Cộng sản Bắc Việt tạo ra nhiều cơ hội
để chuẩn bị tấn công Pleiku: tụ quân đông hơn và tấn công bất ngờ. Địch
giấu được kế hoạch chuyển quân về Ban Mê Thuột qua nhiều cách: sư đoàn
316 bị cấm liên lạc qua máy truyền tin trong suốt thời gian chuyển quân.
Sư đoàn 320 đánh lừa đối phương bằng cách để ban truyền tin sư đoàn ở
lại Đức Cơ, hy vọng máy bay thám thính của chúng ta ghi nhận sự hiện
diện của sư đoàn ở đó. Tuy nhiên sự đánh lừa này vô ích: máy bay thám
thính của VNCH không bao giờ đi sâu vào tận Đức Cơ để thám thính các mục
tiêu. Sư đoàn F-10 tránh đụng độ với các toán thám sát để bảo toàn mục
tiêu di chuyển. Xe tăng địch di chuyển trong rừng rậm, dọc theo các con
suối để tránh bị phát hiện. Sau cùng, Nghĩa Quân và Địa Phương Quân của
chúng ta ở các tiền đồn không báo cáo hoạt động hay có khả năng chận
đánh khi phát hiện địch. Sai lầm này cho phép địch đem quân sâu vào địa
phận phòng thủ mà quân chủ lực ta không phát hiện được.
Khi tấn công
Ban Mê Thuột vào rạng sáng 10 tháng 3, địch dồn mọi nỗ lực đánh vào bộ
chỉ huy tiểu khu, và bộ chỉ huy tiền phương sư đoàn 23 lúc đó là bộ chỉ
huy đầu nảo của các lực lượng phòng thủ thành phố.
Bị tấn công mãnh
liệt ngay từ phút đầu, bộ chỉ huy tiểu khu không còn kiểm soát và điều
khiển được các lực lượng dưới quyền. Cảnh sát, Nghĩa Quân, Địa Phương
Quân chiến đấu một cách rời rạc và hỗn loạn. Trong tình trạng chiến đấu
như vậy, tiểu khu không thể báo cáo chính xác tình hình của mặt trận về
bộ tư lệnh quân đoàn. Khi trung tâm hành quân tiểu khu bị phá hủy, chỉ
huy trưởng tiểu khu cũng là tỉnh trưởng Ban Mê Thuột sát nhập bộ chỉ huy
của ông vào bộ chỉ huy tiền phương sư đoàn 23. Từ đó các đơn vị dưới
quyền chỉ huy tỉnh coi như tan rã vì không nhận được lệnh trực tiếp từ
tiểu khu.
Tình trạng của bộ tư lệnh sư đoàn 23 cũng tương tự: bị áp
lực mạnh và dồn dập từ phút đầu. Phòng tuyến tử thủ của bộ tư lệnh nằm
trong tình trạng hiểm nghèo khi xe tăng địch bắn trực xạ từ ngoài vòng
rào. Không quân chiến thuật ta bỏ bom yểm trợ hữu hiệu, sát vào phòng
tuyến theo lời yêu cầu của thẩm quyền mặt trận. Nhưng một trái bom rớt
vào phòng truyền tin, cắt đứt mọi liên lạc với mặt trận và quân khu.
Sự
phản công và kế hoạch giải vây của quân ta đã không được thực hiện hữu
hiệu ngay từ phút đầu. Hai trung đoàn 44 và 45/sư đoàn 23 bộ binh được
thả xuống Phước An, dùng nơi đó làm bàn đạp tiến về Ban Mê Thuột. Nhưng
Phước An vào thời điểm đó là một trung tâm tản cư, nơi tìm thân nhân của
tất cả ai chạy thoát từ Ban Mê Thuột. Ở đây, nhiều binh sĩ gặp lại gia
đình đã bỏ đơn vị và lẫn vào lớp thường dân; một số binh sĩ khác đã tự
động rời hàng ngũ đi tìm thân nhân mất tích. Một đạo quân đi giải vây
không thể hoạt động hữu hiệu trong tình trạng như vậy. Bốn ngày sau, sư
đoàn F-10 chiếm được Phước An và hy vọng giải vây Ban Mê Thuột tan vỡ.
