Tuesday, March 19, 2013

CUỘC GIẢI CỨU 3 BIỆT KÍCH TẠI TAM BIÊN

  Toán 723 Đoàn Công Tác 72
      
Đầu năm 1972
PHD: Đ/u Huỳnh Văn Du – Th/U Trần Mộc Đảnh – Th/s Phạm Minh Mẫn – Hs Trần Phát.
     Thời gian này PD 219 có một biệt đội biệt phái tại doanh trại lực lượng đặc biệt, Trại có tên là C2, đồn trú tại đầu phi trường Pleiku trước chợ Cù hanh. (đến ngày 17-3–1973 đoàn Công Tác 75 mới về nơi này và đổi tên trại là LONG BIÊN)
     Hôm đó  Biệt Đội của PD 219 được lệnh đi rước một toán đến ngày về, cùng thời gian này PD 235 Sơn Dương tại Pleiku, cũng đi thả một toán Lôi Hổ, xuất phát từ trại B.15 KonTum, Biệt Đội 219 bốc một toán ở gần sông MeKong , đã đến ngày về, PD 235 thả một toán 10 dặm phía bắc của Phi trường  La Băng Sút Cam Bốt , trên đường cùng đi
PD 235 bắt đầu thả toán, chiếc thứ nhất xuống trước thả 3 troops (sau này tôi mới được biết là thả 6 troops cho 1 trực thăng, nhưng chiếc đầu chỉ mới nhảy xuống 4 troops, 2 troops còn trên tàu nhưng bị tử thương 1 troop ngay trên phi cơ khi cất cánh lên, địch quân bắn theo tơi tả, chiếc thứ hai không xuống được, nhưng họ cũng không chịu đón 4 troops đang nằm chịu trận tại LZ, rồi một BK bị bắn chết tại LZ là Đào Hồng Thủy thuộc CD2XK )
      Đau long vì các Anh Biệt Kích bị bỏ rơi Đ/u Huỳnh Văn Du vừa bay ngang qua đó la lên “Tại sao các ông không chịu đón người ta về “, Trên Phi Cơ quan sát một Tr/u Lôi Hổ tôi quên mất tên có lẽ là Tr/U Nguyễn Hữu Thọ vì anh phát ra giọng bắc nhưng sau này được biết là Đại úy Lê Đình Vũ, Đ/u Vũ nghe được giọng Anh Du, mới yêu cầu …”Anh Du đó phải không, anh có thể giúp đón mấy thằng em về được không Anh Du “ Anh H.DU đồng ý ngay và nói:” Mẫn chú xem hướng mấy giờ “ Tôi trả lời ngay “ hướng 3 giờ đó anh Du” Anh H.Du lập tức rẽ phải và descends xuống ngay LZ và yêu cầu “Cho yểm trợ đi “,trong lúc này trực thăng vũ trang  yểm trợ bắn chung quanh LZ rất ráo riết, LZ rộng như một sân đá bóng, cây cao cũng khoảng từ 20 mét đến 30 mét, khi chúng tôi xuống đến nửa thân cây, tôi trông thấy 3 biệt kích đứng lên chạy về hướng máy bay, thình lình tôi trông tháy rõ ràng, một biệt kích bị bắn vào đầu gối, chỗ vải từ đầu gối tóe ra, anh ta gục xuống, phi cơ đáp  cách chỗ 3 BK khoảng 20 mét, hai BK chạy thẳng đến Phi cơ nhảy lên ngay còn lại một anh BK bị thương, anh ta không đi được, hai tay nắm từng cọng cỏ kéo lê thân mình trườn tới, tôi có cảm giác như PC trúng đạn nhiều nơi, bên vai tôi cái túi treo bịch gạo xấy P.I.R rung rung vì trúng đạn, bịch gạo sấy Tôi mới vừa đổ nước sôi vào và cũng đã nở …bao bị rách mùi gạo sấy P.I.R bốc lên thơm phưng phức, khi anh BK bi thương chụp được vào Skid, Anh H.Du hỏi Tôi “ rồi chưa Mẫn “, Anh Du vội kéo PC lên, Tôi trả lời anh Du “ chưa, chưa, Anh Du “ Anh Du lại lập tức ấn PC xuống, máy bay trườn tới một chút, Tôi và 2 BK trên máy bay kéo được Anh BK bị thương lên PC, Anh H.Du cất cánh ngay, lúc đó địch quân bắn theo dữ dội, Tôi nghe bụp, bụp, nhiều phát , thấy PC khựng lại , rồi bị mất tua, PC như có cái gì  ghì xuống , rồi lại bốc lên, Anh Du la lên “ chết cha …đứt giây gar rồi “. Thật là may mắn vì trên các loại UH.1 khi tay gar bị đứt nó lập tức trở về ngay hệ thống tự động,  vòng tua tự động tăng lên 6,600 RPM, vì vậy nó ghì lại một cái rồi lại bốc lên, chiếc PC chồm lên chồm xuống nhiều lần như  nhẩy qua nhiều con sóng, lết qua khỏi được ngọn cây về hướng bắc của LZ. Trong lúc này gunner Trần Phát bị thương nơi đùi, chui vào phần mềm không trúng xương,, còn hai BK không bị thương  đang băng bó cho đồng đội bị bắn bể khớp gối. chàng BK bị thương la lên một cách tuyệt vọng và đau đớn “bắn tôi chết đi, đau quá, chịu không nổi “ còn gunner trần Phát thì lết qua chỗ tôi nói “ Em bị thương như vậy Phi Đoàn còn cho Em bay nữa không Thượng sĩ “, Tôi vừa lo lại vừa buồn cười, cái chú này đúng là điếc không sợ súng, anh Du  bỗng la lên “ Chết rồi Mẫn ơi đồng hồ Oil Pressure kìa “ Tôi nhìn lên Instrument panel, trông tháy kim đồng hồ Oil Pressure lúc lắc lên xuống vài cái rồi rớt gục hẳn xuống phía dưới. Trong khi đó nhìn xuống phía dưới PC là sân bay La băng Súit, chiếc Trực Thăng của PD 235 bị bắn thủng bình xăng họ bỏ đó, cánh quạt vẫn còn quay tít, có nghĩa là PC chưa tắt máy, Tôi nhìn chiếc trực thăng mà lòng đau sót, Tôi quay qua hỏi anh DU “còn mấy phút thì về tới Phi trường Lệ Minh Anh Du “, Anh Du trả lời “ khoảng 15 phút “Tôi nói “ Anh có thể ráng bay về được không “ Anh Du nói “ được được “ Khi PC bay về đến Phi Trường  Pleizoreng  Lệ Minh đang Hovering trên Parking  tôi nghe một cái ịch PC tắt máy hoàn toàn và rơi xuống đất, thật may chỉ còn cách một mét trên mặt đất, khi xuống đất tôi nhìn lại chỗ tôi ngồi, mới thất thật rùng rợn, giống như họ làm xiếc phóng dao, đạn ghim đầy trên máy bay, chung quanh người Tôi, tôi suy diễn lại như sau: Khi anh Du xuống địch quân nhắm vào Pilot, mục tiêu quá gần, nhưng khi đó anh Du đáp xuống, đạn trợt về phía Tôi trúng cái mũ lưỡi trai và làm bể bịch gạo sấy treo bên cạnh vai Tôi, thấy trật, địch quân trông thấy tôi mặc áo bay đen rất rõ ràng, chúng chỉnh qua hướng Tôi mà nhắm, thì anh Du lại kéo máy bay lên, lần này lại trật nữa, thùng đạn dưới chân tôi bị nhiều lỗ đạn rất sát nhau, thấy trật chúng lại chỉnh lên, anh Du lại ấn PC xuống và PC lại nhích tới phía trước, thế là địch quân lại bắn trật nữa, bên vai phải tôi PC bị nhiều lỗ đạn, đồng hồ áp lực nhớt bị nhịp từ lúc này, sau đó PC cất cánh chúng bắn với theo làm đứt giây gar .
