Wednesday, April 28, 2021

Mẹ Tôi & Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

Mẹ tôi chỉ là một thư ký cho một công sở ở Sài Gòn trước năm 1975. Vào cái trưa ngày 30/04/1975, khi biết chắc miền Nam đã thất thủ và bọn giặc cướp cộng phỉ đang từ từ tiến vô Sài Gòn, Mẹ tôi lặng lẽ mở tủ lấy lá Cờ Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, bỏ vô chiếc thau đồng vẫn thường để đốt vàng bạc trong các dịp cúng giỗ trong gia đình, rồi đem xuống bếp, thắp ba cây nhang lâm râm khấn vái trước khi châm lửa đốt.
Lúc đó, chúng tôi cũng biết việc cất giữ những gì thuộc về chế độ cũ sẽ mang tới tai hoạ cho gia đình, huống chi là lá Cờ Quốc Gia, nên Mẹ tôi phải đốt đi; nhưng những điều mà Mẹ tôi giải thích sau đó về việc khấn vái trước khi đốt lá cờ mang một ý nghĩa khác hơn mà suốt đời tôi không quên được. Mẹ tôi nói:
  • «Biết bao nhiêu anh Chiến Sĩ Quốc Gia đã chết dưới lá cờ ni, chừ vì thời thế mà mình phải đốt đi, mình cũng phải xin phép người ta một tiếng!».
Thế rồi, những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản man rợ bắt đầu đến với người dân miền Nam. Như bao nhiêu gia đình khác, gia đình tôi ngơ ngác, bàng hoàng qua những chiến dịch, chính sách liên tiếp của bọn Việt cộng; hết “chiến dịch đổi tiền”, “chính sách lương thực, hộ khẩu”, đến “chính sách học tập cải tạo đối với nguỵ quân, nguỵ quyền”, “chiến dịch đánh tư sản mại bản”, «chính sách kinh tế mới » … và nhiều nữa không thể nào kể hết.
Ai nói lũ cộng phỉ ngu ngốc, chứ riêng tôi thì thấy bọn chúng chỉ là một loài vô đạo đức, vô học, vô nhân cách và kém văn hoá, kỹ thuật; chứ thủ đoạn chính trị thì thật thâm hiểm, lưu manh, gian trá, quỷ quyệt, tráo trở, lật lọng! Chính sách nào của lũ cộng phỉ cũng cốt là để làm cho người dân miền Nam khốn đốn, kiệt quệ, nghèo đói, dìm sâu con người miền Nam xuống đến tận bùn đen để không còn sức phản kháng lại bọn chúng.
Đầu tiên là «chiến dịch đổi tiền», bọn chúng phát cho mỗi gia đình một số tiền bằng nhau, như vậy mỗi gia đình đều nghèo như nhau, không ai có thể giúp ai được. Để ăn cướp của người dân miền Nam, bọn chúng trắng trợn và trâng tráo tuyên bố vàng, bạc, quý kim, đá quý là thuộc tài sản của nhà nước, ai mua, bán, cất giữ thì bị tịch thu.
Kế đến là «chính sách hộ khẩu», tức là mổi gia đình phải kê khai số người trong gia đình để được mua lương thực (tức là gồm khoai, sắn và gạo mốc) theo tiêu chuẩn, nghĩa là mỗi người (mà chúng gọi là «nhân khẩu») được 13 kg lương thực mổi tháng.
Bao vây như vậy vẫn chưa đủ chặt, bọn cộng phỉ sau đó còn ban hành lệnh cấm người dân mang gạo và các loại hoa màu khác từ vùng này sang vùng khác, bất kể là buôn bán hay chỉ là để cho bà con, con cháu. Thành thử các vùng thôn quê miền Nam (vốn dư thừa lúa gạo) mà lúc bấy giờ cũng không thể đem cho bà con, con cháu ở thành phố; nhiều bà nội, ngoại phải giấu gạo trong lon sữa guigoz để đem lên thành phố nuôi con cháu bị bệnh hoạn, đau ốm…
Như vậy là bọn chúng đã hình thành một cái chuồng gia-súc-người khổng lồ, con vật-người nào ngoan ngoãn thì được cho ăn đủ để sống, con nào đi ra khỏi cái chuồng đó thì chỉ có chết đói.
Chính sách này của bọn chúng còn thâm hiểm và ác độc ở chỗ mà Miền Nam ngày trước không có là không thể có cái việc «các má, các chị nuôi giấu cán bộ giải phóng trong nhà» như lũ giặc cướp cộng phỉ đã đĩ miệng, phỉnh phờ lừa gạt những người dân nhẹ dạ theo chúng trước đây.
Ba tôi rồi cũng đi tù lao động khổ sai như bao nhiêu sĩ quan, công chức Miền Nam khác, Mẹ tôi ở lại một mình phải nuôi bầy con nhỏ. Bây giờ mổi khi hồi tưởng lại đoạn đời đã qua, tôi vẫn tự hỏi, nếu mình là mẹ mình hồi đó, liệu mình có thể bươn chải một mình để vừa nuôi chồng trong tù, vừa nuôi một đàn con dại như vậy không? Trong lòng tôi vẫn luôn có một bông hồng cảm phục dành cho Mẹ tôi và những phụ nữ như Mẹ tôi đã đi qua đoạn đời khắc nghiệt xưa đó.
Từ một công chức cạo giấy Mẹ tôi trở thành “bà bán chợ trời” (bán các đồ dùng trong nhà để mua gạo ăn), rồi sau khi kiếm được chút vốn đã “tiến lên” thành một «bà bán vé số, thuốc lá lẻ» đầu đường.
Thời đó, cái thời chi mà khốn khổ ! Mẹ tôi buôn bán được vài bữa thì phải tạm nghỉ vì hễ khi có «chiến dịch làm sạch lòng, lề đường», bọn công an đuổi bắt những người buôn bán vặt như Mẹ tôi, thì phải đợi qua “chiến dịch” rồi mới ra buôn bán lại được. Có khi Mẹ tôi đẩy xe vô nhà sớm hơn thường lệ, nằm thở dài, hỏi ra mới biết Mẹ tôi bị quân lưu manh lường gạt, cụt hết vốn.
Thời bấy giờ, do chính sách «bần cùng hoá nhân dân» của lũ giặc cướp cộng phỉ miền bắc đã tạo ra những tên lưu manh, trộm cắp nhiều như nấm. Có tên đến gạt Mẹ tôi đổi vé số trúng mà kỳ thật là vé số cạo sửa, vậy là Mẹ tôi cụt vốn; có tên đến vờ hỏi mua nguyên một gói thuốc lá Jet (thời đó người ta thường chỉ mua một, hai điếu thuốc lẻ, nên bán được nguyên gói thuốc là mừng lắm), thế rồi hắn xé bao lấy một điếu, rồi giả bộ đổi ý, trả gói thuốc lại, chỉ lấy một điếu thôi, vài ngày sau Mẹ tôi mới biết là hắn đã tráo gói thuốc giả!
Một buổi tối, tôi ra ngồi chờ để phụ Mẹ tôi đẩy xe thuốc vô nhà, thì có một tên bộ đội, còn trẻ cỡ tuổi tôi, đội nón cối, mặc áo thun ba lỗ, quần xà lỏn (chắc là đóng quân đâu gần đó) đến mua thuốc lá.
Hồi đó, bọn bộ đội cộng phỉ, vốn bản chất xảo trá, quỷ quyệt cộng với cái bản chất hèn hạ, nên thường che giấu không mang quân hàm, nên chẳng ai biết lũ chúng là cấp bậc nào, chỉ đoán là tên nào trẻ, mặt mày ngố ngố đần độn là lũ bộ đội thường, cấp nhỏ, tên nào người lùn tẹt, răng hô, môi tím tái, da xanh bủng, mặt mày thâm hiểm, quắt queo, kinh tởm như mặt loài chuột bẩn thỉu thì có thể là lũ công an hay chính trị viên…
Tên bộ đội hỏi mua 3 điếu thuốc Vàm Cỏ, rồi đưa ra tờ giấy một đồng đã rách chỉ còn hơn một nửa. Mẹ tôi nói:
  • «Anh đổi cho tờ bạc khác, tờ ni rách rồi, người ta không ăn».
Tên bộ đội trẻ măng bỗng đổi sắc mặt, cao giọng lạnh lùng:
  • «Chúng tôi chưa tuyên bố là tiền này không tiêu được!».
À, thì ra những thằng oắt con cộng phỉ rừng rú, lếu láo, vô học và vô nhân cách này cũng biết lên giọng của kẻ chiến thắng (nhờ cúi đầu làm tay sai đánh thuê cho bọn ngoại bang Trung Cộng – Liên Xô), giọng của kẻ nhân danh một chính quyền ! Lúc này, tôi mới sực thấy cái quần xà lỏn màu vàng mà tên thổ phỉ rừng rú này đang mặc được may bằng lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ !
Mẹ tôi lẳng lặng lấy tờ tiền rách và đưa cho hắn 3 điếu thuốc. Khi hắn đã đi xa, Mẹ tôi vò tờ bạc vất xuống cống và nói nhỏ đủ cho tôi nghe:
  • «Thôi kệ, một đồng bạc, cãi lẫy làm chi cho mệt! Thí cho bọn cô hồn ăn cướp đó đi ! Hắn mặc cái quần… làm chi rứa, thắng trận rồi thì thôi, sỉ nhục người ta làm chi nữa, con hỉ?».
Thì ra Mẹ tôi cũng đã nhận ra cái quần hắn mặc may bằng lá Cờ Vàng Quốc Gia và điều mà Mẹ tôi quan tâm nhiều hơn là lá cờ, chứ không phải tờ bạc rách!
Khi bọn cộng phỉ mới chiếm Miền Nam, nhiều người vẫn tưởng bọn cộng phỉ cũng là người Việt, không lẽ họ lại đày đoạ đồng bào. Nhưng sau nhiều năm tháng sống dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu ra rằng bọn cộng phỉ xem dân Miền Nam như kẻ thù muôn kiếp, bọn chúng tự cho bọn chúng là phe chiến thắng «vẻ vang» và có quyền cai trị tuyệt đối đám dân xem như không cùng chủng tộc này.
Một hôm, đang ngồi bán thuốc lá, Mẹ tôi tất tả vô nhà, kêu đứa em tôi ra ngồi bán để mẹ đi có việc gì đó. Một lúc sau Mẹ tôi trở về và kể cho chúng tôi một câu chuyện thật ngộ nghĩnh. Mẹ kể:
  • «Mẹ đang ngồi ngoài đó thì nghe mấy bà rủ nhau chạy đi coi người ta treo Cờ Quốc Gia trên ngọn cây. Té ra không phải, có cái bao ny-lông màu vàng có dãi đỏ, chắc là gió thổi mắc tuốt trên ngọn cây cao lắm, người ta tưởng là Cờ Vàng Quốc Gia. Mà lạ lắm con, có con chó nó cứ dòm lên cây mà sủa ra vẻ mừng rỡ lắm, rứa mới lạ, chắc là điềm trời rồi !».
Mẹ tôi là vậy đó, bà hay tin dị đoan, nhưng chính ra là Mẹ tôi nhìn mọi việc bằng tình cảm trong lòng mình.
Thời gian trôi mãi không ngừng… Cuối cùng rồi Ba tôi cũng may mắn sống sót trở về sau gần 10 năm trong lao tù khổ sai cộng sản, Mẹ tôi vẫn bán thuốc lá lẻ, chúng tôi sau nhiều lần bị đánh rớt Đại Học, đành phải tìm việc vặt vãnh để kiếm sống.
Đôi khi tôi tự hỏi, cuộc đời mình sẽ ra sao, liệu mình có thể có một mái gia đình, vợ con như bao người khác không trong khi mà cả gia đình mình không hề thấy một con đường nào trước mặt để vươn lên, để sinh sống với mức trung bình!? «Mọi người sinh ra đều bình đẳng… và ai cũng được quyền mưu cầu hạnh phúc…»
Câu ấy nghe có vẻ hiển nhiên và dễ dàng quá; nhưng phải sống dưới chế độ cộng sản, việc gì cũng bị truy xét lý lịch đến ba đời, mới thấm thía ý nghĩa và hiểu được vì sao người ta dùng câu ấy để mở đầu cho bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bất hủ.
Một ngày khoảng đầu năm 1990, bọn công an phường đến đưa cho Ba tôi một tờ giấy có tiêu đề và đóng dấu của công an thành phố, nội dung vỏn vẹn “đến làm việc”. Gia đình tôi lo sợ là Ba tôi sẽ bị bắt vô tù lại, Ba tôi thì lẳng lặng mặc áo ra đi, hình như các ông sĩ quan đi tù khổ sai của bọn cộng phỉ về đều trở thành triết gia, bình thản chấp nhận thực tại. Hay là thân phận của con cá nằm trên thớt, thôi thì muốn băm vằm gì tuỳ ý.
Rồi Ba tôi về nhà với một tin vui mà cả nhà tôi có nằm mơ cũng không thấy được, bọn công an thành phố kêu Ba tôi về làm đơn nộp cho Sở Ngoại Vụ vì gia đình tôi đã được cho đi định cư ở Hoa Kỳ! Thật không sao kể xiết nỗi vui mừng của gia đình tôi với tin này, đang từ một cuộc sống tuyệt vọng nơi quê nhà mà nay được ra đi đến một quốc gia tự do, giàu mạnh nhất thế giới!
Những ngày sau đó lại cũng là Mẹ tôi đi vay mượn, bán những món đồ cuối cùng trong nhà chỉ để có tiền làm bản sao photocopy các giấy tờ “Ra Trại” của Ba tôi, khai sinh của chúng tôi, đóng tiền cho “Dịch Vụ”… để làm thủ tục xuất cảnh.
Chỉ khoảng 6 tháng sau là gia đình tôi lên máy bay để bay qua trại chuyển tiếp bên Thái Lan. Tôi lên máy bay, ngồi nhìn xuống phi trường Tân Sơn Nhứt dưới kia mà nước mắt cứ trào ra không ngăn được.
Thế là hết, đất nước này của tôi, thành phố Sài Gòn này của tôi, nơi mà tôi sinh ra và lớn lên, một lát nữa đây sẽ vĩnh viễn rời xa, bao nhiêu vui buồn ở đây, mai sau chỉ còn trong kỷ niệm! Tôi quay lại nhìn thấy Ba tôi mặt không lộ vẻ vui buồn gì cả, còn Mẹ tôi thì nhắm mắt như đang cầu nguyện và Mẹ tôi cứ nhắm mắt như thế trong suốt chuyến bay cho đến khi đặt chân xuống Thái Lan, Mẹ tôi mới nói:
  • “Bây giờ mới tin là mình thoát rồi!”.
Sau khoảng 3 tuần ở Thái Lan, gia đình chúng tôi lên máy bay qua Nhật, rồi đổi máy bay, bay đến San Francisco, California, Hoa Kỳ.
Ngày đầu tiên đến Mỹ được người bà con chở đi siêu thị của người Việt, thấy lá cờ Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới trên mái nhà, Mẹ tôi nói:
  • «Úi chao, lâu lắm mình mới thấy lại lá cờ ni, cái Lá Cờ Quốc Gia VNCH của mình răng mà hắn hiền lành, dễ thương hí?»
Rồi Mẹ kêu tôi đi hỏi mua cho mẹ một lá Cờ Quốc Gia VNCH bằng vải, đem về cất vào ngăn trên trong tủ thờ.
Chúng tôi dần dần ổn định cuộc sống, cả nhà đều ghi tên học College, Mẹ tôi cũng đi học College nữa và xem ra bà rất hứng thú với các lớp ESL (English as a Second Language); đặc biệt là các lớp có viết essays (luận văn).
Mẹ tôi viết luận văn rất ngộ nghĩnh, thí dụ đề tài là «Bạn hãy nói các điểm giống nhau và khác nhau của một sự việc gì đó giữa nước Mỹ và nước của bạn» thì Mẹ tôi lại viết về lá Cờ Quốc Gia. Ý Mẹ tôi (mà chắc chỉ có mình tôi hiểu được) là nước Việt Nam có đến hai lá cờ khác nhau với hai chế độ tương phản nhau mà người Mỹ thời này hay ngộ nhận cờ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng của Việt cộng; trong khi lá cờ đó không phải là lá cờ thiêng liêng của người Việt tại Mỹ.
Rải rác trong suốt bài luận văn dài tràng giang đại hải của Mẹ tôi là những mẩu chuyện thật mà Mẹ tôi đã trải qua suốt thời gian sống dưới chế độ cộng phỉ man rợ. Mẹ tôi kể là mẹ thấy bà giáo Mỹ đọc say mê (tôi nghĩ có lẽ là bà giáo Mỹ sống ở nước tự do, dân chủ không thể ngờ là có những chuyện chà đạp, bức hiếp con người như thế dưới chế độ cộng sản tàn ác và man rợ).
Khi bài được trả lại, tôi cầm bài luận của Mẹ tôi xem thì thấy bà giáo phê chi chít ngoài lề không biết bao nhiêu là chữ đỏ: «interesting!», «Narrative», «I can’t believe it!”… . và cuối cùng bà cho một điểm “D” vì… lạc đề!
Cuộc sống chúng tôi dần dần ổn định, vô Đại Học, lấy được bằng cấp, chứng chỉ, rồi đi làm, cuộc sống theo tôi như thế là quá hạnh phúc rồi.
Dạo đó, có anh chàng Trần Trường nào đó ở miền Nam California, tự nhiên giở chứng đem treo lá cờ đỏ sao vàng bẩn thỉu kinh tởm của bọn cộng phỉ trong tiệm băng nhạc của anh ta làm cho người Việt quanh vùng nổi giận,
Đồng bào tỵ nạn đã đem cả ngàn Lá Cờ Quốc Gia, Nền Vàng Ba Sọc Đỏ đến biểu tình trước tiệm anh ta suốt mấy ngày đêm. Mẹ tôi ngồi chăm chú xem trên truyền hình và nói với tôi:
  • “Tinh thần của người ta còn cao lắm chớ, mai mốt đây mà về thì phải biết!”
Ý Mẹ tôi nói là sau này khi không còn cộng sản ở Việt Nam nữa thì chắc đồng bào sẽ hân hoan trở về treo lên cả rừng Cờ Quốc Gia chớ không phải chỉ chừng này đâu.
Thời gian trôi nhanh quá, chúng tôi đã xa quê hương gần 20 năm, Việt cộng vẫn còn đó, vẫn cai trị đất nước tôi. Sau này do chúng tôi, kể cả cha chúng tôi nữa, đều học xong và ra đi làm, không ai có thể chở Mẹ tôi đi học ESL nữa nên Mẹ tôi phải ở nhà thui thủi một mình, buồn lắm. Có lần tôi hỏi mẹ có muốn về Việt Nam một chuyến để thăm bà con lần cuối không, Mẹ tôi nói:
  • “Không, về làm chi, rồi mình nhớ lại cảnh cũ, mình thêm buồn; khi mô mà hoà bình rồi thì mẹ mới về!”
Ý mẹ nói “hoà bình” nghĩa là khi không còn cộng sản nữa.
Rồi Mẹ tôi bệnh, đưa vô nhà thương, bác sĩ chẩn đoán Mẹ tôi bị ung thư phổi, cho về nhà để Hospice Care đến chăm sóc (Hospice là các tổ chức thiện nguyện ở khắp nước Mỹ, nhiệm vụ của họ là cung cấp phương tiện, thuốc men miễn phí nhằm giảm nhẹ đau đớn cho những người bệnh không còn cứu chữa được nữa). Mẹ tôi mất không lâu sau đó. Mẹ nằm lại đất nước Mỹ này và vĩnh viễn không còn nhìn thấy lại quê hương mình lần nào nữa.
Trong lúc lục giấy tờ để làm khai tử cho mẹ, tôi tìm thấy chiếc ví nhỏ mà Mẹ tôi vẫn thường dùng để đựng ít tiền và các giấy tờ tuỳ thân như thẻ an sinh xã hội, thẻ căn cước… Trong một ngăn ví là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bằng giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín dụng mà có lẽ Mẹ tôi đã cắt ra từ một tờ báo nào đó.
Tôi bồi hồi xúc động, thì ra Mẹ tôi vẫn giữ mãi lá Cờ Quốc Gia bên mình, có lẽ lá Cờ Vàng hiền lành này đối với Mẹ tôi cũng thiêng liêng như linh hồn của những người đã anh dũng chiến đấu và hy sinh để bảo vệ Tự Do, Công Bằng và Bác Ái cho Miền Nam Việt Nam. 
(Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