Quyết Định Định Mệnh của Tổng Thống Thiệu
Trong
hai tháng đầu tiên năm 1975 một số dân biểu, nghị sĩ Hoa Kỳ đến Việt
Nam quan sát tình hình. Đối diện với tình hình quân sự không được khả
quan và trông chờ sự biểu quyết ngân quỹ phụ trội cho Việt Nam của quốc
hội Hoa Kỳ trong vài tháng tới, chánh phủ VNCH tiếp đón những nhà lập
pháp đồng minh rất ân cần và nhiệt tình. Các dân biểu, nghị sĩ được
khuyến khích đi quan sát tình hình quân sự, kinh tế, chính trị, để họ
thông qua cho VNCH ngân khoản đã yêu cầu. Chánh phủ VNCH chờ đón cuộc
viếng thăm với nhiều hy vọng và lạc quan.
Thượng nghị sĩ Sam Nunn đến
Việt Nam trước, theo sau là dân biểu Paul N. "Pete" McCloskey và nghị
sĩ Dewey Barlett. Tiếp đến là một phái đoàn hỗn hợp lưỡng viện Quốc Hội
Hoa Kỳ. Bộ Tổng Tham Mưu thuyết trình cho những quan khách đầu tiên về
tình hình chung của miền Nam. Trọng tâm của những buổi thuyết trình là
tình trạng kiệt quệ về quân cụ, vũ khí của quân lực VNCH. Các nhà lập
pháp Mỹ được thông báo tình trạng nguy hiểm sẽ xảy ra nếu số ngân khoản
phụ trội 300 triệu mỹ kim không được chấp thuận, và sự nguy hiểm đó xảy
ra như các nhà lập pháp Hoa Kỳ đang chứng kiến. Một số dân biểu nghị sĩ
đến Việt Nam lượt sau không được nghe thuyết trình, nhưng họ có đến BTTM
quan sát số vũ khí tịch thu của CSBV đang được trưng bày ở đó.
Quá
trình hoạt động và quan điểm chính trị của các nhà lập pháp Mỹ viếng
thăm Việt Nam hoàn toàn khác nhau. Có người ủng hộ VNCH; có người chống
đối. Có người đến với một tinh thần cởi mở; có người đến với đầu óc
thiên vị, định kiến có sẵn. Người thì lịch sự, khiêm nhường; một số khác
thiếu sự tế nhị và lễ độ. Phần còn lại thì đến với sự thờ ơ, vô tư về
một cuộc chiến. Nhưng dù có thành kiến hay thái độ nào trong thời gian
có mặt ở Việt Nam, họ được chánh phủ chào đón nhiệt tình. Mọi người được
khuyến khích quan sát, cho phép thăm viếng mọi nơi, tiếp xúc với tất
cả. Họ có quyền đối thoại với bất cứ người nào họ muốn từ một công chức
cho đến những tổ chức, đảng phái đối lập với chính phủ.
Miền Nam, kể
cả những người cộng sản, nghe ngóng và theo dõi cuộc viếng thăm của các
nhà lập pháp Hoa Kỳ từng bước, từng biến chuyển. Nhiều lời đồn lan
truyền từ chuyến viếng thăm đó; hy vọng và thất vọng lên xuống theo từng
giai đoạn, từng thay đổi. Những thành phần chống chánh phủ và muốn thấy
một chánh phủ liên hiệp với cộng sản, hy vọng Hoa Kỳ làm áp lực với
VNCH để chánh phủ nhân nhượng theo ý muốn của họ. Phía ôn hòa thì hy
vọng các nhà lập pháp Mỹ suy xét lại tình hình miền Nam, cung cấp vũ
khí, quân viện, để dân miền Nam tự bảo vệ và chống lại cuộc xâm lăng lộ
liễu của cộng sản miền Bắc. Về phía cộng sản, dĩ nhiên, họ muốn thấy các
nhà lập pháp Mỹ cắt đứt viện trợ để làm tê liệt khả năng chiến đấu của
quân đội VNCH.
Nhưng nói một cách tổng quát, phái đoàn quốc hội Hoa
Kỳ để lại một không khí thất vọng sau khi rời Việt nam. Từ bầu không khí
đó, nhiều lời đồn, tuyên truyền lan ra, làm hại cho tinh thần chiến đấu
của quốc gia. Sau chuyến viếng thăm, giới lãnh đạo của chúng ta nghĩ
dân Hoa Kỳ nhìn VNCH như một chính phủ tham nhũng, đàn áp và độc tài.