       Sau khi quan sát chỗ tôi ngồi, Tôi mới phát hiện ra lúc đó, tôi đi lại như đi trên mây…hai chân như có tấm đệm, người cứ lâng lâng như bay bổng, tôi đi lại như bị say gió, Có lẽ đây là biểu hiện của sự sợ hãi chăng ?...
       Nhưng qua trận này, chúng Tôi cảm thấy hãnh diện, vì chúng Tôi đã  cứu được Ba chiến hữu Lôi hổ, thậm chí thay vì bỏ máy bay như PD 235 thì chúng Tôi lại cố gắng đem máy bay về căn cứ an toàn (qua lời kể lại của BK Huỳnh Cẩm Sanh DCT.75 Tôi hiểu được sự việc, thì lúc đó trực thăng của PD 235 không thể xuống được nữa họ không sai trong việc này, trên phi cơ của họ một BK bị bắn chết và một NV phi hành bị thương trực thăng bị thủng bìng xăng lúc viết bài này chính tôi đã hồ đồ không hiểu sự tình mong quý vị 235 bỏ qua.)
         MINH MẪN 219


ĐÀO HỒNG THỦY-NGƯỜI Ở LẠI TAM BIÊN

Sau khi tốt nghiệp khóa Hạ Sỉ Quan Trường Huấn Luyên Đồng Đế ở Nha Trang. Với cấp bậc Trung Sỉ, Đào Hồng Thủy đã chọn đơn vị Nha Kỷ Thuật để phục vụ đời binh nghiệp và được đưa về Đoàn 72 do Cựu Trung Tá Cẩm Ngọc Huân làm Đoàn Trưởng. Đây là thời thời gian Đoàn 72 vừa mới thành lập để chuẩn bị học khóa Chiến Tranh Ngoại Lệ cùng vơí các Đoàn 71, 75. Tất cả các Đoàn đều ở trong khu vực của vòng đai phi trường Nha Trang về hướng đường Phước Hải đi vào. Các Toán trong lúc học Chiến Tranh Ngoại Lệ gồm có 4 Sỉ Quan và 8 nhân viên Hạ Sỉ Quan  không biết TS Đào Hồng Thủy lúc đó đã ở Toán nào. Nhưng sau khi tốt nghiệp khóa Chiến Tranh Ngoại Lệ, không biết vì lý do gì mà Đào Hồng Thủy và một số anh em khác được đưa lên phục vụ ở Chiến Đoàn 2 đóng tại Kontum.  Khi Đoàn 72 được đưa lên Kontum để hành quân nhảy toán thực tập thám sát ở các rừng núi đường mòn HCM,Cao Nguyên và vùng Tam Biên Việt - Miên - Lào. Mổi lần nhận công tác xâm nhập thì các Toán đều được Chiến Đoàn 2 bổ sung thêm 2 ‘ hướng đạo ’ để trợ giúp Toán có kinh nghiệm lúc di chuyển trong đường rừng. Trong một lần công tác nhảy toán vào một vùng ‘ nóng ’ ở Tam Biên, Toán 723 của tôi được Chiến Đoàn 2 bổ sung thêm một Biệt Kích người Thượng và TS Đào Hồng Thủy ( Thủy đã phục vụ tại CD2 như trên đã nói ). Những công tác trong thời gian thực tập nầy thường đi đũ 12 người như quân số của một Toán trong hoạt động Chiến Tranh Ngọai Lệ vậy. Toán chia làm 2 tổ, gồm có bán tổ A do Trưởng Toán là tôi chỉ huy và bán tổ B do Toán Phó ( cựu T/uý Tùng ). Lúc Toán được Trực Thăng đưa vào vùng xâm nhập, máy bay của bán Tổ A luôn bay dẩn đầu để sẳn sàng nhảy xuống bải trước, sau đó máy bay của bán tổ B sẽ xuống sau.   