Saturday, April 27, 2024

Vui lòng phổ biến rộng rãi làm phước - Phần Mộ Chiến hữu VNCH đã hy sinh 1975

 

AN LỘC ĐỊA SỬ LƯU CHIẾN TÍCH
BIỆT CÁCH DÙ VỊ QUỐC VONG THÂN.
TỔ QUỐC GHI ƠN CHIẾN SĨ VÔ DANH.
TIN TỨC VỀ MỘ CHIẾN SĨ VNCH HY SINH TẠI THỊ XÃ AN LỘC - TỈNH BÌNH LONG - NĂM 1972.

-- Kính mong quý vị và các niên trưởng, cùng quý chiến hữu tiếp tay phổ biến rộng rải thông báo này tới với thân nhân và bà con của người quá cố sớm đoàn tụ với gia đình.

● 15 ngôi mộ chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh là những mộ Lí́nh duy nhứt tại thị xã An Lộc, tỉ̉nh Bình Long còn sót lại chưa bị san bằng, đào bới hay cải táng nhờ nằm trong khu vườn trồng Điều của tư nhân. Những ngôi mộ này không người chăm sóc, có các tấm bia xi măng cũ kỹ, nhiều bia bị bể và mộ không còn vun đất mà gần như bằng phẳng với mặt đất. Chủ nhà mong muốn thân nhân cải táng các mộ, vì các mộ bị bỏ hoang phế nơi đây đã quá lâu.

DANH SÁCH MỘ
HỌ VÀ TÊN - NGÀY TỬ TRẬN, SỐ QUÂN, BINH CHỦNG.