Với những khủng hoảng về kinh tế và chính trị nội bộ đang xảy ra trong
lãnh thổ họ, Hoa Kỳ không còn khả năng tiếp tục tham gia vào cuộc
chiến.(6) Vấn đề viện trợ thêm cho Việt Nam không có nhiều hy vọng.
Ngược lại, ngân sách viện trợ có thể bị cắt thêm vì Hoa Kỳ đang chuyển
mục tiêu quân sự, chính trị của họ về các vấn đề ở Trung Đông.(7)
Không
ai thấy rõ vấn đề hơn tổng thống Thiệu. Khi người khách cuối cùng của
quốc hội Hoa Kỳ rời Việt Nam, tổng thống Thiệu biết ngay VNCH không còn
hy vọng gì về khoản tiền 300 triệu quân viện phụ cấp. Tổng thống Thiệu
cũng biết quân viện cho VNCH trong tương lai sẽ ít hơn chứ không thể
nhiều hơn và tổng thống Thiệu dựa nhiều quyết định của ông vào những suy
luận đó: những gì ông ta cương quyết từ chối hành động trong suốt hai
năm qua, bây giờ ông phải làm. Tổng thống Thiệu quyết định tái phối trí
quân đội dựa vào phần đất VNCH có thể bảo vệ được.
Cuộc tấn công của
CSBV vào Ban Mê Thuột và những phản công vô hiệu của quân đoàn II có tác
dụng vào tâm trí của tổng thống Thiệu người duy nhất có quyết định tối
hậu về chiến lược, chiến thuật của cuộc chiến. Khi quân đội đồng minh
rời Việt Nam, quân đội VNCH phải đương đầu với một đối phương đông quân
hơn. Phải phân tán mỏng các lực lượng trừ bị cuối cùng để cố gắng bảo vệ
lãnh thổ, quân đội chúng ta không bao giờ có được ưu điểm về quân số.
Thêm vào đó, những cắt giảm quân viện đã làm suy yếu khả năng chiến đấu
và tinh thần của quân đội ngoài mặt trận một sự kiện mà chúng ta từ chối
chấp nhận. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, phải có sự thay đổi nếu chúng
ta muốn VNCH tồn tại.
Trong vai trò cố vấn quân sự cho tổng thống,
BTTM có lúc nghĩ quân dội VNCH có cơ may nếu lãnh thổ được phòng thủ
tương xứng khả năng.(8) Nhìn từ quan điểm quân sự, lối suy luận của BTTM
không phải hoàn toàn vô lý nhưng đi ngược lại chính sách "bảo vệ lãnh
thổ bằng mọi giá" mà tổng thống Thiệu tuyên bố nhiều lần từ sau hiệp
định Paris 1973. Với tình hình chiến sự nguy ngập chỉ trong vòng hai
tháng, chúng ta mất Phước Long và Ban Mê Thuột và việc gì sẽ xảy ra nữa
đây" Dư vị cay đắng của các nhà lập pháp Mỹ để lại sau chuyến viếng thăm
vẫn còn. Có lẽ trong một phút riêng tư nào đó, tổng thống Thiệu bắt
buộc phải suy nghĩ lại.
Với những quyết định có sẵn, ngày 11 tháng
3-1975 một ngày sau khi Ban Mê Thuột bị tấn công tổng thống Thiệu mời
thủ tướng Trần Thiện Khiêm, cố vấn an ninh quốc gia, trung tướng Đặng
Văn Quang và tác giả đến dinh tổng thống để ăn sáng và bàn luận. Sau khi
bữa ăn được dọn ra và các người hầu rời bàn, tổng thống Thiệu lấy ra
một bản đồ nhỏ và bắt đầu cuộc thảo luận với những tường trình về tình
hình chiến sự mà ba người khách đã hoàn toàn tường tận. Nói xong về tình
hình chiến sự, tổng thống Thiệu đi ngay vào vấn đề với quyết định: "Với
khả năng và lực lượng chúng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể
bảo vệ được tất cả lãnh thổ chúng ta muốn bảo vệ." Như vậy, chúng ta nên
tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những
vùng đất đó mới thật sự quan trọng.
Quyết định của tổng thống Thiệu
cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình
như tổng thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ chỉ thổ
lộ ra cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng. Tổng thống Thiệu phát
họa sơ những vùng ông nghĩ là quan trọng, gồm Vùng III và IV, miền duyên
hải và thềm lục địa. Một vài phần đất quan trọng đang bị cộng sản
chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá. Những vùng đất cần
chiếm lại là nơi đông dân, trù phú và có giá trị về lâm sản, nông sản và
kỹ nghệ, nhất là miền duyên hải, nơi thềm lục địa vừa được khám phá ra
dầu hỏa. Cuối cùng, vùng đất mà chúng ta không thể nào để mất là Saigon,
các tỉnh lân cận, và đồng bằng sông Cửu Long.