Hôm đó, một buổi sáng nắng ráo bầu trời quang đãng trong không khí lạnh mát của rừng núi Cao Nguyên vào những ngày cận Tết năm 1971. Chiếc máy bay trực thăng bán Tổ A chở tôi cùng các toán viên Trung Sỉ Ngô Quang Đợi, Huỳnh Cẩm Sanh, Huỳnh Thanh Phong, Nguyễn Văn Thoại và Đào Hồng Thủy đang bay bám theo sau chiếc O1 của Tiền Không Sát Đại Uý Lê Đình Vủ dẩn đường vào vùng, và theo sau máy bay của bán Tổ A là trực thăng chở bán Tổ B của T/úy Nguyễn văn Tùng cùng 4 nhân viên của toán và một người Biệt Kích Thượng của Chiến Đoàn 2 đi theo. Kèm hai bên trái phải của 2 máy bay trực thăng chở Toán 723 là 2 chiếc máy bay hỏa lực Cobra, thỉnh thoảng bay lên cao rồi là xuống thấp gần sát các ngọn cây rừng trông thật ngoạn mục. Ngước mặt nhìn lên bầu trời cao xa xa, thấy thêm một trực thăng trống dùng để cấp cứu khi cần. Tôi ngồi thòng 2 chân ra bên ngoài mép trái của trực thăng cùng TS Thủy, còn TS Đợi và Sanh ngồi bên mép phải trực thăng, ngồi giữa máy bay là TS Phong và Thoại. Rừng núi vùng Tam Biên địa thế tương đối bằng bằng nên tầm nhìn con mắt khá xa với cây rừng trùng trùng màu xanh đậm trong buổi sáng trời nắng tốt. Tiếng động cơ kêu ‘ bùm bùm’ của máy bay như nhịp trống quân hành làm quên đi những lo âu hối hộp và làm dịu đi tiếng đập mạnh của con tim của buổi đầu đi nhảy toán. Thỉnh thoảng tôi đưa bàn tay lên túi áo ngực trái sờ nắn viên đá nhỏ mà tôi đã lượm bỏ vào túi trước khi lên máy bay, như một lá bùa hộ mạng và lâm râm “ ANH PHẢI SỐNG “ để đem viên sỏi nhỏ nầy trả lại cho sân bay khi xong công tác. Sau nầy, trong những lần nhảy Toán, tôi âm thầm thường làm vậy như một thói quen để trấn an những lo âu trong những lần công tác nguy hiểm, và tin tưởng “ANH PHẢI SỐNG “ để trở về.   Hơn nửa giờ bay, máy bay chở Toán 723 đã vượt qua những rừng núi bao la trong buổi sáng đẹp trời.Từ hướng xa phía trước gần sát ngọn cây, tôi thấy chiếc O1 như một con bồ câu trắng cô đơn đang bay lượn một vòng quanh vùng đất nhỏ trống trải rồi cất vút bay lên cao bầu trời ra khỏi tầm nhìn của tôi. Tiếp theo 2 chiếc Cobra như 2 cánh én đen lạng xà xuống nơi bải cỏ lau sậy ấy rồi bay lượn lòng vòng quan sát quanh vùng. Người xạ thủ đại liên của trực thăng đưa ngón tay cái ra dấu cho tôi biết máy bay đang vào vùng và chỉ ngón tay về hướng bải đáp khá trống, nơi chiếc O1 của Tiền Không Sát vừa mới bay lên. Từ trên cao tôi thấy bải đáp thưa thớt cỏ lau sậy và bao boc xung quanh là một rừng cây rậm rạp. Mắt đăm đăm nhìn bải đáp càng rỏ dần theo độ bay xuống thấp của chiếc trực thăng, và khi chiếc trực thăng chở bán Tổ A của tôi đang bay là là chầm chậm xuống bải đáp làm cỏ lau sậy nằm rạp xuống như một tấm thảm xanh mịn màng. Với phản ứng tự nhiên, tôi vội vàng vổ vai Thủy nhảy xuống bải cùng lúc. Chưa kịp quan sát thì nghe những tiếng nổ đạn bom, đất cát bắn tóe tung như xé tan màng nhỉ. Ngoái đầu nhìn lui, thấy chiếc máy bay chở bán Tô A đã bị trúng đạn phòng không của địch, đang lắc lư chậm chạp cố bay lên cao với làn khói đen dày đặc kéo theo sau, như hình một con rồng đen lướt trong gío mây.  