1/ Lâm Xa Ry, 21/07/1972, 68/506.781, BI TĐ1/48 SĐ18 BB.
2/ Đặng Văn Lợi 22/04/1972 70 115 479 HSI TĐ1/48 SĐ18 BB.
3/ Nguyễn Văn Hai 21/06/1972 75 104 307 BI TĐ1/48 SĐ18 BB.
4/ Trần Văn Anh 03/07/1972 70 000 285 TSI TĐ1/48 SĐ18 BB.
5/ Nguyễn Thế Ty 10/07/1972 58 866 963 BI TĐ1/48 SĐ18 BB.
6/ Trần Văn Rớt 28/06/1972 24 432 232 BI TĐ1/48 SĐ18 BB.
7/ Đàm Quốc Tường 10/07/1972 65 138 137 TS.TĐ1/48 SĐ18 BB.
8/ Liêu Văn Thành 21/06/1972, 72/141.633,  B1 TĐ1/48 SĐ18 BB.
9/ Tăng Văn Nhỏ 21/06/1972, 75/106.671, B1 TĐ1/48 SĐ18 BB
10/ Trần Bửu Tự 25/06/1972, 68/137.789, HSI TĐ1/48 SĐ18 BB.
11/ Nguyễn Tấn Hải 21/06/1972, 75/104.307, B1 TĐ1/48 SĐ18 BB.
12/ Phạm V 10/07/1972 59 52 HS TĐ1/48 SĐ18 BB.
13/ Triệu Văn Bắc 14/04/1972 72 337 88.
14/ Nguyễn Văn Hường, 57/154.870.
15/ Vô Danh.
-- Ghi chú:
– Số 12 bia bể, mất góc mặt, không rõ số quân.
– Số 13 và 14 có hai tấm bia chung trong một ngôi mộ, những chi tiết ghi được như trên.
– Số 15 mộ có bia bị đất lấp hết chữ ghi trên tấm bia.
●●● Năm 2007 nhà nước địa phương cho dời hài cốt 73 chiến sĩ Biệt Động Quân tại nghĩa trang Biệt Động Quân để lấy đất bán cho dân cất nhà. Những hài cốt này được đem về chứa tại một nhà mồ cách thị xã 10 cây số. Nếu ai có người thân trong số hài cốt này, thì liên lạc với địa phương để nhận lại hài cốt.
 -- DANH SÁCH HÀI CỐT.
HỌ VÀ TÊN TỬ TRẬN SỐ QUÂN BINH CHỦNG.
1/ Điểu Con 07/1972 BĐQ.
2/ Vô Danh 07/1972 ND.
3/ Trần Trọng Nhơn 15/04/1972 168 104 289 BĐQ.
4/ Nguyễn Tuấn Anh 25/05/72 71 128 548 B1 TĐ31 BĐQ.
5/ Nguyễn Văn Sơn 20/05/1972 66 128 438 B2 TĐ36 BĐQ.
6/ Trần Văn Tính 03/05/1972 72 112 416 B2 TĐ36 BĐQ.
7/ Hồ Văn Mão 10/04/1972 69 156 734 B2 TĐ36 BĐQ.
8/ Trần Văn Ba 14/06/1972 71 383 566 B1 TĐ36 BĐQ.
9/ Nguyễn Văn Đông 07/05/1972 71 103 521 TrS TĐ36 BĐQ.
10/ Nguyễn Văn Sơn 16/05/1972 66 157 819 HS1 ĐĐ3 TĐ52 BĐQ.
11/ Đỗ Ngọc Tuấn 12/05/1972 74 189 540 ĐĐ3 TĐ52 BĐQ.
12/ Vũ đình Thi 13/05/1972 HS1 ĐĐ3 TĐ52 BĐQ.
13/ Nguyễn Văn Trường 08/06/1972 TrS ĐĐ1 TĐ52 BĐQ.
14/ Dương Xú Hà 62 171 159 HS TĐ36 BĐQ.
15/ Trần Đức Lân 05/05/1972 515787478 B1 TĐ36 BĐQ.
16/ Phạm Văn Vũ 01/04/1972 61 000 376 B1 ĐĐ1 TĐ52 BĐQ.
17/ Nguyễn Văn Nam 01/07/1972 74 112 571 B1 ĐĐ3 TĐ52 BĐQ.
18/ Nguyễn Văn Sử 01/07/1972 72 101 886 TrS1 ĐĐ2 TĐ52 BĐQ.
19/ Nguyễn Minh Tâm 15/04/2011 63 111 171 ThT ĐĐ1 TĐ36 BĐQ.
20/ Đặng Văn An 13/06/1972 63 149 940 B2 ĐĐ2 TĐ31 BĐQ.
21/ Trần Văn Tuy 13/06/1972 73 114 120 B1 TĐ36 BĐQ.
22/ Lâm Lanh 05/05/1972 57 154 844 HS1 TĐ36 BĐQ.
23/ Kiều Văn Tách 17/05/1972 73 111 521 B2 TĐ36 BĐQ.
24/ Lê Văn Hiếu 13/05/1972 65 145 326 ĐU ĐĐ1 TĐ36 BĐQ.
25/ Nguyễn Văn Hoài 16/06/1972 66 400 108 HS1 TĐ52 BĐQ.
26/ Đổ Văn Hai 07/06/1972 72 102 446 HS TĐ52 BĐQ.
27/ Nguyễn Chuyên 15/04/1972 37 217 507 TrS1 ĐĐ1 TĐ36 BĐQ.
28/ Vô Danh.
29/ Vô Danh.
30/ Vô Danh.
31/ Hồ Văn Tám 08/06/1972 HS1 ĐĐ1 TĐ52 BĐQ.
32/ Vô Danh.
33/ Chu Văn Cường 27/05/1972 74 114 054 B1 TĐ31 BĐQ.
34/ Nguyễn Bá Long 11/06/1972 72 147 048 B2 TĐ31 BĐQ.
35/ Trèo Soul 08/05/1972 51 107 862 HS1 TĐ36 BĐQ.
36/ Nguyễn Ph. An 10/05/1972 TS ĐĐ4 TĐ52 BĐQ.
37/ Phương 11/05/1972 74 521 330 HS1 TĐ52 BĐQ.
38/ Lê Thạch 27/05/1972 72 204 083 B1 TĐ31 BĐQ.
39/ Nguyễn văn Hùng 15/03/1972 74 112 885 HS TĐ31 BĐQ.
40/ Trần Hòa 08/05/1972 74 109 370 B2 ĐĐ3 TĐ52 BĐQ.
41/ Nguyễn Văn Đang 11/05/1972 HS ĐĐ2 TĐ52 BĐQ.
42/ Trịnh Dũng 11/05/1972 73 108 848 B2 TĐ52 BĐQ.
43/ Phạm Văn 14/05/1972 73 225 395 B2 ĐĐ4 TĐ52 BĐQ.
44/ Lê Văn Thọ 14/05/1972 73 111 046 HS TĐ31 BĐQ.
45/ Đinh Văn Song 15/06/1972 70 109 172 HS1 ĐĐ2 TĐ36 BĐQ.
46/ Đỗ Ngọc Tâm 05/06/1972 70 149 960 B2 TĐ31 BĐQ.
47/ Nguyễn Văn Cảnh 18/06/1972 74 105 691 B1 TĐ31 BĐQ.
48/ Nguyễn Văn Thanh 22/05/1972 79 108 099 HS ĐĐ3 TĐ32 BĐQ.
49/ Phạm Hắc Sơn 29/05/1972 69 124 285 HS ĐĐ2 TĐ52 BĐQ.
50/ Tr Đinh Phúc 19/05/1972 69 209 955 TrU TĐ52 BĐQ.