Tổng thống Thiệu bình
thản tiếp tục độc thoại về chính trị địa lý của Miền Nam, nhưng khi nói
đến Vùng I và II, ông không tỏ vẻ lạc quan hay tự tin. Chỉ vào vùng cao
nguyên trung phần, tổng thống Thiệu nói Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai
tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại, vì tài nguyên và dân số của Ban Mê
Thuột. Miền duyên hải của vùng II cũng quan trọng với tiềm năng dầu hỏa
chứa đựng ở thềm lục địa. Về Vùng I, ý kiến của tổng thống Thiệu là "giữ
được phần nào thì giữ." Ông phát họa kế hoạch phòng thủ ở Vùng I bằng
những tuyến cắt ngang duyên hải từ bắc xuống nam. Nếu chúng ta có đủ lực
lượng, tổng thống Thiệu nói, chúng ta sẽ giữ đến Huế hay Đà Nẵng. Nếu
không được, chúng ta sẽ tái phối trí quân lại ở Chu Lai, hay thấp hơn là
Tuy Hòa. Kế hoạch này, tổng thống Thiệu nói tiếp, cho chúng ta sắp đặt
lại khả năng để có nhiều hy vọng giữ được những vùng đất quan trọng cho
miền Nam trường tồn như một quốc gia vững mạnh.(9)
Như vậy, chỉ sau
vài lời sơ thảo, tổng thống Thiệu đi đến một quyết định quan trọng. Hậu
quả của quyết định đó như thế nào thì chưa biết được, nhưng nhìn từ quan
điểm quân sự, quyết định của tổng thống Thiệu có nhiều vấn đề. Là cố
vấn quân sự cho tổng thống, tác giả bắt buộc phải có ý kiến về quyết
định của tổng thống Thiệu. Tác giả cho sự tái phối trí là cần thiết và
có ý tưởng đó từ lâu. Nhưng tác giả không tiện nói ra vì hai lý do: một,
đề nghị tái phối trí quân sự đi ngược lại chính sách quốc gia; hai, lời
đề nghị đó có thể bị hiểu lầm là thái độ chủ bại. Tác giả tránh phát
biểu thêm là sự tái phối trí có tầm vóc qui mô như vậy đã quá trễ. Ngoài
ra, tác giả thấy tổng thống Thiệu đã quyết định, nên ông không muốn
nghe thêm những ý kiến ngược lại. Đã là tổng thống, ông Thiệu có thẩm
quyền và trách nhiệm chỉ đạo cuộc chiến: ông phải biết ông đang làm gì.
Dù
quyết định trên là một sự thay đổi toàn diện từ chiến lược "bảo vệ lãnh
thổ bằng mọi giá" đang áp dụng, sang "bảo vệ lãnh thổ theo khả năng",
quyết định của tổng thống Thiệu rất hợp lý trong tình thế đang xảy ra.
Nếu phải chỉ trích quyết định đó, chúng ta chỉ có thể hỏi là tại sao
tổng thống Thiệu phải chờ lâu như vậy để áp dụng kế hoạch tái phối trí.
Chỉ hai năm sau ngày ngưng bắn, tình trạng quân sự phía VNCH xuống dốc
một cách thê thảm. Vào buổi sáng hôm đó, tổng thống Thiệu không giải
thích hay đề cập đến lý do nào đưa ông đến những quyết định ông trình
bày; quyết định của ông hình như phản ảnh những thực tế đang diễn ra. Từ
trước, tổng thống Thiệu hy vọng chúng ta có khả năng bảo vệ những tiền
đồn và địa giới thưa thớt. Và nếu cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp ước
ngưng bắn, Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến và thế giới chắc chắn biết ai là
kẻ gây hấn. Nếu CSBV tiếp tục vi phạm một cách trắng trợn, tổng thống
Thiệu hy vọng vào những hứa hẹn Hoa Kỳ sẽ có lý do trừng phạt Bắc Việt
mạnh mẽ như tổng thống Nixon đã hứa với tổng thống Thiệu.
