôi được anh dẫn ra ăn cơm bình dân và lai rai rượu thuốc. Nhạc sĩ cũng góp mặt.

Bất chợt có 2 gã hành khất, một cụt chân, một mù cả đôi mắt, đội mưa bước vào. Một người đàn guitar thùng, người kia hát “Mưa Nửa Đêm”.

Lúc đó ánh mắt Trúc Phương tối sầm lại. Anh lẩm nhẩm: “Nhạc của mình biến thành nhạc ăn mày rồi”.

Anh Chín liền đứng dậy kéo tay 2 người hành khất:

– Lại đây mấy chú em, ngồi xuống cùng ăn cơm, nhâm nhi với chúng tôi cho vui.

Liền đó, Nhạc sĩ buột miệng:

– Hai chú mày có biết đang hát nhạc của ai không?

– Dạ nhạc Trúc Phương

Anh bỗng cười buồn, đôi mắt ngấn lệ:

– Trúc Phương là anh. Chính tác giả đây!

Hai chàng hát rong sửng sốt. Anh cụt chân vội quỳ sụp xuống:

– Ôi em xin bái kiến Đại Huynh. Bao lâu rồi hát nhạc Sư Phụ, mãi đến hôm nay mới được diện kiến bậc nhân tài.

Trúc Phương cầm lấy cây đàn:

– Để anh hát tặng mấy chú ca khúc này nhé!

Đêm chưa ngủ nghe ngoài trời đổ mưa từng hạt rơi

Gác nhỏ đèn le lói bóng dáng in trên tường loang

Anh gác tay tôi để nghe chuyện xưa cũ

Gói trọn trong nỗi nhớ

Tôi muốn hỏi có phải vì đời chưa trọn vòng tay?

Có phải vì tâm tư giấu kín trang thư còn đây?

Nên những khi mưa nửa đêm làm xao xuyến

Giấc ngủ chưa đến tìm…

Anh hát say sưa giữa quán cơm nghèo. Những người lao động hôm đó ngồi lặng lẽ vây quanh anh. Có người giơ tay dụi nước mắt tuôn trào!

Phạm Văn Duyệt