51/ Nguyễn Văn Ngân 09/06/1972 67 823 830 B2 TĐ31 BĐQ.
52/ Trần Văn Huê 08/05/1972 73 125 612 B2 ĐĐ1 TĐ52 BĐQ.
53/ Nguyễn Văn Nghinh 12/05/1972 70 115 059 B2 ĐĐ3 TĐ52 BĐQ.
54/ Lê Văn Bình 15/05/1972 57 183 321 ThS ĐĐ3 TĐ 52 BĐQ.
55/ Lê Văn Cường 16/07/1972 64 215 135 HS ĐĐ4 TĐ 52 BĐQ.
56/ Bạch Lẻn 1972 70 107 746 ThS1 TĐ52 BĐQ.
57/ Nguyễn Văn Đính 1972 72 100 336 B1 TĐ36 BĐQ.
58/ Nguyễn Văn Thêm 13/06/1972 72 105 570 TĐ36 BĐQ.
59/ Nguyễn Văn Hưỡng 02/05/1972 73 123 516 ĐĐ2 TĐ52 BĐQ.
60/ Hồ Văn Lượng 11/06/1972 68 158 307 TĐ36 BĐQ.
61/ Trần Văn 12/05/1972 69 156 326 HS1 TĐ36 BĐQ.
62/ Lê Ninh Hải 03/07/1972 64 189 822 HS1 TĐ36 BĐQ.
63/ Nguyễn Văn Quang 07/06/1972 71 126 277 B2 TĐ36 BĐQ.
64/ Nguyễn Văn Được 15/05/1972 69 125 616 ThS TĐ36 BĐQ.
65/ Vô Danh.
66/ Phan Văn Nam 11/06/1972 63 112 131 B2 TĐ36 BĐQ.
67/ Vô Danh.
68/ Vô Danh.
69/ Vô Danh.
70/ Vô Danh.
71/ Vô Danh.
72/ Đinh Bá Tòng 21/06/1972 63 108 883 B2 TĐ36 BĐQ.
73/ Vô Danh.
● Tại một cơ sở tôn giáo địa phương thị xã An Lộc, có hủ hài cốt với tấm thẻ bài còn nguyên sợi dây đeo, đề tên:
Phan Văn Hiệp SQ 67/408.915 LM – B
Tại chỗ này cũng có mấy hủ hài cốt khác của Lính nhưng vô danh, không có thẻ bài, không tên tuổi. Họ là những người Lính hy sinh tại rừng cao su bên Quốc lộ 13, cổng vào thị xâ An Lộc, tỉnh Bình Long. Các hủ hài cốt Lính này do những người thợ hồ đào được đem gửi tại một cơ sở tôn giáo địa phương cho đến nay vẫn không có người thân đến nhận.
●● Tìm thân nhân của người quá cố có tên trên hai tấm thẻ bài để gửi lại thẻ bài. Hai tấm thẻ bài có tên như sau:
-- Nguyễn Văn Tắc SQ 50/539.002 LM – A.
-- Nguyễn Văn Lượm SQ 72/107.673 LM – A.
Nếu thân nhân cần tìm hài cốt hoặc nhận lại thẻ bài, liên lạc hh16976@gmail.com để biết thêm chi tiết.
23 –) Theo cụ Sáu, 76 tuổi. Tại phường Thạnh Lộc, P12, Quận 12, Sàigòn, có 1 mộ chung cho 3 người (1Canh Sat, 1ĐPQ, 1BKDù NKT).
Từ BlackApril 75 đến nay chưa có thân nhân cải táng!
● Khi cần xin liên hệ DĐ 841664461470
<để gặp cụ Sáu>
-- Trân trọng:
22 -) Xin quý vị vui lòng chuyển giúp tin nhắn sau đây:
-- Kính thưa quý thân nhân và bằng hữu những người có tên kê bên dưới, là bạn thân của nhân sĩ Võ Tụng (Quảng Nam) đã mất cùng thời với nhơn sĩ:
1) Ông Nguyễn Hoành.
2) Ông Phạm Tuệ (anh ruột của ông Phạm Phước hiện ở Hoa Kỳ.)
3) Ông Nguyễn Thứ.
4) Ông Nguyễn Tự Trị.
Nếu quý vị thân nhân và bạn bè của bốn vị nêu trên,muốn biết chi tiết phần mộ của từng người, xin liên lạc với văn phòng chúng tui.
Xin cám ơn tất cả quí vị.
Nguyện xin ơn trên hộ trì cho công cuộc của chúng ta.
Ðiện thoại: 559-273-1782
21 -)Kính gửi: Văn Phòng Liên Lạc Tìm Mộ
Đề nghị Quý vị xem thông tin sau:
--- Ai là thân nhân của Ông Trương – Q – Mâu, mất năm 1975, SQ: 69/213115, LM: O.
-- Xin liên lạc:
0918.373.693 để được chỉ mộ giùm”
Người gửi email này ghi lại nguyên văn. Thông tin thêm: lính VNCH, chết tại Huế, địa danh hiện nay là xã Phú Xuân, huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế
Thanks & Best regards,
—————————
Le Dinh Trung
Dream House Investment Corp.
331 Tran Xuan Soan Str., Tan Kieng Ward., Dist. 7, HCMC
Cellphone: 0983.86.86.38
Tel: (84-4) 38728148 Fax: (84-4) 38722701
20 -) liên lạc tìm mộ chiến sĩ VN Cộng Hòa.
Ở Nam Đông-TT Huế, có 1 nghĩa trang của các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, hiện có
môt số ngôi mộ, còn bia hoặc không còn bia. Liên lạc qua email của tui:
19 – )tui có biết 02 mộ của tử sĩ lính dù, có thể là biệt kích 81 dù.
tử trận năm 1972, tại khu vuc đồi gió, thuộc An Lộc - Bình Long.
01 mộ tên :
HÙYNH MINH THÔNG
SQ :70 21 21 43
LM:O.
Mộ thứ 02 - không có tên, hai mộ còn sát nhau va có xây gạch chung quanh, bia được làm bằng ciment , hiện đã hư và mòn.
Vậy ai là thân nhơn hoặc bạn bè, xin liên lạc qua email: Phuc Nguyen <nphuc29@yahoo.com.vn>:
Tel :0169 7030 637.
RẤT MONG CÓ HỒI ÂM.
18 -) - Văn phòng chúng tui vừa nhận được Hình ảnh và với thư sau đây do ông Phạm văn Bình tại - Đan Mạch và ông Phạm văn Việt tại - Nauy gửi đến.
Xin khẩn tin đến quý vị và nhờ quý vị cũng như các niên trưởng phổ biến tin này rộng rãi để thân nhân của các tử sĩ thuộc đơn vị Trung Đoàn 4 Sư Đoàn 2 Bộ Binh có thể tìm được hài cốt người thân. Nội dung vi thư như sau:
-- Kính thưa quý vị.
Theo thông báo của Gia đình tui tại Việt Nam về việc tìm hài cốt của anh ruột tôi, bị mất tích năm 1975, anh tui thuộc đơn vị Trung Đoàn 4 Sư Đoàn 2 Bộ Binh là cựu Thiếu Sinh Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, theo sự chỉ dẫn của một người mà ở Việt Nam gọi là Ngoại cảm, gia đình tui đã nhận được hài cốt của anh tui.
Thưa quý vị, ngoài hài cốt của anh tui gần đó còn rất nhiều xương và những vật dụng. Theo người nhà cho biết nơi này đang bị ủi để làm đường làm cảng. Người lái máy cày có cho gia đình tui biết, họ có gom lại một số xương và vật dụng, lập miếu thờ tại gần cảng Ky ha Chu Lai. Tui viết thư này thông báo đến quý vị, ai có thân nhân thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh QLVNCH mất tích khoảng tháng 3 năm 1975, thử liên lạc, có thể tìm kiếm . Mong quý vị được mọi may mắn.” xin Liên lạc: Binh Pham <pvbinh50@yahoo.dk>
Van Viet Pham <vvp@ilas.no>
Tel : 004560837109
Nếu cần thêm chi tiết về nguồn tin va hinh anh xin Liên lạc với Văn Phòng Tìm Mộ (E- mail: lienlactimmo@att.net
Tel : (559)273-1782).
Xin cám ơn tất cả quý vị. Nguyện xin ơn trên phù hộ chúng ta.
17- )Mộ nhắn tin cho thân nhân:
1/ Ông Võ Thanh Tùng, KBC 4506 (Củ Chi, Hậu Nghĩa), tử trận 1968. Tui đã cố nhắn tin cho hiền thê là Bà Nguyễn thị Phượng và tìm đứa con ông Tùng là Võ thanh Lâm sinh năm 1968 nhưng không được. Hài cốt ông Tùng tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, năm 1987 tui đã bốc, cốt và di ảnh hiện để trong nhà thờ Thánh Juse góc đường Phan đình Phùng (tên cũ) và đường Nguyễn Thiện Thuật, Quận 3, Saigon. Riêng cháu Lâm nếu được tin này xin gửi tấm ảnh.
Nếu ai biết tin , xin liên lạc :
E Mail : Ken Nguyen <ngken1944@yahoo.com>
phone (916) 6889629 .USA.
16. Một gia đình đã phát hiện và bảo quản hài cốt của một người lính tên:
Phạm Ngọc Châu, SQ: 65/161778, loại máu O, tại nhà số 335, Quốc Lộ 55, đối diện Khu Tái Ðịnh Cư thuộc khu phố Phước Sơn, thị trấn Ðất Ðỏ, huyện Ðất Ðỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Xin liên hệ ông bà “Lái Xe,” điện thoại: 064-3-688-143.
Xin kính báo đến thân nhân và bà con biết để giúp đỡ hài cốt của người quá cố sớm đoàn tụ với gia đình.
15. Hiện nay gia đình tui đang giữ hai bộ hài cốt: Một bộ của ông Ðỗ Văn Quang và một bộ của người lính vô danh.
Ông Ðỗ Văn Quang, số quân 69_16_19-71, loại máu B+. và cùng với 1 người bạn nữa không có tên (vô danh).
Xin liên lạc ông Vũ Khắc Khoan số điện thoại: 0906-612-071 hoặc 0613-921-091.
14. Nhắn tìm thân nhân tử sĩ quân lực VNCH Lê Thiện, tại bờ biển Qui Nhơn-Bình Ðịnh, có thẻ căn cước quân nhân ghi một số chi tiết còn đọc được như sau:
Họ tên: Lê Thiện, cấp bậc: B2, số quân: 74/420679, loại máu:… QÐ=819 10,66 TTALAP 02585. Trên nón sắt có ghi số: 1954 B2, hài cốt đã được cải táng tại Ðống Ða-Qui Nhơn. Xin liên lạc theo địa chỉ email Phạm Văn Trung: trungphvt@yahoo.com.vn
13. Mộ anh Xiêm, lính Tiểu Ðoàn 105 Ðịa Phương Quân, Tiểu Khu Quảng Trị.
Gia Ðình muốn biết thêm chi tiết xin liên lạc: Thầy Thích Từ Giáo, chùa Phước Huệ Quảng Trị, điện thoại: 093-248-3763 (gặp Thầy Thích Từ Giáo), email: thichtugiao@gmail.com
12. Sĩ Quan Trần Văn Thông và hạ sĩ quan mang máy truyền tin tên Bùi Duyệt, thuộc Sư Ðoàn I Bộ Binh đã tử trận 26 tháng 3, 1975 tại Huế. Thân nhân hai vị trên có thể liên lạc: quynhlansydney@yahoo.com.au hoặc địa chỉ: P.O.Box 665 Bankstown 2200, Autralia.