Trong hai
năm, cộng sản gia tăng vi phạm và cường độ của những vụ vi phạm, để dò
xét thái độ của Hoa Kỳ, coi họ có sẵn sàng trả đũa không. Lúc tổng thống
Nixon chưa từ chức, thỉnh thoảng ông có cảnh giác CSBV về những vi phạm
của họ. Nhưng sau khi tổng thống Nixon từ chức vào ngày 8 tháng 8-1974,
những hứa hẹn "phản ứng mạnh mẽ" của Hoa Kỳ chỉ là những lời hứa suông.
Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào.
Kế tiếp là thái độ bất lợi của phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ trong chuyến
viếng thăm. Từ thái độ đó, VNCH không còn hy vọng nào. Một thực tế gần
như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biểu quyết
viện trợ để VNCH tiếp tục đánh là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa
Kỳ, cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc.
Tổng thống Thiệu không còn một
chọn lựa nào để cứu vãn tình thế trừ quyết định tái phối trí quân đội
như đã nói trên còn nước còn tát. Nhưng quyết định của ông quá trể. Kế
hoạch tái phối trí lẽ ra phải được thực hiện từ giữa năm 1974. Hay ít
nhất phải thực hiện ngay khi tổng thống Nixon từ chức. Là tác giả của kế
hoạch Việt Nam Hóa và Hiệp Định Ba Lê, tổng thống Nixon là người Mỹ duy
nhất có trách nhiệm tâm lý để bảo vệ văn kiện đình chiến. Nixon là
người đáng tin cậy, có can đảm xử dụng những biện pháp mạnh khi cần
thiết. Chậm nhất, kế hoạch tái phối trí quân sự theo khả năng của quân
đội phải được thực hiện ngay lúc đó.
Dĩ nhiên cộng sản sẽ sẵn sàng
tiến chiếm những vùng đất chúng ta không có khả năng bảo vệ. Hai bên sẽ
thương lượng với nhau về một ranh giới mới. Nhưng chúng ta có được ưu
thế trong chiến lược này: lãnh thổ được thu hẹp lại và nội tình an ninh
hơn. Kế hoạch tái phối trí tương tự như một Hiệp Định Geneve 1954 thứ
hai: một ranh tuyến mới, quân đội hai bên tập họp lại vùng riêng biệt
của họ... hai lãnh thổ rõ ràng chứ không là nhiều vùng "da beo" lẫn lộn.
Chiến lược này lý tưởng cho sự tồn tại của VNCH. Nhưng dù ta có theo
chiến lược này, chưa chắc những người cộng sản chấp nhận. Nếu họ đã ký
hiệp định Geneve 1954 rồi, và cho đó là một sự lầm lẫn, thì chắc gì họ
chấp nhận giải pháp này lần nữa" Không thể nào họ hy sinh xương máu
trong 20 năm mà không được gì.
Quyết định tái phối đã quá trể sau khi
Ban Mê Thuột mất. Cộng sản thắng liền hai trận, và sau hai trận, với sự
hao tổn của VNCH, họ có luôn thế thượng phong về quân số. Phía bên ta,
đã trải quân ra quá mỏng, chúng ta không thể nào rút quân một nơi để lấp
vào chỗ khác mà không bị tấn kích và đe dọa bởi số quân đông gấp hai
của địch.
Một vấn nạn khác chúng ta đối diện là thường dân và thân
nhân binh sĩ: di tản hay là không di tản những người này cũng là một yếu
tố thành công hay thất bại trong cuộc chiến. Không nhà lãnh đạo nào với
một lương tâm có thể bỏ dân mình vào tay địch. Trong trường hợp phải
chọn lựa, người lãnh tụ phải hy sinh dân để giữ lấy quân. Nhưng kinh
nghiệm cho thấy người dân miền Nam tránh xa vùng kiểm soát của cộng sản
nếu họ có cơ hội và chọn lựa. Người dân trong nghĩa này cũng là thân
nhân của binh sĩ những người họ chiến đấu để bảo vệ và những người nâng
cao tinh thần họ. Chúng ta không thể tách rời binh sĩ và thân nhân ra.
Tinh thần khắng khít trong truyền thống gia đình Việt Nam khó cho chúng
ta tách họ ra dù trong một thời gian ngắn.
Nghĩ lại việc đã qua, câu
hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối
trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác
giả tin miền Nam có nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí.
Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là kết quả
trực tiếp của kế hoạch tái phối trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân
đội của chúng ta không tan rã nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một
phần của sư đoàn 23BB, nhưng tất cả các đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn.