Mẹ Tôi & Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

Mẹ tôi chỉ là một thư ký cho một công sở ở Sài Gòn trước năm 1975. Vào cái trưa ngày 30/04/1975, khi biết chắc miền Nam đã thất thủ và bọn giặc cướp cộng phỉ đang từ từ tiến vô Sài Gòn, Mẹ tôi lặng lẽ mở tủ lấy lá Cờ Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, bỏ vô chiếc thau đồng vẫn thường để đốt vàng bạc trong các dịp cúng giỗ trong gia đình, rồi đem xuống bếp, thắp ba cây nhang lâm râm khấn vái trước khi châm lửa đốt.
Lúc đó, chúng tôi cũng biết việc cất giữ những gì thuộc về chế độ cũ sẽ mang tới tai hoạ cho gia đình, huống chi là lá Cờ Quốc Gia, nên Mẹ tôi phải đốt đi; nhưng những điều mà Mẹ tôi giải thích sau đó về việc khấn vái trước khi đốt lá cờ mang một ý nghĩa khác hơn mà suốt đời tôi không quên được. Mẹ tôi nói:
  • «Biết bao nhiêu anh Chiến Sĩ Quốc Gia đã chết dưới lá cờ ni, chừ vì thời thế mà mình phải đốt đi, mình cũng phải xin phép người ta một tiếng!».
Thế rồi, những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản man rợ bắt đầu đến với người dân miền Nam. Như bao nhiêu gia đình khác, gia đình tôi ngơ ngác, bàng hoàng qua những chiến dịch, chính sách liên tiếp của bọn Việt cộng; hết “chiến dịch đổi tiền”, “chính sách lương thực, hộ khẩu”, đến “chính sách học tập cải tạo đối với nguỵ quân, nguỵ quyền”, “chiến dịch đánh tư sản mại bản”, «chính sách kinh tế mới » … và nhiều nữa không thể nào kể hết.
Ai nói lũ cộng phỉ ngu ngốc, chứ riêng tôi thì thấy bọn chúng chỉ là một loài vô đạo đức, vô học, vô nhân cách và kém văn hoá, kỹ thuật; chứ thủ đoạn chính trị thì thật thâm hiểm, lưu manh, gian trá, quỷ quyệt, tráo trở, lật lọng! Chính sách nào của lũ cộng phỉ cũng cốt là để làm cho người dân miền Nam khốn đốn, kiệt quệ, nghèo đói, dìm sâu con người miền Nam xuống đến tận bùn đen để không còn sức phản kháng lại bọn chúng.
Đầu tiên là «chiến dịch đổi tiền», bọn chúng phát cho mỗi gia đình một số tiền bằng nhau, như vậy mỗi gia đình đều nghèo như nhau, không ai có thể giúp ai được. Để ăn cướp của người dân miền Nam, bọn chúng trắng trợn và trâng tráo tuyên bố vàng, bạc, quý kim, đá quý là thuộc tài sản của nhà nước, ai mua, bán, cất giữ thì bị tịch thu.
Kế đến là «chính sách hộ khẩu», tức là mổi gia đình phải kê khai số người trong gia đình để được mua lương thực (tức là gồm khoai, sắn và gạo mốc) theo tiêu chuẩn, nghĩa là mỗi người (mà chúng gọi là «nhân khẩu») được 13 kg lương thực mổi tháng.
Bao vây như vậy vẫn chưa đủ chặt, bọn cộng phỉ sau đó còn ban hành lệnh cấm người dân mang gạo và các loại hoa màu khác từ vùng này sang vùng khác, bất kể là buôn bán hay chỉ là để cho bà con, con cháu. Thành thử các vùng thôn quê miền Nam (vốn dư thừa lúa gạo) mà lúc bấy giờ cũng không thể đem cho bà con, con cháu ở thành phố; nhiều bà nội, ngoại phải giấu gạo trong lon sữa guigoz để đem lên thành phố nuôi con cháu bị bệnh hoạn, đau ốm…
Như vậy là bọn chúng đã hình thành một cái chuồng gia-súc-người khổng lồ, con vật-người nào ngoan ngoãn thì được cho ăn đủ để sống, con nào đi ra khỏi cái chuồng đó thì chỉ có chết đói.
Chính sách này của bọn chúng còn thâm hiểm và ác độc ở chỗ mà Miền Nam ngày trước không có là không thể có cái việc «các má, các chị nuôi giấu cán bộ giải phóng trong nhà» như lũ giặc cướp cộng phỉ đã đĩ miệng, phỉnh phờ lừa gạt những người dân nhẹ dạ theo chúng trước đây.
Ba tôi rồi cũng đi tù lao động khổ sai như bao nhiêu sĩ quan, công chức Miền Nam khác, Mẹ tôi ở lại một mình phải nuôi bầy con nhỏ. Bây giờ mổi khi hồi tưởng lại đoạn đời đã qua, tôi vẫn tự hỏi, nếu mình là mẹ mình hồi đó, liệu mình có thể bươn chải một mình để vừa nuôi chồng trong tù, vừa nuôi một đàn con dại như vậy không? Trong lòng tôi vẫn luôn có một bông hồng cảm phục dành cho Mẹ tôi và những phụ nữ như Mẹ tôi đã đi qua đoạn đời khắc nghiệt xưa đó.
Từ một công chức cạo giấy Mẹ tôi trở thành “bà bán chợ trời” (bán các đồ dùng trong nhà để mua gạo ăn), rồi sau khi kiếm được chút vốn đã “tiến lên” thành một «bà bán vé số, thuốc lá lẻ» đầu đường.
Thời đó, cái thời chi mà khốn khổ ! Mẹ tôi buôn bán được vài bữa thì phải tạm nghỉ vì hễ khi có «chiến dịch làm sạch lòng, lề đường», bọn công an đuổi bắt những người buôn bán vặt như Mẹ tôi, thì phải đợi qua “chiến dịch” rồi mới ra buôn bán lại được. Có khi Mẹ tôi đẩy xe vô nhà sớm hơn thường lệ, nằm thở dài, hỏi ra mới biết Mẹ tôi bị quân lưu manh lường gạt, cụt hết vốn.
Thời bấy giờ, do chính sách «bần cùng hoá nhân dân» của lũ giặc cướp cộng phỉ miền bắc đã tạo ra những tên lưu manh, trộm cắp nhiều như nấm. Có tên đến gạt Mẹ tôi đổi vé số trúng mà kỳ thật là vé số cạo sửa, vậy là Mẹ tôi cụt vốn; có tên đến vờ hỏi mua nguyên một gói thuốc lá Jet (thời đó người ta thường chỉ mua một, hai điếu thuốc lẻ, nên bán được nguyên gói thuốc là mừng lắm), thế rồi hắn xé bao lấy một điếu, rồi giả bộ đổi ý, trả gói thuốc lại, chỉ lấy một điếu thôi, vài ngày sau Mẹ tôi mới biết là hắn đã tráo gói thuốc giả!
Một buổi tối, tôi ra ngồi chờ để phụ Mẹ tôi đẩy xe thuốc vô nhà, thì có một tên bộ đội, còn trẻ cỡ tuổi tôi, đội nón cối, mặc áo thun ba lỗ, quần xà lỏn (chắc là đóng quân đâu gần đó) đến mua thuốc lá.
Hồi đó, bọn bộ đội cộng phỉ, vốn bản chất xảo trá, quỷ quyệt cộng với cái bản chất hèn hạ, nên thường che giấu không mang quân hàm, nên chẳng ai biết lũ chúng là cấp bậc nào, chỉ đoán là tên nào trẻ, mặt mày ngố ngố đần độn là lũ bộ đội thường, cấp nhỏ, tên nào người lùn tẹt, răng hô, môi tím tái, da xanh bủng, mặt mày thâm hiểm, quắt queo, kinh tởm như mặt loài chuột bẩn thỉu thì có thể là lũ công an hay chính trị viên…
Tên bộ đội hỏi mua 3 điếu thuốc Vàm Cỏ, rồi đưa ra tờ giấy một đồng đã rách chỉ còn hơn một nửa. Mẹ tôi nói:
  • «Anh đổi cho tờ bạc khác, tờ ni rách rồi, người ta không ăn».
Tên bộ đội trẻ măng bỗng đổi sắc mặt, cao giọng lạnh lùng:
  • «Chúng tôi chưa tuyên bố là tiền này không tiêu được!».
À, thì ra những thằng oắt con cộng phỉ rừng rú, lếu láo, vô học và vô nhân cách này cũng biết lên giọng của kẻ chiến thắng (nhờ cúi đầu làm tay sai đánh thuê cho bọn ngoại bang Trung Cộng – Liên Xô), giọng của kẻ nhân danh một chính quyền ! Lúc này, tôi mới sực thấy cái quần xà lỏn màu vàng mà tên thổ phỉ rừng rú này đang mặc được may bằng lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ !
Mẹ tôi lẳng lặng lấy tờ tiền rách và đưa cho hắn 3 điếu thuốc. Khi hắn đã đi xa, Mẹ tôi vò tờ bạc vất xuống cống và nói nhỏ đủ cho tôi nghe:
  • «Thôi kệ, một đồng bạc, cãi lẫy làm chi cho mệt! Thí cho bọn cô hồn ăn cướp đó đi ! Hắn mặc cái quần… làm chi rứa, thắng trận rồi thì thôi, sỉ nhục người ta làm chi nữa, con hỉ?».
Thì ra Mẹ tôi cũng đã nhận ra cái quần hắn mặc may bằng lá Cờ Vàng Quốc Gia và điều mà Mẹ tôi quan tâm nhiều hơn là lá cờ, chứ không phải tờ bạc rách!
Khi bọn cộng phỉ mới chiếm Miền Nam, nhiều người vẫn tưởng bọn cộng phỉ cũng là người Việt, không lẽ họ lại đày đoạ đồng bào. Nhưng sau nhiều năm tháng sống dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu ra rằng bọn cộng phỉ xem dân Miền Nam như kẻ thù muôn kiếp, bọn chúng tự cho bọn chúng là phe chiến thắng «vẻ vang» và có quyền cai trị tuyệt đối đám dân xem như không cùng chủng tộc này.
Một hôm, đang ngồi bán thuốc lá, Mẹ tôi tất tả vô nhà, kêu đứa em tôi ra ngồi bán để mẹ đi có việc gì đó. Một lúc sau Mẹ tôi trở về và kể cho chúng tôi một câu chuyện thật ngộ nghĩnh. Mẹ kể:
  • «Mẹ đang ngồi ngoài đó thì nghe mấy bà rủ nhau chạy đi coi người ta treo Cờ Quốc Gia trên ngọn cây. Té ra không phải, có cái bao ny-lông màu vàng có dãi đỏ, chắc là gió thổi mắc tuốt trên ngọn cây cao lắm, người ta tưởng là Cờ Vàng Quốc Gia. Mà lạ lắm con, có con chó nó cứ dòm lên cây mà sủa ra vẻ mừng rỡ lắm, rứa mới lạ, chắc là điềm trời rồi !».
Mẹ tôi là vậy đó, bà hay tin dị đoan, nhưng chính ra là Mẹ tôi nhìn mọi việc bằng tình cảm trong lòng mình.
Thời gian trôi mãi không ngừng… Cuối cùng rồi Ba tôi cũng may mắn sống sót trở về sau gần 10 năm trong lao tù khổ sai cộng sản, Mẹ tôi vẫn bán thuốc lá lẻ, chúng tôi sau nhiều lần bị đánh rớt Đại Học, đành phải tìm việc vặt vãnh để kiếm sống.
Đôi khi tôi tự hỏi, cuộc đời mình sẽ ra sao, liệu mình có thể có một mái gia đình, vợ con như bao người khác không trong khi mà cả gia đình mình không hề thấy một con đường nào trước mặt để vươn lên, để sinh sống với mức trung bình!? «Mọi người sinh ra đều bình đẳng… và ai cũng được quyền mưu cầu hạnh phúc…»
Câu ấy nghe có vẻ hiển nhiên và dễ dàng quá; nhưng phải sống dưới chế độ cộng sản, việc gì cũng bị truy xét lý lịch đến ba đời, mới thấm thía ý nghĩa và hiểu được vì sao người ta dùng câu ấy để mở đầu cho bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bất hủ.
Một ngày khoảng đầu năm 1990, bọn công an phường đến đưa cho Ba tôi một tờ giấy có tiêu đề và đóng dấu của công an thành phố, nội dung vỏn vẹn “đến làm việc”. Gia đình tôi lo sợ là Ba tôi sẽ bị bắt vô tù lại, Ba tôi thì lẳng lặng mặc áo ra đi, hình như các ông sĩ quan đi tù khổ sai của bọn cộng phỉ về đều trở thành triết gia, bình thản chấp nhận thực tại. Hay là thân phận của con cá nằm trên thớt, thôi thì muốn băm vằm gì tuỳ ý.
Rồi Ba tôi về nhà với một tin vui mà cả nhà tôi có nằm mơ cũng không thấy được, bọn công an thành phố kêu Ba tôi về làm đơn nộp cho Sở Ngoại Vụ vì gia đình tôi đã được cho đi định cư ở Hoa Kỳ! Thật không sao kể xiết nỗi vui mừng của gia đình tôi với tin này, đang từ một cuộc sống tuyệt vọng nơi quê nhà mà nay được ra đi đến một quốc gia tự do, giàu mạnh nhất thế giới!
Những ngày sau đó lại cũng là Mẹ tôi đi vay mượn, bán những món đồ cuối cùng trong nhà chỉ để có tiền làm bản sao photocopy các giấy tờ “Ra Trại” của Ba tôi, khai sinh của chúng tôi, đóng tiền cho “Dịch Vụ”… để làm thủ tục xuất cảnh.
Chỉ khoảng 6 tháng sau là gia đình tôi lên máy bay để bay qua trại chuyển tiếp bên Thái Lan. Tôi lên máy bay, ngồi nhìn xuống phi trường Tân Sơn Nhứt dưới kia mà nước mắt cứ trào ra không ngăn được.
Thế là hết, đất nước này của tôi, thành phố Sài Gòn này của tôi, nơi mà tôi sinh ra và lớn lên, một lát nữa đây sẽ vĩnh viễn rời xa, bao nhiêu vui buồn ở đây, mai sau chỉ còn trong kỷ niệm! Tôi quay lại nhìn thấy Ba tôi mặt không lộ vẻ vui buồn gì cả, còn Mẹ tôi thì nhắm mắt như đang cầu nguyện và Mẹ tôi cứ nhắm mắt như thế trong suốt chuyến bay cho đến khi đặt chân xuống Thái Lan, Mẹ tôi mới nói:
  • “Bây giờ mới tin là mình thoát rồi!”.
Sau khoảng 3 tuần ở Thái Lan, gia đình chúng tôi lên máy bay qua Nhật, rồi đổi máy bay, bay đến San Francisco, California, Hoa Kỳ.
Ngày đầu tiên đến Mỹ được người bà con chở đi siêu thị của người Việt, thấy lá cờ Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới trên mái nhà, Mẹ tôi nói:
  • «Úi chao, lâu lắm mình mới thấy lại lá cờ ni, cái Lá Cờ Quốc Gia VNCH của mình răng mà hắn hiền lành, dễ thương hí?»
Rồi Mẹ kêu tôi đi hỏi mua cho mẹ một lá Cờ Quốc Gia VNCH bằng vải, đem về cất vào ngăn trên trong tủ thờ.
Chúng tôi dần dần ổn định cuộc sống, cả nhà đều ghi tên học College, Mẹ tôi cũng đi học College nữa và xem ra bà rất hứng thú với các lớp ESL (English as a Second Language); đặc biệt là các lớp có viết essays (luận văn).
Mẹ tôi viết luận văn rất ngộ nghĩnh, thí dụ đề tài là «Bạn hãy nói các điểm giống nhau và khác nhau của một sự việc gì đó giữa nước Mỹ và nước của bạn» thì Mẹ tôi lại viết về lá Cờ Quốc Gia. Ý Mẹ tôi (mà chắc chỉ có mình tôi hiểu được) là nước Việt Nam có đến hai lá cờ khác nhau với hai chế độ tương phản nhau mà người Mỹ thời này hay ngộ nhận cờ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng của Việt cộng; trong khi lá cờ đó không phải là lá cờ thiêng liêng của người Việt tại Mỹ.
Rải rác trong suốt bài luận văn dài tràng giang đại hải của Mẹ tôi là những mẩu chuyện thật mà Mẹ tôi đã trải qua suốt thời gian sống dưới chế độ cộng phỉ man rợ. Mẹ tôi kể là mẹ thấy bà giáo Mỹ đọc say mê (tôi nghĩ có lẽ là bà giáo Mỹ sống ở nước tự do, dân chủ không thể ngờ là có những chuyện chà đạp, bức hiếp con người như thế dưới chế độ cộng sản tàn ác và man rợ).
Khi bài được trả lại, tôi cầm bài luận của Mẹ tôi xem thì thấy bà giáo phê chi chít ngoài lề không biết bao nhiêu là chữ đỏ: «interesting!», «Narrative», «I can’t believe it!”… . và cuối cùng bà cho một điểm “D” vì… lạc đề!
Cuộc sống chúng tôi dần dần ổn định, vô Đại Học, lấy được bằng cấp, chứng chỉ, rồi đi làm, cuộc sống theo tôi như thế là quá hạnh phúc rồi.
Dạo đó, có anh chàng Trần Trường nào đó ở miền Nam California, tự nhiên giở chứng đem treo lá cờ đỏ sao vàng bẩn thỉu kinh tởm của bọn cộng phỉ trong tiệm băng nhạc của anh ta làm cho người Việt quanh vùng nổi giận,
Đồng bào tỵ nạn đã đem cả ngàn Lá Cờ Quốc Gia, Nền Vàng Ba Sọc Đỏ đến biểu tình trước tiệm anh ta suốt mấy ngày đêm. Mẹ tôi ngồi chăm chú xem trên truyền hình và nói với tôi:
  • “Tinh thần của người ta còn cao lắm chớ, mai mốt đây mà về thì phải biết!”
Ý Mẹ tôi nói là sau này khi không còn cộng sản ở Việt Nam nữa thì chắc đồng bào sẽ hân hoan trở về treo lên cả rừng Cờ Quốc Gia chớ không phải chỉ chừng này đâu.
Thời gian trôi nhanh quá, chúng tôi đã xa quê hương gần 20 năm, Việt cộng vẫn còn đó, vẫn cai trị đất nước tôi. Sau này do chúng tôi, kể cả cha chúng tôi nữa, đều học xong và ra đi làm, không ai có thể chở Mẹ tôi đi học ESL nữa nên Mẹ tôi phải ở nhà thui thủi một mình, buồn lắm. Có lần tôi hỏi mẹ có muốn về Việt Nam một chuyến để thăm bà con lần cuối không, Mẹ tôi nói:
  • “Không, về làm chi, rồi mình nhớ lại cảnh cũ, mình thêm buồn; khi mô mà hoà bình rồi thì mẹ mới về!”
Ý mẹ nói “hoà bình” nghĩa là khi không còn cộng sản nữa.
Rồi Mẹ tôi bệnh, đưa vô nhà thương, bác sĩ chẩn đoán Mẹ tôi bị ung thư phổi, cho về nhà để Hospice Care đến chăm sóc (Hospice là các tổ chức thiện nguyện ở khắp nước Mỹ, nhiệm vụ của họ là cung cấp phương tiện, thuốc men miễn phí nhằm giảm nhẹ đau đớn cho những người bệnh không còn cứu chữa được nữa). Mẹ tôi mất không lâu sau đó. Mẹ nằm lại đất nước Mỹ này và vĩnh viễn không còn nhìn thấy lại quê hương mình lần nào nữa.
Trong lúc lục giấy tờ để làm khai tử cho mẹ, tôi tìm thấy chiếc ví nhỏ mà Mẹ tôi vẫn thường dùng để đựng ít tiền và các giấy tờ tuỳ thân như thẻ an sinh xã hội, thẻ căn cước… Trong một ngăn ví là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bằng giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín dụng mà có lẽ Mẹ tôi đã cắt ra từ một tờ báo nào đó.
Tôi bồi hồi xúc động, thì ra Mẹ tôi vẫn giữ mãi lá Cờ Quốc Gia bên mình, có lẽ lá Cờ Vàng hiền lành này đối với Mẹ tôi cũng thiêng liêng như linh hồn của những người đã anh dũng chiến đấu và hy sinh để bảo vệ Tự Do, Công Bằng và Bác Ái cho Miền Nam Việt Nam. 
(Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