Còn chiếc trực thăng bán Tổ B của Tùng vội quay hướng bay về phải rồi bốc lên cao lẩn trốn vào các đám mây trắng.  Hai chiếc Cobra bay lạng sát ngọn cây bắn xối xả các tràng đạn đại liên, phóng pháo M79, Rocket xuống các rừng cây quanh bải đáp. Tiếng gầm hú như phong ba bảo táp lướt nhanh của 2 chiếc phản lực cơ A37 nhào xuống lượn lên với những trái bom thả xuống quanh bải tóe lửa khói trong tiếng nổ “ ầm ầm “ như một bản hợp xướng sống động với âm thanh rùng rợn làm người nghe có thể chết giấc cho những ai yếu bóng vía. Trong giây phút đầu xuống bải đáp với lửa đạn bom rơi, tôi vội vàng đảo mắt nhìn xung quanh để tìm kiếm các toán viên. Thủy đang nằm sau bụi cỏ gần bên mé phải của tôi chỉa súng hướng về bìa rừng. Ts. Đợi cách xa tôi chừng 10m về trái, Ts. Sanh cách 5m phía sau lưng tôi, tất cả chỉ có 4 người nhảy xuống bải, còn Phong và Thoại ngồi giữa máy bay nên chưa kịp xuống thì máy bay bị trúng đạn phòng không của địch và cố gắng bay lên cao. Những tiếng đạn bom liên tục nổ từ Cobra và A37 bắn thay nhau yểm trợ, cùng B40 của địch bắn ra hướng Tổ A đang nằm nổ chát tai làm chúng tôi chẳng biết hướng nào có địch. Nằm giữa bải sau các lùm cỏ sậy chẳng có một mô đất che chở thân mình, chúng tôi chỉ biết hướng súng về rừng để mong nhìn thấy địch mà bắn trả lại thôi. Nhìn Sanh bò đến bên trái của tôi rồi vội vàng đưa ống nghe của máy PRC 25 cho tôi. Nhanh tay tôi cầm lấy áp sát vào tai và nghe tiếng hối hả của Liên Toán Trưởng Đ/U Lê Đình Vủ : H.ồ.n.g H.à , Hồng Hà đây là Vương Vủ. Hồng Hà, Hông Hà đây là Vương Vủ anh nghe được trả lời …. Mắt nhìn đăm đăm vào rừng, tay trái cầm ống nghe, tay phải cầm súng với ngón trỏ luôn dán sát cò súng Car 15. Tôi thì thầm: Hồng Hà nghe Vương Vủ 5/5. Tiếng máy khè khè trong ống nghe lại vang: Gia đình Hồng Hà cứ nằm tại bải để Zu Lu xuống cứu. Tôi chưa kịp trả lời lại Đ/U Vủ, thì bất chợt từ hướng rừng trước mặt Đợi và tôi cùng Thủy, nghe tiếng hét la lớn trộn lẩn trong tiếng nổ của súng đạn bom, tiếng được tiếng mất: N.. à..ng S.. ố n , R.. ố ..ng …h .. ế t. ( hàng sống chống chết ). Theo sau những tiếng la hét ‘ hàng sống chống chết ’ với âm giọng như là của người Thượng hay Miên Lào là những tràng đạn AK bắn về hướng chúng tôi. Tiếng đạn nghe ‘x..