Dù lấy được Ban Mê Thuột cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước
khi mở một mặt trận mới ở Vùng II. Vùng II vẫn còn sư đoàn 22BB, cộng
thêm một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh, và hai sư đoàn
không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa
khô. Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ cộng sản có thể
thành công, đánh nhanh và chiếm nhiều đất được như họ đã làm ở Vùng I.
Tình hình quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp những khó khăn dai dẳng như
trước khi có quyết định tái phối trí: thiếu thốn về quân viện; không còn
nhân lực để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra quân đội
VNCH sẽ không tan rã nhanh chóng như khi quyết định tái phối trí được
thực hiện.
Đó là cái nhìn về phương diện quân sự trong giai đoạn ngắn
hạn. Sau Ban Mê Thuột tác giả nghĩ CSBV sẽ làm áp lực để có được một
chánh phủ liên hiệp; và tổng thống Thiệu có thể chấp nhận. Nhưng dù
chuyện đó có xảy ra, đó chỉ là một hoàn cảnh hòa hoãn tạm bợ nhất thời:
cộng sản sẽ tiếp tục tìm cách lấy thêm đất qua chiến thắng quân sự để
bắt VNCH nhượng bộ thêm về chính trị. Liệu VNCH có chịu nỗi những áp lực
đó trong một thời gian dài hay không" Tác giả nghĩ câu trả lời sẽ tùy
thuộc vào số quân viện của Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH. Một sự thật không
thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6-1975
nếu không nhận được số quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể
nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu.
(Còn tiếp...)
Chú thích:
6. Biến động chính trị quan trọng nhất
của cuối năm 1974 đầu năm 1975 là sự từ chức của tổng thống Richard
Nixon vào tháng 8-1974. Một năm trước đó, tháng 10-1973, phó tổng thống
Spiro T. Agnew phải từ chức vì tội tham quyền, hối lộ. Nixon chọn Geral
R. Ford, một dân biểu rất uy tín của đảng Cộng Hòa, lên làm phó tổng
thống, và khi Nixon từ chức, Ford lên thay Nixon theo Hiến Pháp Hoa Kỳ.
Năm 1973-1974 nền kinh tế Hoa Kỳ rơi vào tình trạng suy thoái với sự lạm
phát, thất nghiệp gia tăng. Đảng Cộng Hòa và tất cả các chính khách
liên hệ đến Nixon và nền hành chánh của ông đều bị nghi ngờ hay mất tín
nhiệm (chú thích của dịch giả).
7. Như chúng ta đã thấy trong hai năm
1972-1973, Mỹ chuyển hướng ngoại giao với Trung Cộng (và phản bội Đài
Loan), thương lượng về vũ khí nguyên tử (SALT, ICBM) với Nga, và vấn đề
Trung Động qua cuộc chiến tranh Ả Rập-Do Thái vào tháng 9-1972. Với
những biến chuyển đó, Việt Nam và Đông Nam Á không còn là một chú trọng
của Hoa Kỳ (chú thích của dịch giả).
8. Xin đọc Phụ Chú A để hiểu về vai trò của Bộ Tổng Tham Mưu trong cuộc chiến Việt Nam (chú thích của tác giả).
9.
Sau này tác giả mới biết, trước buổi họp ngày 11 tháng 3-1975 tại dinh
Độc Lập, tổng thống Thiệu đã có trong tay 3 đề nghị về việc này: (1) vào
năm 1974, tướng Đồng Văn Khuyên, tham mưu trưởng liên quân kiêm tổng
cục trưởng tổng cục tiếp vận, đệ trình lên tổng thống ý niệm phải thu
hẹp lãnh thổ VNCH thế nào tương xứng với sự cắt giảm viện trợ quân sự
như chúng ta đã thấy. (2) thiếu tướng John Murray thuộc phòng tùy viên
quốc phòng Hoa Kỳ (Defense Attache Office-Vietnam) có cung cấp cho tổng
thống Thiệu qua Tòa Đại Sứ Mỹ một sơ đồ tương tự như Tổng Cục Tiếp Vận
đề nghị. (3) Chuẩn tướng Úc Đại Lợi Ted Sarong cũng đề nghị qua một giới
chức Phủ Tổng Thống một kế hoạch tương tự (chú thích của tác giả).
Nguyễn Kỳ Phong
No comments:
Post a Comment