Tuesday, April 20, 2021

CHÚNG TÔI VẪN SỐNG - Huỳnh Kỳ Anh Tú

Tôi là một bác sĩ, sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn nhưng sau này tôi đi du học và đã định cư tại nước ngoài từ lâu. Nhân tháng 4 năm nay, tôi muốn viết một thông điệp cho gia đình, bạn bè tôi, cùng tất cả những người từng là công dân Việt Nam Cộng Hòa, con cháu của họ, nhất là những đứa trẻ cùng thế hệ 8X như tôi.
Cha tôi là một sĩ quan quân lực VNCH, cấp bậc Trung úy. Ông có may mắn hơn nhiều bạn bè, khi chỉ phải đi tù cải tạo một thời gian ngắn. Năm 1979 cha tôi ra tù và về sống ở Sài Gòn (xin lỗi vì tôi không thể viết tên của kẻ tội đồ dân tộc mình), một năm sau tôi sinh ra.
Từ khi tôi biết nhận thức thế giới xung quanh cho tới năm 18 tuổi, cha và mẹ KHÔNG BAO GIỜ nói với tôi bất cứ điều gì có liên quan đến chính trị hay nói xấu chế độ mới, cha tôi sống hiền lành, nhẫn nhục nuôi con cái, hòa đồng với tổ dân phố. Cha ghét chiến tranh và không bao giờ nhắc đến thời chiến đấu xa xưa của mình, đến mức không cho tôi chơi những món đồ chơi như súng, máy bay. Mẹ tôi thì cấm tôi nghe nhạc vàng hay những bài ca về lính, dù vậy sau này tôi vẫn lén nghe. Họ để cho tôi tự do lựa chọn con đường mình đi, ngay cả tôn giáo. Vì thế những gì tôi viết cho các bạn xem đưới đây là do CHÍNH BẢN THÂN tôi nhận thức được từ cuộc sống xung quanh mình.
Với tính cách giang hồ lãng tử của cha tôi, trước 30-4 ông vốn đã không coi trọng tiền bạc, không nhà cửa, tiền vàng, chỉ có 2 bàn tay, chiếc xe máy cùng người vợ hiền nên sau 30-4 ông không mất gì cả về vật chất. Tuy nhiên, nỗi mất mát về tinh thần ám ảnh ông suốt đời như một vết thương không bao giờ lành được.
Nhà tôi rất nghèo, lại phải chịu bất công từ mọi phía, mẹ tôi bị ép phải nghỉ sớm do lý lịch của cha, bà phải đi buôn thuốc men, thực phẩm để nuôi tôi lớn. Lúc tôi 3-4 tuổi cha tôi đi làm vắng nhà cả ngày, ông làm đủ thứ nghề, buôn bán hàng phế liệu, đạp xích lô, đến tối mịt mới về nhà. Ngày nghỉ ông chở tôi lang thang trên các con đường ở Sài Gòn bằng chiếc xe đạp. Đường phố Sài Gòn thập niên 80 còn hoang vắng, tôi để ý một điều là ông luôn gọi những con đường bằng tên cũ, chỉ cho tôi những tòa nhà và tên gọi của chúng, nhiều khi tôi thấy ông dừng rất lâu ở một nơi nào đó và khóc.
Lớn lên một chút, ông luôn tìm cách hướng tôi về những điều chân thiện mỹ, thay vì phó mặc cho sự nhồi sọ của trường lớp, đội nhóm. Tôi còn nhớ ông mua sách báo cũ thời VNCH cho tôi đọc, nhất là Thiếu Nhi tuần báo. Ngày tôi được kết nạp đội, cha tôi ôm tôi vào lòng và ông rất buồn, nhưng ông dắt tôi đi xem phim Batman và đêm đó trước khi ngủ kể cho tôi nghe ông đã phải đi bộ hơn 5 cây số để mua sữa cho tôi uống như thế nào.
Tôi nhìn ra rất sớm sự giả dối, bất công, ngay trong trường lớp của mình, những bài văn mẫu, những người thầy ép học sinh học thêm tại nhà, những bài học lịch sử dối trá.
Tôi muốn nói một điều với các bạn cùng lứa tuổi, rằng thế hệ sinh ra năm 78-80 tại Sài Gòn như chúng tôi PHẢI nhận thức rõ một điều rằng: Dù thể chế Việt Nam Cộng Hòa đã chết vào ngày 30/4/1975, nhưng nó vẫn tiếp tục cưu mang, nuôi dưỡng những đứa trẻ như tôi bằng tất cả máu thịt từ còn sót lại. Bọn cộng sản KHÔNG góp một chút công ơn nào hết trong việc nuôi dưỡng, che chở và giáo dục chúng tôi, thậm chí ngược lại là khác, chính bọn chúng là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ, bất công, rủi ro cho số phận những đứa trẻ sinh ra giai đoạn này.
Tôi ra đời trong một nhà bảo sinh của VNCH, khi tôi đau ốm, các bác sĩ và nữ hộ sinh được đào tạo từ ngành y tế VNCH đã chăm sóc cho tôi, dù họ là những người bị ngược đãi, phải sống cực khổ ăn không đủ no vì chính sách nô dịch của cộng sản, nhưng vẫn giữ trọn y đức và trách nhiệm. Từ khi cắp sách đến trường tôi may mắn hơn những đứa trẻ miền Bắc, vì được che chở dưới những lớp học, mái trường do cha anh chúng tôi, công dân của VNCH xây nên, chúng tôi may mắn được xem phim trong những rạp ciné hiếm hoi còn sót lại ở Sài gòn của VNCH.
Trong khi đó, bọn cộng sản Bắc Việt đã làm gì cho chúng tôi? Từ tuổi sơ sinh, toàn bộ trẻ em như tôi phải chịu cảnh suy dinh dưỡng, ăn không đủ no, không có sữa để uống. Cha mẹ chúng tôi phải chạy ăn từng bữa, hy sinh những gì tốt nhất cho chúng tôi trong khi họ phải ăn độn bobo, khoai mì. Khi đau ốm bệnh tật không có đủ thuốc men chữa trị, phải đi vay mượn, đi mua kháng sinh ngoài chợ đen. Chúng tôi lớn lên, đứa thì lùn đứa thì còi xương, tội lỗi đó là do ai gây ra? Khi đi học chúng tôi bị nhồi sọ bằng những chuyện dối trá nhảm nhí, bị những cô giáo xã hội chủ nghĩa đánh đập không thương tiếc, phải đi nhặt lon, nhặt rác, dùng những cuốn sách giáo khoa cũ nát, đen thui, đêm về phải học bài dưới ánh đèn dầu tù mù, chịu nóng, muỗi đốt để mà kiếm cho được tấm giấy khen vô nghĩa. Lớn lên một chút, chúng tôi lại bị những thầy cô giáo bóc lột đến tận cùng bằng những chiêu trò dạy thêm tại nhà, ai không đến nhà thầy học thêm thì bị đì, bị đối xử bất công trên lớp. Lúc trưởng thành ra đời thì tương lai u tối vì 2 chữ lý lịch gia đình, phải hối lộ đút lót khắp mọi nơi mới kiếm được miếng ăn.
Tôi lại muốn nói điều này cho bọn cộng sản và con cháu của chúng: Việt Nam Cộng Hòa vẫn sống, và chưa bao giờ chịu khuất phục bởi bạo lực và sự đàn áp của cộng sản. Những người con của thế hệ VNCH vẫn sống, dù nhẫn nhục, nhưng không cúi đầu, không bao giờ chấp nhận đi chung đường với điều ác và dối trá.
Bọn cộng sản không bao giờ khuất phục được ý chí và tinh thần của những công dân VNCH, chúng không bao giờ hiểu được tại sao cha mẹ chúng tôi đặt tên cho con cái mình là Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Khoa Nam hay Phan Nhật Nam (cha tôi đặt tên cho tôi là Huỳnh Kỳ Anh Tú, và tôi tự hào vì điều đó!). Tại sao mấy chục năm nay người ta vẫn thích nghe nhạc của Lam Phương, Trần Thiện Thanh, Trúc Phương và dòng nhạc này đang hồi sinh.
Bọn cộng sản muốn trả thù hèn hạ con cháu của VNCH bằng cách xét lý lịch, thì chúng tôi, những công dân VNCH cũng dùng lý lịch, căn cước của cha anh mình như một dấu hiệu nhận diện nhau, đùm bọc nhau. Cuộc đời tôi đã trải nghiệm không biết bao nhiêu sự ưu đãi, giúp đỡ từ bạn bè của cha tôi, hay thậm chí những người xa lạ, mỗi khi họ tình cờ biết cha tôi từng là sĩ quan quân lực VNCH, một người thầy nổi danh đã nhận tôi vào lớp luyện thi đại học và miễn học phí (hơn 2 triệu đồng) vì tôi là con của lính VNCH, nhiều bác sĩ đã chữa bệnh cho tôi hồi nhỏ không nhận thù lao khi biết cha tôi từng đi lính, một linh mục tại nhà thờ Dòng chúa cứu thế dạy kèm tiếng anh và tiếng Pháp cho tôi suốt 3 năm mà không lấy tiền.
Bọn cộng sản cũng không bao giờ hiểu được tại sao bên cạnh chúng không bao giờ có mặt những người trí thức, nhân tài hậu duệ của VNCH, vì những cá nhân này không bao giờ chấp nhận vào đoàn thanh niên cộng sản, không bao giờ đi làm cho nhà nước, và một khi ra nước ngoài du học không bao giờ quay trở lại để phục vụ cho chúng, chúng có kêu gào 1000 năm nữa và dụ dỗ bằng tiền tài hay danh lợi, những người này cũng sẽ không bao giờ trở về cộng tác với chúng. Chúng chỉ tìm thấy những kẻ cơ hội, bợ đỡ, bất tài và ngu ngốc chấp nhận làm nô lệ cho chúng mà thôi.
Đối với một số người, ngày 30-4 có thể là ngày đau buồn, họ cho đó là quốc hận, một số những kẻ ăn trên ngồi trước thì hoan hỉ ăn mừng, mừng cho việc họ đã giết, cướp chính anh, chị em một nhà của mình, nhưng tôi nhận rõ một điều là Việt Nam cộng hòa vẫn chưa chết, Sài gòn có thể bị chiếm đóng, chúng ta có thể bị đô hộ, nhưng công dân và hậu duệ của VNCH vẫn sống, vẫn vươn lên, vẫn đang giúp đỡ nhau, chúng tôi miễn dịch với mọi sự dối trá và độc ác của cộng sản, nhiều người vẫn đang đi tìm tự do, và sẽ có ngày chân lý sẽ chiến thắng