11. Danh tính của 6 chiến hữu Tiểu Ðoàn 2, Trung Ðoàn 5, Sư Ðoàn 2 Bộ Binh.
– Nguyễn Ban số quân 73/213952 loại máu A
– Nguyễn Chí Thành số quân 71/142744 loại máu AB+
– Tống Công Tòa số quân 74/207241 loại máu OA+
– Nguyễn Ðan số quân 73/213952 loại máu A+
– Nguyễn Minh số quân 75/211356 loại máu A.
– Nguyễn Văn Toi số quân 75/170972 loại máu O+
Xin quý vị hãy liên lạc: Thiếu Tá Lê Quang, 3806 SE 74th Ave., Portland, Or 97206.
Email: chanh le <chanhle2001@hotmail.com>
Ðiện thoại: (503) 788-3680 hoặc gửi lời nhắn (503) 740-1236.
10. Đã Có người nhận.
9. Thái Văn Thiệt
Một đồng bào ở Việt Nam hiện đang giữ một thẻ bài của anh Thái Văn Thiệt, tử sĩ VNCH, số quân: 69/12165, Loại máu: O.
Thẻ bài này nằm cạnh hài cốt của anh Thái Văn Thiệt trong một khu rừng (trước đây) thuộc huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Thân nhân của anh Thiệt xin vui lòng liên lạc để được hướng dẫn tiếp cận hài cốt người thân, qua email lienlactimmo@att.net.
8. Ðỗ Phước Thọ, Nghĩa (Cảnh Sát) và Em (SQ Quân Ðội ) và 10 ngôi mộ tù ở Trại Tân Lập/K1 tỉnh Vĩnh Phú từ năm 1977-1982, biết nơi chôn khoảng 10 ngôi mộ tù cải tạo, trong đó có 3 người mà ông còn nhớ tên, gồm anh Ðỗ Phước Thọ (sĩ quan Cảnh Sát, quê Bà Rịa), anh Nghĩa (không nhớ họ) (trưởng cuộc Cảnh Sát Phi Cảng Tân Sơn Nhứt) và anh “Em” (không nhớ họ) (SQ/QLVNCH).
Ðể biết thêm chi tiết, xin liên lạc với ông Diệp qua email: kimtran2006@hotmail.fr, hoặc số điện thoại tại Pháp: +01.40 34 50 17.
7. Tìm mộ Cha: Đã nhận được tin tức.
6. Có tin tức về mộ của Trần Văn Hoàng:
Gia đình tui hiện sống tại Hà Nội, cách đây mấy năm gia đình đào móng xây nhà, có đào được 1 bộ hài cốt còn lại ít xương kèm theo 1 miếng INOX khắc tên: Trần Văn Hoàng, Sài Gòn, 1948 – 64608 sau đó được cải táng tại nghĩa trang.
Xin liên lạc qua email: lienlactimmo@att.net.
5. Ông Trần Kháng ở Na Uy cho biết: Ông Võ Văn Hạp ở xóm Cồn Dầu, thôn 3, xã Hải Dương, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên đã chôn 6 tử sĩ VIỆT NAM CỘNG HÒA, hiện còn mộ 4 chiến sĩ trong đó có 2 người có tên trên bọc áo là: Nguyễn Lam và Phan Hiệp
Xin liên lạc qua email: lienlactimmo@att.net
4. Ðại Úy Phi Công tên Vũ Chí Công sinh năm 1949
Ông Huỳnh Tấn Hải cho biết đã chôn một đại úy phi công tên Vũ Chí Công sinh năm 1949, quê Việt Bắc nơi ở Sài Gòn-Gia Ðịnh tử nạn trong buồng lái phi cơ. Phi cơ bị rơi trong vùng trên đường từ Gia Rai về Phan Rang.
Xin liên lạc qua email: lienlactimmo@att.net.
3. Có tin tức về mộ của 47 tử sĩ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA chôn tại cột cờ Quân Y Viện Qui Nhơn do Bác Sĩ Quân Y Nguyễn Công Trứ và Dương Văn An là một trong những người lính còn lại trong Quân Y Viện chôn cất. Xin liên lạc qua email: lienlactimmo@att.net.
2. Tin về Thiếu Tá Ðạt công tác tại Ban Tâm Lý Chiến Tỉnh Bình Ðịnh đi tác chiến tại quận An Túc, trên đường trở về đơn vị bị phục kích, anh đã bị thương và tự sát, được dân địa phương chôn lấp vội vàng bên lề đường. Xin quý vị hãy liên lạc qua email: lienlactimmo@att.net.
1. Ai là thân nhân của Trung Úy BÐQ Nguyễn Văn Quý, hãy liên lạc với Ðại Úy BÐQ Ðoàn Trọng Hiếu (Email: hieudoanbdq@yahoo.com) để biết nơi để hài cốt của Tr/U Quý sau khi cải táng.
Ngoài ra còn một số tin vừa nhận được, chúng tui sẽ loan báo trong bản tin kế tiếp.
Cầu mong anh linh các chiến sĩ phù hộ chúng ta.
Chúng tui nguyện làm một trung tâm thông tin kết nối, thâu thập tất cả mọi tin tức liên hệ đến việc tìm mộ.
Kính mong quý vị, cùng các niên trưởng và những chiến hữu, cùng tiếp tay san sẻ phổ biến thông báo này đến rộng rải với quý đồng hương được biết tới danh sách này.
Nguyện xin ơn Chúa che chở cho công cuộc tìm kiếm của chúng ta.
Mong quý vị chia xẻ cùng chung tay giúp giùm . Đa tạ. @người theo dõi @nêu bật
Trân trọng