í..u xíu ’ làm cày xủi đất bụi bay lên quanh mình. Ba họng súng Car 15 của tôi, Đợi và Thủy cùng lúc nhả đạn khi thấy những tên địch từ rừng chạy nhào ra hướng Đợi và chúng tôi đã đốn ngã được 3 tên địch làm mấy tên còn lại phải nằm xuống. Tiếng Đợi nho nhỏ vọng từ xa: Em bị thương rồi anh Hậu ơi. Không chần chừ, như một bản tính tự nhiên tôi đáp lại để Đợi đủ nghe: Cố gắng lên em, anh Hậu không bỏ Đợi đâu. Tôi quay đầu về phải định nói Thủy bắn yểm trợ giúp tôi bò lên chổ Đợi đang nằm để kéo Đợi xuống gần Sanh băng bó vết thương. Tôi thì thầm: Thủy, Thủy. Không nghe tiếng trả lời, thấy Thủy vẩn ngồi yên mình hơi nghiêng, lưng dựa vào chiếc ba lô còn đeo trên vai. Tưởng Thủy không nghe, tôi liền vói tay lắc nhẹ chiếc balô: Thủy ..Thủy. Lần nầy Thủy vẩn im lặng nên tôi mới biết Thủy đã đi vào cõi chết từ lúc nào mà tôi chẳng hay. Thủy chết trong tư thế súng vẩn cầm tay, người hơi nghiêng và lưng tựa vào chiếc ba lô mang đầy gạo sấy 7 ngày ăn, như đang thả hồn ngắm nhìn rừng núi Tam Biên vào một buổi sáng đẹp trời …   Tôi vội vàng lấy súng Thủy ra và đưa Sanh bắn yểm trợ để tôi bò lên kéo Đợi xuống. Vừa bò đến nơi Đợi nằm, thấy cây súng Car 15 bị gãy ngang và máu bên đầu gối chân phải của Đợi đỏ sẩm cùng bụi đất trộn lẫn. Chưa kịp kéo Đơi, tôi nghe tiếng ‘ p..ì..n..h , pình ’ từ hướng sau lưng  Ngoái đầu về sau, tôi thấy một chiếc trực thăng từ trên cao bay chúi mũi xuống vội vàng nơi chúng tôi đang nằm trong tiếng ầm ầm bom đạn bắn thả yểm trợ để cứu chúng tôi.   Tôi và Sanh hối hả xốc Đợi lên sàn máy bay. Chưa kịp leo lên thì máy bay đã từ từ bay lên cao, tôi và Sanh nhanh chân đứng trên càng chân máy bay để bò lên sàn trong khi máy bay từ từ ra khỏi bải. Oái ăm thay ! trong lúc vừa bay lên cao thì người xạ thủ đại liên của trực thăng đã bị trúng đạn bị thương nặng. Từ trên cao của trực thăng, tôi nhìn xác Thủy mờ dần trong tầm mắt, xa dần, xa dần … sau những tảng mây trắng, như màu khăn tang che phủ một vòm trời của rừng núi Tam Biên vào một ngày buồn … Ngồi đánh những dòng chữ nầy để thuật lại giấc ngủ dài của Thủy ở rừng núi Tam Biên, anh Hậu xin hương hồn Thủy hảy cảm thông, thứ tha cho anh Hậu không thể đem xác em về được với gia đình của em. Cầu xin ƠN TRÊN cho Hương Hồn của em Thủy được vô NƯỚC TRỜI. Lê Văn Hậu Cựu T/Úy Trưởng Toán 723 Nhờ giúp : 1/ Ai biết cựu TS. Ngô Quang Đợi và gia đình của cố TS. Đào Hồng Thủy hiện nay ở đâu xin vui lòng cho Hậu biết tin : 716 825 2978 . Rất cám ơn . 2/ Người phi công trực thăng bay xuống bải cứu Tổ A tên là Trung Uý Du . Tôi chưa bao giờ biết mặt và một lần gặp để nói tiếng : Cám Ơn ANH . 