Huỳnh Kỳ Anh Tú

Monday, April 19, 2021

Sứ Mạng Kinh Kha: Người Nhái Lê Văn Kinh NGƯỜI TÙ HAI MƯƠI NĂM CỦA CỘNG SẢN BẮC VIỆT

Anh Lê Văn Kinh lớn hơn tôi 3 tuổi, là bạn học cùng lớp với tôi ở trường Trung Học Đồng Nai, Sàigòn trong những năm 1951 đến năm 1955. Anh Lê Văn Kinh sanh ngày 15 tháng 2 năm 1935 tại Sa Đéc, Nam Việt Nam trong một gia đình có 9 người con gồm: 3 gái và 6 trai. Sau hai chị, anh Kinh là người con trai lớn nhứt trong gia đình.
Sau khi thi Brevet xong (Anh Kinh học chương trình Pháp. Bằng Brevet tương đương với bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp của Việt Nam), anh Kinh mất tích trong chốn học đường. Sau đó một thòi gian khá lâu, tôi mới biết là anh phải đi làm để giúp gia đình nuôi đàn em dại, nên anh đã hy sinh tương lai của anh để lo cho tương lai của các em. Khi lớn lên, đáp lời sông núi, cả 6 anh em đều đầu quân vào QLVNCH và đã thật sự góp xương máu gìn giữ giang sơn tổ quốc. Người em kế của anh Kinh đi Hải Quân, bị địch pháo kích, đã đền nợ nước. Người em kế tiếp đi Thiếu Sinh Quân, sau trở thành sĩ quan Pháo Binh. Hai em kế nữa đi TQLC, thì một đền nợ nước tại chiến trường Kontum, một trở thành thương phế binh. Người em Út đi Biệt Động Quân cũng trở thành thương phế binh. Riêng anh Kinh thì trở thành người tù 20 năm khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt. Tổng cộng trong 6 anh em của anh Kinh thì 2 người đã dâng mạng sống của mình cho tổ quốc, hai người đã hy sinh một phần thân thể cho quê hương, dân tộc, một người chôn vùi tuổi thanh xuân suốt 20 năm khổ sai trong lao tù Cộng Sản.
Anh Kinh rất to lớn so với khổ trung bình của người Việt Nam. Thật ra, anh cao lớn hơn tất cả các bạn cùng lớp, nhưng anh rất hiền và dễ thương như một thư sinh “khổng lồ”...
Khi vào học khóa 9 SQ/ Hải Quân năm 1959, tôi mới biết anh Kinh và người bạn thân khác, cùng lớp, Lâm Văn Hiếu và Nguyễn Văn Thành đã gia nhập quân chủng Hải Quân trước tôi, từ năm 1955. Hiếu chọn ngành Trọng Pháo, Thành, Giám Lộ, anh Kinh, Vận Chuyển. Hiếu và Thành đều đã đền nợ nước: Hiếu trong Nam, Thành, ngoài Bắc (Lực Lượng Hải Tuần). Sau 5 năm dệt mộng hải hồ, anh Kinh thấy chưa thỏa chí tang bồng, muốn tìm những cảm giác mạnh hơn, những công tác khó khăn hơn, và nguy hiểm hơn: Anh muốn đùa giỡn với tử thần, anh muốn trở thành Người Nhái. 
Năm 1960, anh tình nguyện ghi tên đi học khóa Người Nhái và được gởi đi Đài Loan huấn luyện để trở thành một trong những Người Nhái đầu tiên của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Anh Kinh mà đi Người Nhái thì đúng quá rồi, vì anh có đủ yếu tố cần thiết để trở thành Người Nhái: Thông minh, khỏe mạnh, dẻo dai, chịu đựng, nhẫn nại, hiền nhưng can trường và cương quyết, có biệt tài bơi lội, lặn sâu và lặn xa...Và anh đã thành công. Anh đậu hạng nhì (Lê Quán Thủ Khoa) trong khóa huấn luyện Người Nhái tại Đài Loan. Anh đã trở thành Người Nhái như ước mơ của anh.
Năm 1962, không ảnh của tình báo cho biết có 6 chiến hạm của Cộng Sản Bắc Việt, chia làm 2 toán, mỗi toán 3 chiến hạm thay phiên nhau hoạt động và nghĩ bến. Do đó thường xuyên có một toán gồm 3 chiến hạm đậu nghĩ bến tại quân cảng Quảng Bình, bên trong Ba Đồn, sông Gianh. Người Nhái được lệnh đặt chất nổ phá hủy 3 chiến hạm đậu nghĩ bến. Một chương trình huấn luyện và thực tập đặc biệt về mìn chống chiến hạm và kỹ thuật sử dụng được thực hiện tại Đà Nẵng. Việc tuyển chọn Người Nhái thích hợp cho chuyến công tác bí mật nầy đã được Sở Khai Thác Địa Hình, trực thuộc Phủ Tổng Thống, thi hành hết sức kỷ lưỡng và gắt gao: Anh Nguyễn Văn Chuyên
được chỉ định chỉ huy tổng quát, hướng dẫn 3 Người Nhái khác được tuyển chọn cho công tác đặc biệt này gồm có: Nguyễn Văn Tâm, Lê Văn Kinh và Nguyễn Hữu Thảo. Chương trình huấn luyện và thực tập chỉ chấm dứt sau khi mỗi người trong toán đều thông suốt cách sử dụng loại khí giới hết sức lợi hại này. Tuy đi chung một toán, nhưng mỗi Người Nhái đều có riêng mục tiêu của mình đã được chỉ định trước, cũng như vì lý do an ninh cá nhân, mỗi người đều có trang bị riêng và chỉ Người Nhái đó chịu trách nhiệm việc sử dụng và điều chỉnh trang bị của mình chứ không ai khác được kiểm soát hay đụng tới. Cũng giống như nhảy dù điều khiển, người nhảy phải tự xếp dù của mình, chứ không để ai được đụng tới.
Tháng 5, năm 1962, toán Người Nhái sẵn sàng và lên đường, nhưng chiếc ghe chở toán Người Nhái đi công tác bị phát giác, lộ hành tung, phải trở về căn cứ. Độ một tháng sau, tháng 6, năm 1962, toán Người Nhái của Anh Chuyên được lệnh thi hành công tác trên. Lần này, không bị phát giác. Công tác được thi hành ban đêm. Chiếc ghe lớn chở toán Người Nhái đến cửa sông Gianh thì dừng lại và cho ghe nhỏ hơn chở toán Người Nhái vào quân cảng Quảng Bình, cách các chiến hạm của Cộng Sản Bắc Việt khoảng 100 thước thì dừng lại. Cả 2 ghe lớn và nhỏ đều được ngụy trang giống như ghe đánh cá tại địa phương.
Ba chiến hạm Cộng Sản Bắc Việt đậu song song với nhau sát cầu tàu, ở Ba Đồn. Mục tiêu của anh Kinh là chiến hạm đậu bên trong sát cầu tàu, anh Thảo, chiến hạm thứ 2 (đậu giữa) và chiến hạm đậu bên ngoài là mục tiêu của anh Tâm. Anh Chuyên ở lại ghe nhỏ cùng với ba thủy thủ đoàn chờ đợi đón ba Người Nhái kia sau khi hoàn thành nhiệm vụ để đưa ra ghe lớn trở về căn cứ.
Sau khi nhận diện mục tiêu và kiểm soát lại lần chót trang bị của mình, anh Kinh xuống nước trước, kế đến anh Thảo và cuối cùng là anh Tâm theo thứ tự mục tiêu xa gần, như vậy cả ba sẽ tới mục tiêu cùng một lúc. Cho tới giờ phút đó, mọi việc đều xảy ra như kế hoạch đã định sẵn. Kế hoạch dự trù kế tiếp là điều chỉnh thời nỗ 5 giờ sau mìn mới nổ, để có đủ thì giờ trở về căn cứ an toàn.
Anh Kinh hoàn tất công tác trước, rời khỏi mục tiêu khoảng 20 thước, trồi lên mặt nước để dùng hồng ngoại tuyến định hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ để rước toán của anh trở về ghe lớn sau khi hoàn thành công tác.
Thình lình, một tiếng nổ long trời đẩy anh Kinh văng lên khỏi mặt nước, toàn thân tê dại, anh không còn biết gì nữa. Khi tỉnh dậy, anh mới biết mình là tên tử tù của Cộng Sản Bắc Việt. Dựa theo cáo trạng và nghe lóm cán bộ nói chuyện với nhau trong lúc bị lao tù, anh Kinh cho biết như sau: Vì lý do kỹ thuật, sau khi được đặt vào mục tiêu như đã định, trái mìn của anh Thảo nỗ liền tức khắc (thay vì phải 5 giờ sau mới nỗ) anh Thảo chết banh xác tại chỗ, cả ba chiến hạm cùng nổ tung và chìm theo xác anh Thảo. Sức nổ của 3 quả mìn cùng nổ một lượt đẩy anh Kinh, ở cách đó khoảng 20 thước, văng lên khỏi mặt nước và làm anh bất tỉnh. Anh còn sống quả là phép lạ. Anh Tâm lội ra xa hơn về hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ nhưng sức nổ quá mạnh nên cũng bị bất tỉnh và cũng bị bắt. Riêng chiếc ghe nhỏ, chạy về ghe lớn và lập tức rời mục tiêu, nhưng vì tốc độ chậm, bị chiến đỉnh của Cộng Sản Bắc Việt đuổi kịp, chúng ra lệnh đầu hàng, anh Chuyên không chịu hàng, hai bên bắn nhau, nhưng nhờ hỏa lực mạnh hơn nên cuối cùng chiến đỉnh của Cộng Sản Bắc Việt làm chủ tình hình và đụng chiếc ghe lớn chìm, chỉ một người thoát nạn nhờ núp dưới cánh buồm. Anh Chuyên và một thủy thủ đã đền nợ nước, tất cả thủy thủ đoàn còn lại đều bị bắt.
Ngày 30 tháng 6 năm 1962, anh Kinh bị kết án hai mươi năm khổ sai, anh Tâm bị kết án chung thân khổ sai. Thủy thủ đoàn bị kết án từ hai năm đến mười tám năm. Nhưng bản án là một trò hề, bởi vì hai năm hay chung thân đều cùng chung số phận, phải ở tù từ mười bảy đến hai mươi hai năm khổ sai mới được phóng thích. Ngày 28 tháng 01 năm 1980, anh Tâm được phóng thích sau 17 năm rưỡi khổ sai. Anh Kinh được phóng thích ngày 30 tháng 6 năm 1982, đúng 20 năm khổ sai.