Friday, April 26, 2024

SO SÁNH NỘI CHIẾN HOA KỲ VÀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM NGUYỄN VẠN BÌNH

Nội Chiến Hoa Kỳ kéo dài 4 năm từ ngày 12-4-1861 đến ngày 9-4-1865.Cuộc chiến Việt Nam kéo dài 20 năm từ ngày 1-11-1955 đến ngày 30-4-1975. Cả hai cuốc chiến đều gây nên cảnh tang tóc, đau thương cho quốc gia và quân, dân của mình.

Mục đích của bài viết nầy, chúng tôi chỉ nêu ra những điểm chính liên quan đến nguyên nhân, sự thiệt hại và sự đối xử của phe thắng trận với phe thua trận như thế nào? Và tại sao, Hoa Kỳ sau cuộc nội chiến, nhân dân Hoa Kỳ có thể hòa giải, hàn gắn vết thương, xóa bỏ được những quan điểm dị biệt  và thành công trong việc xây dựng quốc gia? Trong khi đó, tại sao Cộng Sản Việt Nam lại thất bại trong việc hòa giải dân tộc, mối hận thù giữa nhiều người dân của hai miền Nam Bắc vẫn còn tồn tại và thất bại nặng nề trong việc cùng nhau tái thiết quê hương ?

Nguyên nhân của cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ là khi Tổng Thống Abraham Lincoln bãi bỏ chế độ nô lệ. Ông cho rằng quốc gia không thể có hai luật, một nửa có nô lệ, một nửa không. Điều nầy khiến 11 tiểu bang miền Nam tuyên bố ly khai khỏi Liên Bang và thành lập chính phủ riêng. Chính phủ miền Nam lấy Richmond, thuộc tiểu bang Virginia làm thủ đô, bầu ông Jefferson Davis làm tổng thống    giao quyền  chỉ huy quân sự cho danh tướng Robert Lee để công khai tuyên chiến với chính quyền Liên Bang.

Trong hai năm đầu, liên quân miền Nam đã đánh thắng chính phủ miền Bắc nhiều trận, nhưng về sau vì thiếu tiếp liệu và quân số nên đã thất trận.
Vào sáng ngày 9-4-1865, thủ đô miền Nam Richmond  bị vây hãm bởi 3 quân đoàn và tướng Robert Lee buộc phải tuyên bố đầu hàng. Với lá thư riêng tướng Robert Lee đã gởi cho tướng Ulysses Grant yêu cầu thu xếp một buổi họp mặt để chấm dứt chiến tranh.
Trưa ngày lịch sử 9-4-1865, tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưởi ngựa vượt qua phòng tuyến đến nơi hẹn ước. Tướng Grant ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với tướng Lee của miền Nam. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón. Các sĩ quan miền Bắc đưa vị tư lệnh miền Nam vào phòng họp. Nửa giờ sau tướng Grant và đoàn tùy tùng miền Bắc đến.
Theo chỉ thị của Tổng Thống Lincoln quân miền Nam phải bị tước bỏ vũ khí, quân dụng và được tự do trở về quê cũ như các dân thường, không bị tập trung vào các trai lao tù. Tướng Lee lại yêu cầu cho binh sĩ của ông được giữ lừa ngựa vì lính miền Nam đem ngựa từ các nông trại của họ đi chiến đấu. Tướng Grant liền đồng ý để lính miền Nam đem lừa ngựa của họ về nhà mà xây dựng lại nông trại.
Trước đó, vào năm 1863, tổng thống Lincoln đã đưa ra bản Tuyên Ngôn Ân Xá và Tái Thiết. Nội dung của bản Tuyên Ngôn là ân xá hoàn toàn và trao trả tài sản cho những ai tham gia cuộc nổi dậy, ngoại trừ các quan chức cấp cao nhất và các nhà lãnh đạo quân sự của Liên Quân Miền Nam (Confederate). Cho phép thành lập chính quyền tiểu bang mới và khuyến khích các tiểu bang ban hành các kế hoạch giải quyết vấn đề nô lệ được giải phóng.

Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ đã gây thương vong cho gần 1 triệu quân lính tổng cộng của hai miền và hàng trăm ngàn dân bị thương vong, nhiều nhà cửa bị thiệt hại. Trước sự thương vong nầy, Tổng Thống Linlcon đã tuyên bố: Khi viên đạn xuyên vào người lính dù thuộc phe nào đi nữa, thực ra nó đã xuyên vào trái tim của một người Mẹ. Tại sao lại ăn mừng chiến thắng? Những người thua trận chẳng phải là đồng bào của chúng ta hay sao?”.TT Linlcon cũng nói rằng: “Nội chiến không có người thắng”.Các sĩ quan, binh lính của phía Liên quân Miền Nam sau khi đầu hàng thì được chính phủ Liên Bang cam kết từ đó về sau họ không bị làm phiền.
Tướng Grant, chỉ huy quân đội miền Bắc ra lệnh cho các binh sĩ không được ăn mừng. Ông nói với các sĩ quan dưới quyền:Chiến tranh đã kết thúc. Giờ nầy họ là đồng bào của chúng ta”. Ông cho rằng hai bên không còn là kẻ thù và cách tốt đẹp nhất để bày tỏ niềm vui của miền Bắc là không vui mừng trước thất bại của quân miền Nam.
Để bày tỏ tinh thần hòa giải dân tộc, TT Linlcon cho phép các liệt sĩ miền Nam đều được chôn cất tử tế tại các nghĩa trang và năm 1991 thì một số  các liệt sĩ miền Nam được đưa vào một khu đặc biệt trong nghĩa trang Quốc Gia Arlington gọi là Confederate Section được chính phủ chăm sóc cẩn thận.
Sau một tuần kết thúc cuộc nội chiến, Tổng Thống Lincoln đã bị ám sát chết bởi một kẻ cuồng tín chủ trương chế độ nô lệ vào ngày 15-4-1865.Trước khi chết, TT Lincoln đã nói: “Người ta có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng không ai từ bỏ được lịch sử. Trước sau gì, lịch sử của bậc anh hùng sẽ phải được dựng lại ớ chính nơi mà những con người vĩ đại đã ngã xuống.”

Cuộc  chiến VN giữa phe Quốc Gia của Miền Nam và phe Cộng Sản của Miền Bắc thực sự xảy ra từ ngày 1-11-1955 sau khi Hiệp Định Genève ngày 20-7-1954 chia đôi đất nước cho đến ngày 30-4-1975. Hồ Chí Minh sau khi chiếm được Bắc Việt liền mở ngay cuộc xâm chiếm Miền Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Hồ Chí Minh muốn chiếm miền Nam để bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản quốc tế. Phía Miền Nam thì chiến đấu tự vệ để duy trì chế độ tự do dân chủ. Cũng vì yêu chuộng sự tự do, dân chủ  hàng triệu người Bắc đã di cư vào Nam. Sau khi Hồ Chí Minh chết,Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản VN, Lê Duẫn khi nói về cuộc chiến xâm lăng miền Nam đã không ngần ngại tuyên bố: Chúng ta chiến đấu là chiến đấu cho Liên Xô  và Trung Cộng.”
Phía Miền Nam được Hoa Kỳ và một số quốc gia thuộc khối Tự Do yểm trợ. Phía Bắc Việt thì được Liên Xô, Trung Cộng và các quốc gia khối Cộng Sản cung cấp vũ khí, quân dụng dồi dào.

Chiến tranh VN đem lại thiệt hại to lớn cho cả hai miền Nam Bắc VN. Miền Nam có trên 300 ngàn quân nhân tử trận, hàng trăm ngàn bị thương. Phía Bắc Việt có gần 1.1 triệu quân nhân tử trận, 600 ngàn bị thương. Tổng cộng cả hai miền VN có đến 3 triệu người dân bị thương vong. Về tài sản nhà cửa và nền kinh tế  bị thiệt hại nặng nề.