       TH/U LÊ VĂN HẬU DCT 72

Toán Công Tác 723 / Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật

TẠ ƠN ANH
NHỮNG NGƯỜI CỨU TOÁN 723
Anh Mẫn thân thương
Ở nước Mỹ, hằng năm vào tuần lễ thứ 3 của tháng 11 có một ngày Lễ lớn  tên là Thanksgiving Day, tiếng Việt Nam gọi là Lễ Tạ Ơn, để tưởng nhớ đến sự cứu giúp của người Da Đỏ đã chỉ dẩn cách thức trồng trọt và trị bệnh cho những người da trắng từ Âu Châu qua đây khai khẩn lập nghiệp, mà trong buổi đầu đã gặp nhiều khó khăn trong mưu sinh và bị bệnh tật về thời khí.
 Đây là một ngày Lễ rất có ý nghĩa mà các gia đình Mỹ ấm vui quây quần bên bàn ăn, với con gà tây nướng thơm phức vàng rụm cùng cụng ly với con cháu bạn bè, nhân ngày nghĩ Lễ dài để về đoàn tụ thăm gia đình.
  Hòa nhập vào đời sống với những đìều hay của Đất Nước Mỹ, gia đình Hậu hằng năm cũng nướng con gà Tây, nấu  thêm vài món ăn để có bửa cơm chiều ấm cúng với các cháu, và nhắc nhở nhớ đến sự giúp đở cưu mang của người Mỹ trong lúc gia đình đi tìm Tự Do vào ngày 20 tháng 7 năm 1993 để lánh xa bầy khỉ đứt đuôi qủy dữ cộng sản vô thần Việt Nam.
   Ngẫm suy cảm phục trước sự biết ơn nghĩa của một dân tộc Mỹ qua ngày Lễ Tạ Ơn hằng năm. Còn mình thì sao đây? Có biết ơn nghĩa trong đời không? Hay chỉ là phường bội ơn, ăn cháo đá bát như câu nói trong dân gian VN ta : “ cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán ’’.
 Không! Con tim của Hậu vẫn còn rung động trước nghĩa tình đồng đội, nên lắm lúc những hình ảnh vắng mất của đồng đội và những ân nhân cứu đời mình cứ chờn vờn trong tâm trí và luôn nuôi hy vọng có ngày sẽ tìm gặp lại. Cũng vì vậy, mà Hậu đã trăn trở nổi niềm qua Video ‘Đêm Hội Ngộ’ và bài “Đào Hồng Thủy- Người ở lại Tam Biên ” để mong tìm lại những người anh em.
  May thay! Với sự kiên tâm trong ‘niềm tin’ Hậu đã tìm lại được Huỳnh Cẩm Sanh vào năm 2007, là một người đồng đội đã bị thất lạc trong chiến trận vào năm 1973. Và hôm nay, như một phép lạ. Cơ duyên đã đến, lại đến trong mùa Lễ Tạ Ơn, đó là một sự vui mừng thỏa lòng nhất khi tìm được phi hành đòan của chiếc trực thăng cứu đời Hậu và bán tổ A/723 tại một bãi tử thần trong vùng Tam Biên vào buổi sáng đẹp trời  cuối mùa đông năm 1971.  
     Anh Mẫn ơi!
 Thật oái ăm, như một truyện phim trinh thám. Những người Hậu đi tìm bấy lâu nay, có ai ngờ đâu, lại là người đã từng ngồi bên nhau cụng ly, chụp hình trong tiệc cưới con trai  “ Rước Dâu Bằng Xe Bò” của Hậu mà nào có biết. Người phi công có tên là Du và phi hành đòan trên chiếc trực thăng ấy Hậu chẳng biết mặt mủi ra sao, nhưng hình ảnh mường tượng ấy luôn in đậm trong đầu, qua mấy chục năm nay theo bước chân thăng trầm của cuộc đời Hậu nay đã được gỉai tỏa. Nhờ nhân duyên từ một cú điện thoại của một người xa lạ ở Cali gọi đến Hậu, sau khi anh ta đọc bài Đào Hồng Thủy - Người ở lại Tam Biên trên Cánh Thép mà ai đó mới đưa lên đăng lại. Anh cho biết có người em đã tử trận tên Nguyễn Minh Chánh có lẻ học chung cùng khóa HSQ với Đào Hồng Thủy và anh ta muốn tìm hiểu về NKT. Ngưng điện thoại, Hậu vào trang web Cánh Thép trong mục Chuyện Đời Lính và thấy có một anh góp ý nói Phi Công tên Du có lẽ ở Phi Đoàn 239. Những dòng chử góp ý ngắn ngủi ấy đã làm Hậu rung động, liền vội vàng gởi email đến group NKT để nhờ ai đó biết thì xin xác nhận đúng sai. Từ đó, Hậu được email của anh Mẫn tóm gọn câu chuyện của 40 năm về trước mà sao thấy qúa trùng hợp với câu chuyện của mình. Sau vài email qua lại kiểm chứng thì Hậu đã thấy. Thấy được những người đã cứu đời Hậu mà trong đó có anh Phạm Minh Mẫn, Huỳnh văn Du, Trần Phát, Trần Ngọc Đảnh như những Thiên Thần trên chiếc trực thăng cảm tử đã nhào xuống vội vàng trong lửa đạn để cứu 3 chàng Lôi Hổ đơn độc đang chống trả địch quân trên bãi tử thần.