Anh Tâm hiện cư ngụ tại California, anh Kinh ở Florida.

Mặc dù 4 Người Nhái và thủy thủ đoàn thi hành công tác này đã đền nợ nước hay chôn vùi tuổi thanh xuân trong chốn lao tù khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt, nhưng họ không chết và không bị quên lãng, vì họ sẽ sống mãi trong lòng của anh em Người Nhái thuộc Liên Đoàn Người Nhái Hải Quân Việt nam Cộng Hòa và của đồng bào ruột thịt dành cho những đứa con thân yêu của dân tộc đã“VỊ QUỐC VONG THÂN”.

Đối với gia đình anh Kinh, LĐNN xin giở nón cúi đầu bái phục một gia đình ái quốc đã tình nguyện hy sinh, dâng hiến tất cả những đứa con trai của gia đình cho Quân Đội để phục vụ cho Tổ Quốc, và làm tròn nhiệm vụ của người trai trong thời loạn: “Chấp nhận hy sinh mạng sống hay một phần thân thể để bảo vệ từng tấc đất của quê hương xứ sở do tổ tiên để lại, trái ngược với bọn CS phản quốc nỡ lòng cắt đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang.

California, ngày Quân Lực 19 tháng 6 .
Người Nhái HQVNCH

Friday, April 16, 2021

Hồi Ký Dang Dở Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa

 CUỐI ĐỜI BINH NGHIỆP

Nói tới những ngày cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp của mình, tôi muốn ghi lại đây những giờ phút vui buồn trong đơn vị cuối cùng của mình, Ban Liên Hợp Quân Sự, một đơn vị mà cho đến giờ nầy vẫn có rất ít người biết đến nó, kể cả phần lớn anh chị em trong QLVNCH, mặc dầu nó là đứa con út của Quân đội, một đứa con sanh sau đẻ muộn vừa thai nghén vừa ra đời thực tế chỉ trong vòng có một tuần lễ, hay vỏn vẹn chỉ có 7 ngày! Hay còn ít hơn nữa! Và đứa con út nầy chỉ sống ngoắt ngoải được có 2 năm 3 tháng 3 ngày, khai sanh của nó được ghi rõ là 12 giờ đêm rạng sáng ngày 28 tháng 3 năm 1973 và không có khai tử nhưng được biết là ngày 29 tháng 4 năm1975! Trên lý thuyết thì 4 cha 3 mẹ (1) của nó đã mong muốn phải sanh ra nó từ lâu, từ lúc có các buổi đi đêm giữa cặp tình nhân Hoa Thạnh Đốn và Hà Nội, Lê Đức Thọ trao cho Kissinger bản văn của Hiệp Định Paris (tiếng Việt, do cộng sản Bắc Việt soạn thảo) để Kissinger cho dịch ra Anh ngữ và chánh thức trình làng với cái tên thật hấp dẫn : Hiệp Định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.. dù đó là nguyên văn sản phẩm của cộng sản Bắc Việt.

Tôi được may mắn biết được một ít về tình hình ở Hội Nghị Paris một phần nhờ giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, thuộc phái đoàn thương thuyết Việt Nam, và một phần nhờ ông John Paul Vann, cố vấn trưởng Vùng 4 Chiến Thuật. Giáo sư Huy thỉnh thoảng về Việt Nam đều cho chúng tôi biết sơ qua về diễn tiến của cuộc hòa đàm, và ông Paul Vann thì cũng thường ghé qua Vĩnh Long khi ông từ Hoa Kỳ về lại Cần Thơ qua ngã Paris.

Tôi được thuyên chuyển từ Vĩnh Long về Sài Gòn vào tháng 7 măm 1972, và ngay sau đó tôi được lệnh vào học ở trường Cao Đẳng Quốc Phòng, (khóa 5) dù là vào trễ gần 2 tuần. Về sau nầy tôi mới biết lý do tại sao. Vào tháng 10 năm 1972 khóa 5 Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi được lệnh "nghiên cứu" và "sửa chữa" các điều khoản bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa khi Hiệp Định Ba Lê sắp sửa được ký. Ông Tổng trưởng Thông Tin Hoàng Đức Nhã đã đến thuyết trình và trao bản nháp của Hiệp Định cho trường và Trung tướng Vĩnh Lộc đã chia lớp học chúng tôi ra thành nhiều toán để thảo luận, nghiên cứu và sửa chữa từng điều khoản bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa. Và tôi được hân hạnh là một trong mấy bạn trưởng toán đó. Nói là "bản nháp" nhưng thật sự đây là bản văn "thực thụ" của Hiệp Định sắp được ký kết.

Xin thú thật là công tác thảo luận nghiên cứu được tiến hành rất là hết lòng và hết sức nghiêm túc, và sửa chữa thì có đề nghị sửa chữa, nhưng tất cả đều là công dã tràng. Có quá nhiều điều khoản cần phải sửa chữa vì tất cả lời văn đều rất là bất lợi cho phía Việt Nam Cộng Hòa nhất là trong bản Hiệp Định không có một điều khoản nào nói về sự có mặt của Quân đội chánh quy Bắc Việt ở Miền Nam Việt Nam và do đó không có một điều khoản nào buộc họ phải rút quân ra khỏi Miền Nam Việt Nam. Trong lúc đó Hiệp Định chỉ có buộc "lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Hòa phải rút đi mà thôi."(điều 3a), và buộc Hoa Kỳ phải chấm đứt mọi hoạt động quân sự chống lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bằng mọi lực lượng trên bộ, trên không, trên biển, v.v... (điều 2), tất cả đều nhằm khóa tay Hoa Kỳ "không được tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của Miền Nam Việt Nam" (điều 4). Nhất là, Việt Nam Cộng Hòa së không được nhận đưa vào Miền Nam Việt Nam quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kỹ thuật, vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh", mà không có một điều ràng buộc nào đối với Bắc Việt (điều 7) dù ai cũng biết là Bắc Việt đã và đang nhận viện trợ Quân sự, vũ khí đạn dược và mọi dụng cụ chiến tranh cũng như cố vấn kỹ thuật từ Liên Xô, Trung Cộng hay từ khối cộng sản Đông Âu.

Vào khoảng cuối tháng 10/1972 thì ông Kissinger đã bay sang Sài Gòn để trình lên Tổng Thống Thiệu bản văn chánh thức của Hiệp Định và yêu cầu Việt Nam Cộng Hòa ký vào bản văn đó. Chẳng những Tổng Thống Thiệu không chấp nhận bản văn đó mà còn dùng lời lẽ không được nhã nhặn lắm để biểu lộ sự tức giận của mình đối với cá nhân Kissinger khi ông nầy đã rời khỏi Dinh Độc Lập. Những lời lẽ nầy đã lọt hết vào tai của Kissinger có lẽ nhờ hệ thống máy móc và kỹ thuật nghe lén của người Mỹ. Và Kissinger về luôn Hoa Kỳ mà không còn trở lại Dinh Độc Lập nữa vì ông ta cũng dư biết rằng có tới cũng không được ai tiếp kiến.

Vào khoảng trước ngày lễ Giáng Sinh, Tổng Thống Nixon lại cho oanh tạc Bắc Việt lần nữa để buộc Hà Nội phải rút quân Bắc Việt ra khỏi Miền Nam Việt Nam theo đề nghị của Tổng Thống Thiệu và để đổi lại, theo đề nghị của Tổng Thống Nixon Việt Nam Cộng Hòa phải cho giải ngũ một số khoản 300.000 binh sĩ chánh quy. Đề nghị nầy là đề nghị duy nhất và lần đầu tiên của Hoa Kỳ chính thức nói đến sự hiện diện của Quân đội chánh quy Bắc Việt ở Miền Nam do Hoa Kỳ đưa ra và đang được bàn cãi "công khai" trên bàn hội nghị Paris. Nhưng rất tiếc là Hiệp Định đã thành hình từ lâu, nên dù có bàn cãi qua loa lấy lệ thì cũng không có một dư âm nào. Dĩ nhiên đề nghị nầy hai phía Bắc Việt và Việt Nam Cộng Hòa đều không bên nào đi đến thỏa thuận cả. Phía Việt Nam Cộng Hòa chúng ta chắc chắn không bao giờ thực hiện được việc giải ngũ 300.000 binh sĩ.

Theo lời giáo sư Nguyễn Ngọc Huy (lúc bấy giờ là một thành viên của phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa tại hội nghị Paris) thì đây vừa là một "đòn độc", vừa là một đòn "xỏ lá" của Kissinger đối với cá nhân Tổng ThốngThiệu (sau khi không thuyết phục được Tổng Thống Thiệu trong chuyến đi vừa qua) để ép Việt Nam Cộng Hòa phải ký vào Hiệp Định, một bản Hiệp Định hoàn toàn do cộng sản Bắc Việt chủ động thảo ra và phía Mỹ chỉ có dịch lại nguyên văn không thiếu một dấu phẩy sau nhiều buổi "đi đêm bẩn thỉu" gọi là mật đàm giữa Kissinger và Lê đức Thọ.

Cuối cùng rồi thì vào cuối tháng chạp 1972 Việt Nam Cộng Hòa cũng phải xuôi tay chịu ký vào Hiệp Định, sau khi Tổng Thống Nixon đã đích thân viết thư riêng cam kết một số vấn đề với Tổng Thống Thiệu... (dĩ nhiên về sau nầy như chúng ta đã thấy, không có một lời cam kết nào được Hoa Kỳ giữ đúng). Trung tướng chỉ huy trưởng trường Cao Đẳng Quốc Phòng và chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp (học viên) được tháp tùng phái đoàn của Bộ Ngoại Giao sang Paris với tư cách là quan sát viên của buổi ký kết...

(Tôi xin mở một dấu ngoặc ở đây để nhắc lại lời của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã than với chúng tôi nguyên văn như sau:" ...ngay lúc đó (cuối năm1969) Hoa Kỳ (hay đúng hơn là Kissinger) đã có quyết định bỏ rơi số phận của đồng minh Việt Nam Cộng Hòa rồi, và coi như chúng ta đã mất nước kể từ khi chúng tôi bị đưa vào ngồi ở "bàn hội nghị " ở Paris (1968)".

Tuy không nói ra nhưng hai chữ "mất nước" đã ám ảnh tôi mãi từ năm 1970 khi được tâm sự với Giáo sư Huy, và hai chữ đó cứ bàng bạc nhảy múa trong đầu tôi mãi suốt thời gian phục vụ ở Ban Liên Hợp Quân sự.

Ngay sau khi Hiệp Định được ký kết, theo điều 16 thuộc Chương VI, một số lớn học viên Khoá 5 CDQP của chúng tôi trong đó có chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp, đại tá Nguyễn Tử Đóa, đại tá Trần Tín, đại tá Lê Văn Chuân, đại tá Tô Văn Kiểm, cá nhân tôi và một số đại tá khác nữa.... được cấp tốc chọn lựa để đưa vào một đơn vị mới: "Ban Liên Hợp Quân sự 4 Bên" với nhiệm vụ "bảo đảm sự phối hợp hành động của các Bên trong việc thực hiện các điều khoản sau đây của Hiệp Định" (nguyên văn).

- về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp Miền Nam Việt Nam (điều 2) giữa tất cả các bên ở Miền Nam Việt Nam (điều 3a), về việc rút ra khỏi Miền Nam Việt Nam của Quân đội Hoa Kỳ và các nước ngoài khác (điều 5) và việc hủy bỏ các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và các nước ngoài ở Miền Nam Việt Nam (điều 6), về việc trao trả nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt, v.v...

Ngã rẽ chánh trị trên con đường binh nghiệp

Trên đường phục vụ đất nước, tôi tự xem như mình đã bước qua một ngã rẽ hoàn toàn xa lạ, trong một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn: tranh đấu với bọn cộng sản mặt đối mặt trên bàn hội nghị quân sự để bênh vực quyền lợi cho Việt Nam Cộng Hòa.