Sau ngày 30-4-1975, Cộng Sản Bắc Việt nhanh chóng tổ chức diễn hành rầm rộ ăn mừng chiến thắng tại Sài Gòn. Tổng Bí Thư Đỗ Mười đã dõng dạt tuyên bố: “Giải phóng miền Nam, chúng ta có quyền tịch thu tài sản, trưng dụng nhà cửa, hảng xưởng, ruộng đất chúng nó, xe chúng nó ta đi, vợ chúng nó ta lấy, con chúng nó ta bắt làm nô lệ, còn chúng nó thì ta đày kinh tế mới, vào rừng sâu nước độc. Chúng nó sẽ chết dần mòn .”  
Để trả thù quân, dân Miền Nam, Cộng Sản Bắc Việt liền tập trung quân dân cán chính của Miền Nam vào các trại tù với mỹ từ “Học Tập Cải Tạo” trãi dài từ Nam đến Bắc với lời chiêu dụ gạt gẫm là chỉ đi học tập 10 ngày nhưng thật sự đã kéo dài vài năm cho đến 17 năm lao tù khổ sai. Bên cạnh đấy, còn đầy ải vợ con của họ đến các vùng kinh tế mới là nơi rừng thiêng nước độc, thiếu thốn mọi bề. Tài sản của dân Miền Nam bị các cán bộ Bắc Việt tịch thu một cách ngang ngược. Đồng thời, chúng cho cày nát nhiều ngôi mộ của các tử sĩ Miền Nam tại các nghĩa trang và cho giựt sập tượng người lính Tiếc Thương tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Hậu quả đã làm tan nát bao gia đình, giết hại nhiều nhân tài và tạo sự hận thù giữa người dân và bọn lãnh đạo Hà Nội ngày càng thêm sâu đậm.
Quá chán ngán chệ độ vô nhân CSVN, hàng triệu người Việt cả miền Nam và miền Bắc liều mình vượt biên, vượt biển đi tìm sự tự do tại nhiều quốc gia trên thế giới. Hành trình đi tìm sự tự do nầy đầy đau thương và nước mắt. Hàng trăm ngàn người phải bỏ xác trên biển Đông. Người sống sót thì phải chịu đói khát, bị cướp bóc và nhiều phụ nữ Việt bị bọn hải tặc hảm hiếp đến chết.

Trong khi ấy, các cấp lãnh đạo CSVN từ trung ương đến cấp địa phương do tham nhũng mà tài sản của bọn chúng lên đến hàng trăm triệu hay hàng tỷ mỹ kim tạo thành một tầng lớp tư  bản đỏ sống xa hoa .
Ngày nay, hàng triệu người dân Việt đã thấy rõ bộ mặt thật bán nước của tập đoàn lành đạo CSVN.Từ Công Hàm bán nước do Phạm Văn Đồng ký vào năm 1958 nhìn nhận chủ quyền của Trung Cộng trên quần đào Hoàng Sa. Các hiệp ước do cấp lãnh đạo CSVN ký vào các năm 1999, 2000 đã dâng cho Trung Cộng hàng trăm dặm lảnh hãi và lảnh thổ của đất nước. Ngày nay, Ải Nam Quan và Thác Bản Giốc đã thuộc về Trung Cộng. Đặc biệt,đảng CSVN lại đê hèn đàn áp những cuộc biểu tình của người dân đòi Trung Cộng phải hoàn trả  hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa . Nhưng nhà cầm quyền Hà Nội thì lại im lặng trước những sự đánh đập các ngư dân VN cùng sự xâm lấn của Trung Cộng trên hai quần đảo nầy.

Sau khi Nội Chiến Hoa Kỳ chấm dứt, TT Lincoln  đã sáng suốt xem phe thua trận vẫn là đồng bào và kêu gọi mọi người dân Hoa Kỳ hãy cùng nhau kiến thiết đất nước.
Trái lại, bọn lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt đã xem quân dân Miền Nam là những kẻ thù cần phải tiêu diệt. Đến nay, sau 49 năm chấm dứt cuộc chiến, chính quyền Hà Nội vẫn giữ thái độ hận thù quân dân Miền Nam VN thay vì hòa giải dân tộc. 

Cùng một cuộc chiến xảy ra giữa hai miền của đất nước, nhưng chúng ta đã thấy rõ tại sao Hoa Kỳ trở nên hùng mạnh và tại sao Việt Nam lại lâm váo cảnh chậm tiến, nghèo nàn và đất nước có nhiều nguy cơ bị mất vào tay của Trung Cộng.

Mục đích của chiến tranh VN có thật sự đem lại sự Độc Lập, Tự Do và Hạnh Phúc cho đất nước và dân tộc hay không như lời tuyên truyền của H Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN ?. Ngày nay, sự thật đã được phơi bày.
Thật là chí lý và thắm thiết khi người  dân VN đã đặt câu vè khi bọn CSVN thay đổi con đường Công Lý bằng đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và đường Tự Do của Sài Gòn thành đường Đồng Khởi như sau:
Nam Kỳ Khởi Nghĩa  tiêu Công Lý
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do.
Một đất nước không còn nền Công Lý và  tất cả người dân bị tước đoạt mọi quyền Tự Do, thêm vào đó, phe chiến thắng không có chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc thì quả là một tai họa vậy./.

NGUYỄN VẠN BÌNH