  Nếu ngày đó không có chiếc trực thăng cứu tinh của Phi Công Du liều mạng xuống cứu chúng tôi, thì hôm nay Hậu đâu còn ngồi gõ những dòng chữ nầy để gởi đến anh, và gia đình Hậu sẽ tuyệt dòng khi đã có 4 anh em ruột độc thân đã ngũ yên trong nghĩa trang Biên Hòa, và làm gì có hai đứa cháu nội Quân- Hưng ngày nay…
   Định mệnh đã đưa đẩy để hôm nay Hậu tìm gặp được những người cứu Hậu và bán tổ A 723.  Tiếc thay ! Hậu chưa nói được một lời cám ơn với anh Du thì anh đã gĩa từ cõi trần gần 10 năm nay rồi. Tuy nhiên, bằng mọi gía, khi Hậu biết được địa chỉ ngôi mộ của anh ỏ đâu tại WDC thì gia đình Hậu sẽ đến đó để thắp nén hương Tạ Ơn Anh, và nguyện cầu hương hồn anh an vui trong Cõi Trời Cao. Còn anh Trần Phát ở Vancouver-Canada và anh Trần Ngọc Đảnh ở Austin – Taxas Hậu đã gặp trên điện thoại với niềm vui khi nghe tiếng nói của  những người ơn trong đời mình.
  Anh Mẫn ơi!
Bốn người trên chiếc máy bay trực thăng cứu đời Hậu và bán tổ A 723, thì có 3 người ở Mỹ, chỉ còn mình anh ở lại Việt Nam. Có lẻ định số an bài  để anh mang sứ mạng đón những người anh em thất lạc trong núi rừng Tam Biên, mà hiện nay có Huỳnh Cẩm Sanh đang ở gần bên anh và khá đông các anh em của Đoàn 72 nữa. Nhờ vậy, anh em mình đã gặp nhau vào năm 2010 rồi. Nhưng! hôm nay mới đúng thực sự gặp nhau sau 40 năm tìm kiếm.
    Ngày 22 tháng 11 là ngày Lễ Tạ Ơn của người Mỹ. Cũng như mọi năm, Hậu sẽ có bữa tiệc Tạ Ơn của Gia Đình tại đây, và đặc biệt năm nay sẽ có thêm một mâm cơm nữa để Tạ Ơn Anh ở Việt Nam. Lẽ ra Hậu phải có mặt, nhưng vì những trở ngại cách xa nửa vòng trái đất, nên Hậu không thể có mặt được. Mong anh Mẫn cảm thông. để nhờ anh làm một mâm cơm nghĩa tình , cụng ly với tất cả anh em Đoàn 72 còn đang ở lại bãi đáp. Và Hùynh Cẩm Sanh sẽ thay mặt Hậu để nói lời Tạ Ơn Anh đã cứu chúng tôi ngày ấy.
                             
             Xin Tạ Ơn Anh
                   Hậu Lê 

No comments:

Post a Comment