Ngày đầu tiên chân ướt chân ráo đến văn phòng của Ban Liên Hợp Quân sự ở Tân Sơn Nhất, là một ngày cuối năm, giáp Tết. Văn phòng là một dãy nhà ngang trống của một đơn vị nào đó vừa mới dọn ra, không bàn không ghế, rất là luộm thuộm. Tuy nhiên anh em ai cũng biết nhiệm vụ tương lai của mình rất là quan trọng. Chúng tôi họp nhau lại để thử vạch ra một sơ đồ tổ chức tạm thời cho đơn vị mình để tạm phân công trong công việc vì theo Hiệp Định (điều 16) thì "các Bên së cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên Hợp Quân Sự Quân sự 4 Bên ....", vì hôm nay đã là ngày 28 tháng 1 rồi, tức là đã qua ngày ký Hiệp Định một ngày rồi. Điều nầy chứng tỏ rằng phía Việt Nam Cộng Hòa chúng ta hoàn toàn bị động nên không có chuẩn bị gì cả, nhất là về sự thành lập Ban Liên Hợp Quân Sự nầy. Trung Tướng Ngô Dzu là trưởng đoàn, chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp là Phó trưởng đoàn, còn lại tất cả anh em đại tá học viên Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi đều là nhân viên. Tuy vậy cũng có một vài chuyện vui vui buổi đầu làm cho chúng tôi quên đi phần nào những luộm thuộm của một đơn vị mới thành lập với một trụ sở không có một chút tiện nghi, dù tối thiểu là bàn ghế.

- Việc thứ nhất là việc tôi tiếp xúc lần đầu tiên với một nhân vật "đầu sỏ" Bắc Việt ở phi trường khi ông ta vừa bước xuống phi cơ từ Hà Nội vào. Số là tôi được chỉ định ra sân bay đón phái đoàn quân sự Bắc Việt. Đây chỉ là một nhóm tiền phương, còn phái đoàn chánh thức của Ban Liên Hợp Quân Sự Bắc Việt së đến ngày hôm sau. Trước khi đi, anh bạn ở phái đoàn Hoa Kỳ đã cho tôi biết là trong nhóm tiền phương nầy có một người mang tên là Lưu Văn Lợi, tuy chỉ mang cấp bậc đại tá, nhưng ông ta không phải là quân nhân mà là một cán bộ cấp cao trong Ban Lãnh Đạo Đảng cộng sản, là chánh trị viên của cả 2 phái đoàn Bắc Việt và CPLTCHMN. Không biết anh có tin tức từ đâu mà anh còn cho tôi biết thêm là tên Lợi nầy cũng đã từng mang cấp bậc đại tá, đại diện của Bắc Việt lúc hội nghị về tù binh nhóm ở Trung Giá năm 1954 (Hiệp Định Genève). Do đó khi gặp tên Lợi nầy trrong bộ quân phục mới toanh, rộng thùng thình không đúng kích thước, tôi bèn "chộ" thẳng một câu khi bắt tay anh ta lúc anh ta vừa bước xuống phi cơ:

- Ủa anh Lợi, 9 năm rồi mới gặp lại anh, sao anh vẫn còn là đại tá hoài vậy ?

- Anh gặp tôi ở đâu ? anh phản ứng nhanh nhưng cộc lốc.

- Ở Trung Giá chớ còn ở đâu nữa .

- Ờ... anh buông nhẹ một tiếng rồi thôi, thấy mình bị lộ.

Về sau nầy anh ta quả nhiên là một tay có thực quyền đối với hai phái đoàn cộng sản Bắc Việt và CPLTCHMN. Khi hai phái đoàn Bắc Việt và CPLTCHMN coi như đã đến đông đủ ở trại Davis rồi thì đúng là ngày giao thừa. Chúng tôi đưa đề nghị lên cấp trên là chúng ta nên lấy tình đồng bào thết đãi họ một bữa cơm tất niên ở câu lạc bội Huỳnh Hữu Bạc, ngay trong Tân Sơn Nhất. Dĩ nhiên, trong bữa cơm tất niên giao thừa nầy cò đầy đủ các món ăn truyền thống của người Việt Nam như thịt kho dưa giá, bánh chưng, bánh tét, dưa hành,v.v... hoàn toàn có tính cách đãi 2 phái đoàn mà không có một ý thức hay hành động nào gọi là chánh trị. Cấp trên của chúng tôi chấp thuận, và chúng tôi lo tổ chức bữa cơm. Nhưng bên phía Bắc Việt họ có vẻ nghi ngờ, nhất là tướng 2 sao Lê Quang Hòa trưởng đoàn Bắc Việt, không biết phía Việt Nam Cộng Hòa có ý đồ bất chánh gì chăng, nên phía Bắc Việt có vẻ chỉ cho cấp nhỏ đi dự mà thôi. Tôi đích thân đến gặp Lưu Văn Lợi, nói rõ rằng phía Việt Nam Cộng Hòa chỉ muốn đãi hai phái đoàn một bữa cơm truyền thống ngày giao thừa mà thôi, mà tuyệt đối không có ý nào khác. Hơn nữa, nhà thầu hôm nay cũng chưa kịp cung cấp thức ăn kịp cho phái đoàn nên trại Davis chắc cũng không nấu nướng gì được cho cả gần 200 người ăn. Chính anh Lưu Văn Lợi nầy đã quyết định đưa hết các tướng tá và toàn bộ hai phái đoàn đến câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc dự bữa cơm giao thừa nói trên. Phần chúng tôi hoàn toàn không có ai tham dự, có nghĩa là phái đoàn Bắc Việt hoàn toàn tự do trong việc ăn uống chuyện trò với nhau một cách thật là tự nhiên thoải mái. Sau đó, cũng chính anh Lưu Văn Lợi nầy đã gặp chúng tôi để cám ơn. Điều nầy xác nhận tin tức tình báo của anh bạn tôi trong phái đoàn Hoa Kỳ là chính xác.

(Tôi xin mở thêm một dấu ngoặc ở đây để nói rõ là năm 2003, chính tên Lưu Văn Lợi nầy đã cùng ngồi chụp ảnh chung với tướng Nguyễn Khánh và một số cán bộ thuộc tòa đại sứ cộng sản, hình chụp ở Houston Texas, tất cả đều đội nón rơm vành lớn,báo chí đã có đăng. Không biết tên cộng sản Lợi nầy qua Mỹ với ý đồ gì ? và ngồi chụp ảnh chung với tướng Nguyễn Khánh với ý đồ gì ?)

- Việc thứ hai là chuyện của anh chàng Võ Đông Giang.

Buổi họp khai mạc đầu tiên tại phòng họp của Ban Liên Họp 4 Bên Trung Ương đã có một chuyện không hay xảy ra cho anh chàng Võ Đông Giang thuộc phái đoàn của CPLTCHMN. Lúc chúng tôi đang họp, khoảng 9 giờ 30 sáng, thì anh chàng nầy xồng xộc đi vào phòng họp và tự xưng tên và tự giới thiệu mình là đại biểu của CPLTCHMN. Phía Việt Nam Cộng Hòa đang chủ trì phiên họp nên chúng tôi mời ông ta xuất trình cho các Bên giấy ủy quyền của CPLTCHMN. Anh lúng túng đưa ra tờ giấy thông hành (passport) mà anh đã sử dụng để đi từ Paris sang Việt Nam. Cả hai phái đoàn Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi đều không chấp nhận, và riêng phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa đã "phang" ra một câu làm anh chàng bẽ mặt phải chịu phép bước ra ngay khỏi phòng họp mà không nói thêm một lời nào:

- Chúng tôi vẫn biết anh là người của CPLTCHMN tử Paris mới tới. Nhưng chúng tôi cần anh chứng minh rằng anh là người được CPLTCHMN chánh thức ủy quyền đại diện cho CPLTCHMN trong Ban Liên Hợp Quân sự 4 Bên. Trên nguyên tắc thì giấy ủy quyền đó phải có chữ ký của người có thẩm quyền trong Chánh Phủ của anh và có đóng con dấu của CPLTCHMN. Nhưng có thể anh về trại làm giấy ủy quyền có chữ ký của ai cũng được, thiệt hay giả không cần biết, và phải có con dấu, dù đó là con dấu làm bằng củ khoai lang, miễn đó là giấy ủy quyền của CPLTCHMN là được.

Phái đoàn Bắc Việt do tướng hai sao Lê Quang Hòa chắc cũng thấy ê mặt vì câu nói mỉa mai nầy của chúng tôi.Về sau nầy trướng Trần văn Trà từ Lộc Ninh đến là trưởng phái đoàn của CPLTCHMN và anh chàng Võ Đông Giang không thấy có mặt trên Bàn Hội Nghị nữa.

Trong tháng đầu chúng tôi làm việc thật là vất vả, một mặt phải chuẩn bị bài vở hoặc dàn bài để phát biểu hằng ngày trong các buổi họp, với đủ mọi loại đề tài, vừa tấn công vừa giữ vững lập trường cố hữu của Việt Nam Cộng Hòa cho bất cứ chương nào, điều nào của Hiệp Định, lại vừa phải phối hợp chặt chẽ với phái đoàn Hoa Kỳ, một mặt phải thực hiện kịp thời và đầy đủ những văn kiện gởi cho Ủy Ban Quốc tế để liên tục phản kháng hàng chục vi phạm ngừng bắn của cộng sản trong ngày, đêm đến có khi còn phải ở luôn tại đơn vị để cùng nhau hội họp để tìm một mô hình tổ chức và một bản cấp số hợp lý cho đơn vị của mình, (dù đó phải là nhiệm vụ của Phòng 1 / TTM ), sao cho phù hợp với hai nhiệm vụ đặc biệt đã được ấn định trong điều 16 của Hiệp Định. Riêng trong giai đoạn hiện tại, nhiệm vụ chính yếu của chúng tôi là "hội nghị" và "phản kháng", do đó hai Khối chính yếu của Ban Liên Hợp Quân Sự của chúng tôi là Khối Nghị Hội và Khối Ngoại Vụ (phản kháng vi phạm và giao dịch với Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến). Rồi từ bản cấp số của Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên, chúng tôi còn phải làm ra bản cấp số của các Ban Liên Hợp Quân Sự 2 Bên cho các Vùng Chiến Thuật và cho cả các tổ ở địa phương theo đúng điều 17 của Hiệp Định.

Một phần nhờ sự thuyết trình của ông Hoàng Đức Nhã khi Tổng Thống Thiệu giao cho trường Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi sửa chữa bản Hiệp Định hôm tháng 10, nên chúng tôi được biết rõ thêm về mục đích và lý do thầm kín của cả Hoa Kỳ và Bắc Việt trong tiến trình đi đêm giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Một phần nhờ tôi chia sẻ lại cho anh em tất cả những gì riêng cá nhân tôi đã được giáo sư Nguyễn Ngọc Huy tâm tình cho biết từ lúc hoà đàm Ba Lê mới bắt đầu hình thành (1968) cho tới ngày ký kết Hiệp Định, đặc biệt là âm mưu và thỏa thuận của Kissinger và Lê Đức Thọ trong suốt quá trình mật đàm của hai người mà không bao giờ biết đến sự có mặt của phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa tại bàn hội nghị. Do đó gần như anh em chúng tôi trong phái đoàn đều nắm vững được một số yếu tố đủ để ứng phó với hai phái đoàn cộng sản trên bàn hội nghị thuộc Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên Trung ương mà không sợ rơi vào thế hạ phong bao giờ, mà vẫn giữ được mối giao hảo tốt không lộ vẻ gì khác lạ đối với phái đoàn Quân sự Hoa Kỳ, dù vẫn biết Việt Nam Cộng Hòa đã bị đồng minh của mình phản bội và bỏ rơi.

Như vậy, nhờ đã cùng nhau thảo luận, mổ sẻ và nghiên cứu trước ở Cao Đẳng Quốc Phòng từng chương, từng điều và từng câu một của bản văn Hiệp Định rồi, nên chúng tôi đã thấy rõ được phần nào những mục tiêu cần phải tranh đấu cho đất nước trong giai đoạn nầy mặc dầu đã gần như thấy một tương lai đen tối trước mặt. Một ngõ cụt với viễn ảnh mất nước cứ lởn vởn trước mắt chúng tôi vì toàn bộ Hiệp Định chỉ có lợi cho phía cộng sản và hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa chúng ta.

Chuyện "ngừng bắn" không quan trọng bằng chuyện chứng minh cho quốc tế thấy rằng Quân đội chánh quy Bắc Việt đang có mặt tại Miền Nam Việt Nam. Nhưng cái khó là dù có chứng minh được điều nầy thì Việt Nam Cộng Hòa chúng ta vẫn không sao đuổi họ ra khỏi lãnh thổ Miền Nam được, vì trong bản Hiệp Định không có một điều khoản nào, môt câu, một chữ nào nói đến quân đội chánh quy Bắc Việt. Mặc dầu vậy, lúc nào trên bàn hội nghị chúng tôi cũng vẫn ra rả tấn công điểm nầy bất chấp sự yên lặng tảng lờ không trả lời hay chối leo lẻo của phía Bắc Việt. Dĩ nhiên, những lý lẽ tấn công nầy chúng tôi đều có kèm theo bằng chứng cụ thể (lời khai và hình ảnh của tù binh trẻ Bắc Việt, về sinh quán, đơn vị, ngày xâm nhập vào Miền Nam, v.v...) và chúng tôi trao liên tục cho Ủy Ban Quốc Tế nguyên văn để họ nắm rõ sự thật là lực lượng Việt Cộng ở Miền Nam thực tế chỉ gồm toàn quân chánh quy Bắc Việt.

Tất cả anh em học viên Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi đã có một nhận định rất rõ ràng là phía Việt Nam Cộng Hòa mình phải gánh chịu đủ mọi hậu quả tai hại của chánh sách và nhu cầu của Tổng Thống Nixon khi ông ta "muốn rút chân ra khỏi Việt Nam, đưa tù binh Mỹ về nước" qua cuộc hòa đàm Ba Lê và do đó chính ông đã khoán trắng cho Kissinger tự do đi thẳng với Bắc Việt (Lê Đức Thọ) trong mật đàm và đi đêm với cộng sản, để cho ông nầy bước cả qua đầu của mình lẫn hai phái đoàn Mỹ Việt ở bàn hội nghị Ba Lê, đến độ bị Lê Đức Thọ xỏ mũi trao cho dự thảo bản văn của Hiệp Định để cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ dịch ra nguyên văn không sót một chữ, một dấu phẩy nào.

Tôi chỉ xin nhắc lại một chuyện: "chuyện cái bàn", để mọi người thấy rõ hơn. Chỉ riêng chuyện "hình dáng cái bàn" không thôi, Hoa Kỳ cũng đã hoàn toàn nhượng bộ Bắc Việt mà không hiểu được ý đồ thực sự của cộng sản. Từ "cái bàn tròn" với 3 phái đoàn Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, và Bắc Việt, lại được Hoa Kỳ và Bắc Việt thỏa thuận biến thành "cái bàn vuông" để có thêm một chỗ ngồi chánh thức cho cái gọi là phái đoàn của CPLTCHMN, mà trên thật tế đây chỉ là một bọn du kích Việt Cộng được Bắc Việt dựng lên từ phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre vào năm 1960, được Bắc Việt âm mưu tiêu diệt gần hết trong trận tổng công kích Tết Mậu Thân, để Bắc Việt ung dung thay thế gần như toàn bộ bằng lực lượng chánh quy Bắc Việt. Trong hai năm dài bàn cãi về hình dáng của "cái bàn" ở Ba Lê, cuối cùng thì Hoa Kỳ bị Bắc Việt đánh cho một cú "nốc ao", té gục để nhìn nhận ngay CPLTCHMN là một "thực thể" ở Miền Nam Việt Nam trong khi theo Hiệp Định Genève 1954 thì chỉ có 2 thực thể trên toàn cõi Việt Nam là VNDCCH (Bắc Việt) và Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt)! Phía Việt Nam Cộng Hòa chúng ta chỉ còn biết xuôi tay chào thua mà thôi, vì bị Đồng Minh của mình chơi trò dùng viện trợ để trân tráo ép buộc phải chịu lép vế ê mặt ngồi chung bàn với bọn Việt Cộng!

Công việc được tiến hành một cách trôi chảy trong suốt thời gian sáu mươi ngày được Hiệp Định ấn định cho Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên nhưng trên thực tế thời gian nầy được kéo dài đến gần cuối tháng 3 năm 1973 thì phái đoàn Bắc Việt mới rút khỏi trại Davis, chỉ để lại một bộ phận liên lạc khoảng 10 sĩ quan mà thôi. Từ đó, Hoa Kỳ vẫn đơn phương tiếp tục các chuyến bay ra Hà Nội hàng tuần, mà họ gọi là "chuyến bay liên lạc" không được Hiệp Định ấn định hay 4 Bên thỏa thuận trong thời gian hiệp thương trên bàn hội nghị tại Tân Sơn Nhất. Phía Việt Nam Cộng Hòa không biết rõ về mục đích của chuyến bay. Các sĩ quan Bắc Việt ở trại Davis vẫn được hoán chuyển thường xuyên nhờ các chuyến bay nầy và có Trời mới biết họ và các sĩ quan Mỹ mang đi mang về Hà Nội những gì. Trung tướng Trà cũng xin về Hà Nội và được thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn từ Lộc Ninh tới chánh thức thay thế.

Tôi còn nhớ trong thời gian nầy có hai sự kiện cần phải được nhắc lại để chúng ta thấy rõ tâm trạng của tướng Trần Văn Trà. Ông vốn là người sanh trưởng ở Quảng Ngãi thuộc Miền Nam Việt Nam nên tánh tình cũng bình dị và cởi mở như người Miền Nam. Phụ tá của ông là đại tá Nguyễn Văn Sĩ người gốc ở Cần Thơ, Tư Lệnh công trường 7 tức là sư đoàn 7 của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Anh Sĩ nầy hồi học ở trường trung học Cần Thơ được anh em sinh viên gọi là Sĩ Kiếng, và là chỗ quen biết với cá nhân tôi, lúc hai hội túc cầu của hai trường Pétrus Ký và Cần Thơ gặp nhau trong các trận giao hữu hằng năm. Cho nên khi trên bàn hội nghị mà bị bế tắc về con số tù binh phải được trao trả thì tướng Trà bảo "anh Sĩ hãy chịu khó bàn thảo riêng với anh Nghĩa để giải quyết". Thế là hai anh em chúng tôi kéo nhau ra câu lạc bộ Hoa Kỳ ngay bên cạnh để tôi tha hồ "chiêu đãi anh bạn cũ'' đủ mọi loại bánh ngọt của Mỹ mà tôi biết rằng anh rất thiếu. Ngoài ra tôi còn rỉ tai to nhỏ trao đổi với anh bạn cũ của mình nhiều chuyện về cộng sản Bắc Việt, mà tù binh là một, như sau :

- Đối với anh hay Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thì con số tù binh mà anh muốn chúng tôi thả ra bao nhiêu cũng được hết. Nhưng anh cũng dư biết là tù binh họ muốn thả ra nầy không phải là người Miền Nam của chúng ta mà phần đông là dân Bắc Kỳ (tôi dùng thẳng danh từ Bắc Kỳ với anh Sĩ). Và tôi cũng biết là các anh đều bị bọn Bắc Việt kềm kẹp trong mọi hoạt động, ở mặt trận cũng như trên bàn hội nghị nầy. Nhưng hai anh em mình và có lẽ cả tướng Trà cũng vậy, đều hiểu và thông cảm với nhau hơn, cho nên hai anh em mình mới có dịp ngồi uống trà với nhau thoải mái ở đây. Vậy anh muốn con số bao nhiêu, tôi chấp thuận cho anh bấy nhiêu. Với anh là cái gì cũng được hết.

- Cám ơn anh, anh cho tôi chừng 70 thôi, mà nửa nầy nửa kia. Tôi nói vậy là anh hiểu rồi phải không? Tôi cũng muốn người Nam của chúng ta ra hết càng sớm càng tốt cho gia đình họ.

-Tôi hiểu rất rõ, anh bạn.

Và cứ thế tuần nào tướng Trà cũng tạo điều kiện cho hai chúng tôi gặp nhau ít nhất là 1 lần. Đây chỉ là con số tù binh được 4 Bên thỏa thuận mà thôi còn vấn đề trao trả thì do anh Phan Nhật Nam phụ trách tranh đấu thẳng với cả hai phái đoàn cộng sản tại hiện trường, hoặc ở Lộc Ninh, hoặc ở Bến Hải là địa điểm mà chúng tôi đã ép cộng sản phải nhận để Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến ghi nhận, vì là tù binh chánh quy Bắc Việt, dù bên nhận là CPLTCHMN. Vấn đề nầy cũng rất là gây cấn và không kém phần quan trọng, nên người phụ trách công tác tranh đấu chánh trị với cộng sản ngay tại hiện trường trao trả lúc đó là thiếu tá Phan Nhật Nam. Sau đó anh Nam đã viết luôn một cuốn sách: "Tù Binh và Hòa Bình" rất có giá trị, được xuất bản và phổ biến rộng rãi trước 1975 (2)

Ngoài ra trước khi rời khỏi Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên, tướng Trần Văn Trà cũng có nhờ riêng tôi mua cho ông ta một máy thu băng cassette và tất cả những băng cassette của tất cả những ca sĩ nam nữ của Miền Nam để ông mang về. Tôi giúp ông mua đầy đủ hết không thiếu một bản nhạc nào kể cả những bản nhạc tiền chiến mà sau nầy cộng sản Bắc Việt gọi là nhạc vàng Mỹ Ngụy. (tiền mua gần 500 ngàn tôi nhờ Hoa Kỳ đài thọ).

(Nhân tiện tôi cũng xin mở một dấu ngoặc ở đây để nói thêm về anh Sĩ nầy sau ngày 30/4/1975. Anh Sĩ được thăng cấp thiếu tướng và cho giải ngũ sau ngày Ban Quân Quản được giải tán tức là chỉ trước ngày cộng sản tuyên bố thống nhất cả hai miền Nam Bắc. Sau khi ra khỏi tù năm 1987, tôi có xuống Cần Thơ và đích thân vào gặp được lại anh Sĩ tại sân quần vợt của thành phố. Anh cho biết là từ năm 1977 anh "bị phục viên" (giải ngũ) với cấp bậc thiếu tướng và anh về sống ở Cần Thơ như các anh em bị phục viên khác của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và tất cả các cán bộ chỉ huy của sư đoàn của anh đều được cán bộ đảng viên từ Miền Bắc vào thay thế hết. Tướng Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống,v.v... đều lần lượt "bị phục viên" khi họ giải tán Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam).

Nhắc lại trong thời gian hoạt động của Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên, hầu hết các túi da beo nầy tiếng là căn cứ của CPLTCHMN nhưng thực tế là do Quân đội chánh quy Bắc Việt chiếm giữ và sử dụng như điểm xuất phát của các đại đơn vị của họ và mỗi ngày họ cứ bung ra trái với điều quy định của Hiệp Định. Do đó không khi nào có tình trạng ngưng bắn ở khắp Miền Nam Việt Nam nhất là ở vùng xôi đậu Miền Đông Nam Bộ, giao tiếp ngay với đường mòn Hồ chí Minh là con đường xâm nhập chính mà Bắc Việt đang sử dụng. Trong lúc đó, "không ảnh" vẫn cho thấy từng đoàn xe dài của Bắc Việt có cả chiến xa và Pháo Binh cơ giới cứ tiếp tục rầm rộ tiến vào hướng Lộc Ninh một cách tự do giữa ban ngày. Hoa Kỳ nhất định không can thiệp. Mặc dầu chúng ta có yêu cầu, nhưng phái đoàn Hoa Kỳ cho biết là Chánh Phủ Hoa Kỳ đã có quyết định không tái can thiệp vào công việc nội bộ của Miền Nam Việt Nam như điều 4 của Hiệp Định đã có qui định. Mặc dầu cả Hoa Kỳ và Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đều được chúng tôi nêu rõ nhiều lần trong phản kháng với hình ảnh cụ thể là BắcViệt đã có hành động vi phạm trắng trợn (điều 7, Chương I) nầy của Hiệp Định.

Trong khi đó Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến thì lại hoàn toàn bất lực không tiến hành được bất cứ một cuộc điều tra vi phạm ngừng bắn nào trong nhiệm vụ chính yếu là "điều tra về việc ngừng bắn giữa các Bên ở Miền Nam Việt Nam" đúng theo điều 3(c), chỉ vì Lê đức Thọ đã quá khôn ngoan, khóa tay Ủy Ban bằng nguyên tắc "nhất trí" (đồng thuận) của điều 18f trong Hiệp Định mà Kissinger không bao giờ thấy được (mà có thấy chắc ông ta cũng làm ngơ). Hai thành viên cộng sản của Ủy Ban là Ba Lan và Hung Gia Lợi thì luôn luôn dựa vào nguyên tắc "nhất trí" của điều khoản nầy để cản trở hai phái đoàn Gia Nã Đại và Nam Dương trong công tác chính của Ủy Ban là điều tra, mà nếu Gia Nã Đại hay Nam Dương đơn phương dám liều lĩnh "mon men" bay vào khu vực da beo của cộng sản để điều tra vi phạm ngừng bắn mà không có sự đồng thuận của một trong hai thành viên cộng sản thôi thì cũng đủ để cho Bắc Việt cho bắn hạ trực thăng ngay, bất kể sự có mặt của sĩ quan Bắc Việt hay của CPLTCHMN trên trực thăng có sơn rõ ràng màu và dấu hiệu của Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Điều nầy đã xảy ra trong những ngày đầu tháng 4/ 1973 trên vùng trời Bình Chánh (Chợ Lớn) để răn đe hai thành viên Gia Nã Đại và Nam Dương. Nếu may mắn mà thành viên quốc tế nào còn sống thì së bị cộng sản bắt nhốt và hành hạ đối xử như tù binh thường với tội dám bay vào "vùng trời" của họ mà không xin phép. Ngoài ra, Ủy Ban đã chẳng những không khai triển vào đóng được ở các điểm được Hiệp Định dự trù như Lao Bảo, Vị Thanh, Đức Cơ, Xa Mát, Ben Hét, Tri Tôn, mà còn phải nằm yên bất động khắp nơi suốt mấy tháng khiến cho Gia Nã Đại quá ngao ngán và bất mãn đã phải rút chân ra khỏi Ủy Ban và về nước vô điều kiện, sau lần bị bắn thứ hai ở gần vùng Khe Sanh ngày 7 tháng 5/73 khi họ định vào tìm vị trí đóng quân cho Tổ Quốc Tế ở Lao Bảo. Sau đó vương quốc Iran được Hoa Kỳ mời vào thay chân cho Gia Nã Đại, và trong suốt thời gian từ 1973 cho đến 30 tháng 4 /1975, coi như Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến chỉ có mặt ở các đô thị Việt Nam để cho có mặt trong các buổi tiệc tùng, du hí mà thôi .

Đối với Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, ngoài các tiệc tùng do Hoa Kỳ tổ chức khoản đãi Ủy Ban và Ban Liên Hợp Quân Sự 2 Bên, Khối Ngoại Vụ chúng tôi chỉ liên lạc và trao đổi tin tức với 2 phái đoàn Nam Dương và vương quốc Iran. Nhưng thỉnh thoảng Trung Tá Thiện của chúng tôi cũng thường xuyên liên lạc với ông Polgar trưởng toán CIA của tòa đại sứ Hoa Kỳ để biết được tin tức chính xác về đường lối và hành động của Hà Nội, qua đại tá Toth của Hung Gia Lợi, người mà ông Polgar thường hay tiếp xúc.

Riêng cá nhân tác giả bài nầy đã được phái đoàn Nam Dương hai lần giúp đỡ trong công tác tình báo chiến trường:

Vào cuối năm 1974, như thường lệ hằng tháng tôi sang thăm Đại tá Abbas, phó trưởng phái đoàn Nam Dương trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến ở Tân Sơn Nhất. Ông nầy vốn là sĩ quan Phòng Nhì thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Nam Dương. Sau tuần rượu khai vị thân mật, ông đưa tôi vào Phòng Tình Hình của phái đoàn, kéo tấm màn vải lên và cho tôi xem Bản Đồ Chiến Trận của Bắc Việt gồm toàn bộ các đại đơn vị chánh quy Bắc Việt. Ông chỉ cho tôi thấy vị trí của từng đơn vị cấp sư đoàn của Bắc Việt đang đóng quân hay đang di chuyển về vùng Cao Nguyên Trung Phần, tức là Vùng 2 Chiến Thuật của Miền Nam Việt Nam. Và sau đó ông ước tính là họ së tiến hành những trận đánh lớn ở vùng nầy, có thể là vào mùa Xuân năm 1975. Tôi không cần biết tại sao ông có được những thông tin nầy và có chính xác hay không vì trước đó chúng tôi đã có được những "không ảnh" nhận được từ phái đoàn Hoa Kỳ cho thấy tất cả những sự di chuyển công khai và rầm rộ bằng cơ giới của các đoàn xe Bắc Việt đều tiến về hướng Lộc Ninh, được 4 Bên mặc nhiên coi đó là thủ đô của CPLTCHMN. Tất cả đều phù hợp với nhận định và ước tính của đại tá Abbas. Tôi xin phép ông bạn Abbas cho tôi sao chép lại bản đồ nầy trên giấy kiến. Xong xuôi tôi mới từ giã ra về. Sau đó, tôi tức tốc gọi cho đại tá Võ Văn Cầm ở Phủ Tổng Thống xin vào gặp ngay Tổng Thống Thiệu. Tôi vào Dinh Độc Lập đúng 3 giờ chiều ngày 12 tháng chạp năm 1974 với các không ảnh và bản đồ chiến trận vừa sao chép được ở phái đoàn Nam Dương. Tôi và đại tá Cầm trải bản "overlay" lên bản đồ 1/100000 của Tổng Thống và tôi lập lại toàn bộ những ước tính tình báo của đại tá Abbas thuộc phái đoàn Nam Dương. Nhưng rồi Tổng Thống Thiệu lại bảo tôi mang sang cho tướng Đặng Văn Quang, điều mà tôi hoàn toàn không thi hành, vì thấy Tổng Thống đặt nhẹ vấn đề. Điều nầy tôi có cho đại tá Cầm biết.

Lần thứ hai vào khoảng giữa tháng giêng năm 1975, một lần nữa tôi lại sang gặp đại tá Abbas theo lời mời của ông nầy qua điện thoại. Lần nầy cũng giống như lần trước, sau phần nghi lễ xã giao ngắn gọn ở phòng khách ông ta có vẻ nóng ruột đưa ngay tôi vào phòng tình hình để cho xem bản đồ đóng quân của các sư đoàn chánh quy Bắc Việt chung quanh hai tỉnh Kontum và Ban Mê Thuột. Đặc biệt hôm nay đại tá Abbas lại ước tính rất rõ ràng mục tiêu tấn công sắp tới của Bắc Việt së là huy hiếp Pleiku bằng hai cuộc tấn công mạnh vào tỉnh Kontum hay vào tỉnh Ban Mê Thuột nhưng Ban Mê Thuột là chắc hơn để có thể chận đường tiếp viện nếu có từ Pleiku. Tuy không nói rõ thời gian nhưng ông cho biết chắc chắn là rất gần đây thôi. Tôi lại sao chép tin tức một lần nữa và cũng xin gặp ngay Tổng Thống Thiệu để trình bày. Lần nầy thì ông Thiệu bảo đại tá Cầm đích thân trao cho Đại tướng Cao văn Viên. Không biết Tổng Thống có dặn thêm anh Cầm gì nữa không thì tôi không biết. Nhưng, tôi tin chắc rằng Tổng Thống đã đặc biệt chú ý đến tình hình của Vùng 2 Chiến Thuật, với sự có mặt của ít nhất là 3 sư đoàn bộ binh Bắc Việt trong đó có sư đoàn thiện chiến 308 cùng với một sư đoàn thiết giáp và một sư đoàn pháo binh hạng nặng và trung đoàn pháo binh phòng không. Quả nhiên mục tiêu tấn công của Bắc Việt là Ban Mê Thuột vào đêm 10 tháng 3 năm 1975 vào khoảng 3 giờ sáng. Và coi như Ban Mê Thuột chánh thức bị cộng sản chiếm hoàn toàn ngày hôm đó.

Và... Ban Liên Hợp Quân Sự 2 Bên tiếp tục sống ngoắc ngoải sau ngày 10 tháng 3 năm 1975 tức là ngày Bắc Việt tiến chiếm Ban Mê Thuột, rồi biến cố đẫm máu trên con đường liên tỉnh lộ 7B, cộng sản Bắc Việt thẳng tay giết dân lành không một tấc sắt trong tay trên đường chạy loạn, trên con đường độc đạo đã bỏ hoang từ nhiều năm, sau khi Tổng Thống Thiệu nhắm mắt đánh phé với Hoa Kỳ bằng cách ra lệnh rút bỏ Vùng 2 Chiến Thuật qua một phiên họp ngắn ở Nha Trang với sự có mặt của đại tướng Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm và Tư lệnh Vùng 2 Trần Văn Phú. Tôi đã có mặt ở Nha Trang ngay ngày hôm đó, nhưng không phải để chứng kiến phiên họp cấp cao nầy, mà là để được nghe trung tướng Phạm Quốc Thuần ở Trung Tâm huấn luyện Đồng Đế thuật lại đầy đủ tình hình và diễn tiến của phiên họp lịch sử ngày hôm đó..

Sau khi thua cây phé quá nặng nầy (mất cả Vùng 2 Chiến Thuật và Quân Đoàn 2), coi như QLVNCH lần lượt bị tan rã từ từ mà không có một trận đánh nào từ Huế, Đà Nẵng cho tới Nha Trang... Chỉ còn có Xuân Lộc với những pha chiến đấu anh dũng duy nhất của sư đoàn 18 bộ binh và lữ đoàm 3 thiết giáp, được tăng cường một số đơn vị Biệt động Quân và Nhảy Dù, với sự yễm trợ tích cực của Không Quân Chiến Thuật trong những ngày cuối tháng 4/75, nhưng rồi vì thiếu vũ khí đạn dược, dù có đầy đủ tinh thần chiến đấu chúng ta vẫn phải chịu cúi đầu với số mạng hẩm hiu của một Quốc Gia và một Quân Đội bị Đồng Minh Hoa Kỳ của mình bỏ rơi một cách quá bỉ ổi và tàn nhẫn, không một luyến tiếc... chỉ vì quan điểm của cường quốc đối với quốc gia nhược tiểu:

"Quyền Lợi mới là chánh yếu, là trường cửu, còn Đồng Minh chỉ là Tạm Thời... giai đoạn"

Và Ban Liên Hợp Quân Sự chúng tôi bị pháo kích suốt đêm 29 tháng 4, từ 9 giờ 30 tối đến rạng sáng ngày hôm sau với hai dãy nhà ngang của hai Khối Nghị Hội và Ngoại Vụ bị cháy dưới sự chứng kiến đầy bất lực của chúng tôi (cá nhân tôi và đại tá Võ Văn Ba), và với khoảng 10 nhân viên bị thiệt mạng không cứu ra được. May mắn là chúng tôi kịp chạy ra nằm ngay dưới đường rãnh bên đường trước trụ sở của Ban Liên Hợp Quân Sự nên đã tránh được không bị thương và cũng không bị kẹt trong đám cháy. Do đó như tôi đã nói ở phần đầu là Ban Liên Hợp Quân Sự được chánh thức khai tử ngày 29 tháng 4 năm 1975.

Để kết thúc bài nầy, chúng tôi xin nói rõ là đứa con út của QLVNCH, là đơn vị Ban Liên Hợp Quân Sự của chúng tôi đã được khai tử ngày 29 tháng 4 năm 1975, đồng thời cuộc đời binh nghiệp của cá nhân Dương Hiếu Nghĩa coi như cũng bị chấm dứt ngay ngày quốc hận 30/4/75 cùng chung với số phận của Miền Nam Việt Nam và của tất cả anh chị em trong QLVNCH qua sự xâm lăng tàn bạo và trắng trợn của cộng sản Bắc Việt được chuẩn bị rất chi ly từ lâu với bản Hiệp Định Ba Lê 27 tháng giêng 1973, bằng đường lối bá đạo, bịp bợm và tàn ác trong đó có sự tự nguyện tiếp tay đắc lực của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã quyết định sai lầm là bội ước, phản bội đồng minh, dẫn đến sự bức tử của Việt Nam Cộng Hòa và sự tan rã của QLVNCH.

Tiểu bang Washington ngày 15 tháng 11 năm 2004

Dương Hiếu Nghĩa

Ghi Chú:

(1) .- Bốn Cha Ba Mẹ: Nguyên thủy thì cuộc hòa đàm Ba Lê chỉ có "Ba Mẹ" là Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa và VNDCCH (Bắc Việt). Nhưng về sau có thêm cái gọi là CPLTCHMN (Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam) được cộng sản Bắc Việt khai sanh và đòi Hoa Kỳ phải nhận nó như một thực thể như Việt Nam Cộng Hòa, mặc dầu nó chỉ là một sự thay tên đổi họ của nhóm Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nên gọi là "Bốn Cha".

(2) "Quyển "Tù Binh và Hòa Bình" của nhà văn Phan Nhật Nam thiếu tá thuộc Ban Tù Binh trong Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên, đã được xuất bản tại Việt Nam trước 1975. Sau khi ra khỏi nhà tù cộng sản vào cuối thập niên 80, anh được định cư ở Hoa Kỳ và quyển Tù Binh Và Hòa Bình được tái bản đến 2 lần, lần thứ hai vào năm 1988 do nhà xuất bản Đông Tiến, San jose, California. Đồng thời, tác phẩm Tù Binh và Hòa cũng đã được dịch sang Anh ngữ với tựa đề: "Peace and Prisoners of War", được lưu giữ trong các thư viện khắp Hoa Kỳ.

-0-0-0-0-

 Hi Ký "Dang Dở

 của cựu Đ/tá Dương Hiếu Nghĩa ...

(Mời đọc  -  những ai  chưa đọc  - nên đọc – đọc rồi cũng nên đọc lại  -  để biết những sự thật . –nhiều người  chưa  biết Patrick Willay).

Chúng tôi xin tạm chấm dứt mấy trang "Hồi Ký Dang Dở" ở đây, và xin thành tâm cầu nguyện cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được vĩnh viễn thoát khỏi ách độc tài đảng trị của bọn cộng sản vô thần khát máu và tàn bạo nầy.

Dương Hiếu Nghĩa


Sau ngày quốc hận 30/4/1975, có một số anh chị em Quân Dân Cán Chánh và gia đình, tuy may mắn được di tản ra nước ngoài, nhưng không có dịp "may" ở lại để chứng kiến tận mắt những hành động ngu xuẩn, tàn ác đến man rợ của những người cộng sản Việt Nam từ miền Bắc vào, tự xưng là để "giải phóng cho đồng bào ruột thịt đói rách ở Miền Nam "; của những người cùng uống nước sông Cửu Long nhưng tự hào được cộng sản Bắc Việt cho "tạm mang dép râu, đội nón cối" (mà không biết!). Ở lại để chứng kiến những con "cọp 30", những người Miền Nam hống hách được cộng sản cho mang băng đỏ trên tay áo, thuộc hệ thống nằm vùng, và nhất thời làm tay sai cho cộng sản!!!
Có thể nói đây là một trang sử bi thảm nhất của người dân Miền Nam Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Những đồng bào nào được may mắn rời khỏi Việt Nam trước ngày 30 tháng 4/1975, và những em cháu thuộc những gia đình nầy (tính đến nay cũng từ 21 tuổi trở lên, kể cả những con em của tất cả người Việt Nam được chào đời trên các nước phương Tây tự do) không bao giờ hình dung được cái ngày lịch sử đen tối nầy, vì cộng sản Việt Nam đã cố tình sửa lịch sử ngay từ đầu chiến dịch tiến chiếm Miền Nam để giành lấy cho đảng cái chánh nghĩa "giải phóng dân tộc".

Cho đến giờ nầy dù chúng tôi có nói lên những sự việc thật sự đã xảy ra từ trước và sau ngày 30/4/75, thì bà con nào đã rời khỏi đất nước trước ngày lịch sử đó (nhất là thế hệ sau 75) cũng không ai muốn tin và chịu tin đó là sự thật. Một phần vì có người còn cho chúng tôi thuộc thành phần chống cộng, thù ghét cộng sản nên chỉ nhằm tuyên truyền chống cộng; một phần vì bà con không ai ngờ là" cùng là người Việt Nam với nhau ai lại có tâm địa vô nhân đạo, phi đạo đức và phi dân tộc đến như thế được. "

Do đó những gì chúng tôi kể lại đây không hẳn là những trang "hồi ký" của riêng cá nhân mình mà thật sự là những gì đã xảy ra tại Saigon và những vùng phụ cận trong những ngày trước và sau 30/4/1975, kể lại trung thực những sự việc mà chính bản thân chúng tôi vừa là một nạn nhân, vừa là nhân chứng, những sự việc mà chính mắt chúng tôi đã thấy, chính tai chúng tôi đã nghe..., để tạm gọi là "luận cổ" (nói về chuyện xưa), để những anh em bạn già sống tha phương cầu thực chúng ta có đầy đủ yếu tố mà trao đổi nhận định, và để các thế hệ con cháu chúng mình có thêm sự hiểu biết chính xác hơn về bản chất, về con người, về đường lối chủ trương và chánh sách của người cộng sản Việt Nam, mà "suy kim" (suy biết được cái hiện tại). tức là để thấy được việc làm của người cộng sản trong hiện tại và trong tương lai.

Người dân Miền Nam chúng ta gọi ngày 30/4 là "ngày quốc hận" vì Nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta bị xóa tên khỏi bản đồ của Thế Giới nói chung, và củaThế Giới Tự Do nói riêng, từ ngày 30/4/1975. Bởi vì cộng sản Bắc Việt đã xé bỏ Hiệp Định Ba Lê 1973 mà chúng đã vừa long trọng ký kết, vừa xua quân công khai tiến chiếm Miền Nam Việt Nam. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến ngày mất nước, khách quan có, chủ quan có, xa, gần đều có. Chúng tôi không muốn bàn thêm ở đây, vì trong gần 30 năm qua đã có rất nhiều sách báo, hồi ký, Việt có, Mỹ có, Pháp có, tất cả đều có phân tách rất rõ ràng rồi. Chúng tôi chỉ muốn ghi lại một vài mẩu chuyện thật, vui buồn lẫn lộn của bản thân, có liên quan đến ngày quốc hận nầy, để gọi là đóng góp thêm một ít tài liệu vào trang lịch sử đau thương của Đất Nước.
.....................
Ngày 1 tháng 2 năm 1973
Tôi và một nhóm anh em sĩ quan cấp tướng tá thuộc Khóa 5 Cao Đẳng Quốc Phòng được thuyên chuyển về Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương vừa được thành lập theo điều khoản của Hiệp Định Ngừng Bắn Ba Lê, được ký kết giữa 4 Bên ngày 27 tháng giêng 1973 tại Ba Lê.

Từ hơn một tháng qua, anh em học viên Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi được lệnh chia nhau từng toán, sửa lại từng điều khoản một, trong bản thảo của cái gọi là Hiệp Định Ngừng Bắn sắp được 4 Bên ký kết ở Ba Lê (Pháp). Vì qua nghiên cứu, Chánh Phủ không thấy có một câu nào, một đoạn văn nào trong bất cứ điều khoản nào mà không có lợi hoàn toàn cho phía Bắc Việt, ngược lại chỉ có hại hoàn toàn cho Miền Nam Việt Nam mà thôi. Cũng qua nghiên cứu anh em học viên chúng tôi đều thấy là: toàn bộ bản văn tiếng Việt của Hiệp Định nầy rõ ràng là tác phẩm của cộng sản Bắc Việt được Lê đức Thọ trao cho Kissinger dịch ra tiếng Anh, một bản dịch "thật sát nghĩa" từ ý lẫn lời văn của tác giả Miền Bắc!

Đúng vào ngày 27 tháng giêng /1973 sau khi ký kết Hiệp Định cả Chánh Phủ và chúng tôi đều hết sức thất vọng vì không thấy được một dấu vết sửa chữa nhỏ nào cuối cùng được thực hiện trước khi các Bên ký kết.

Tôi muốn ghi lại chi tiết nầy để chúng ta cùng thấy được là nước VNCH của chúng ta đã bị Đồng Minh của mình phản bội, bán đứng cho cộng sản Bắc Việt ngay từ khi họ dàn xếp được Hội Nghị Paris (có cả MTGPMN là một trong 4 Bên ở Bàn Hội Nghị) một ít lâu sau Tết Mậu Thân 1968, để rút chân ra khỏi cuộc chiến với một danh từ thật kêu là "Việt Nam Hóa Chiến Tranh".
....................
Ngày 28 tháng 4/1975: 8 giờ sáng,
Đại tá Nguyễn Hồng Đài từ tư dinh của Đại tướng Dương văn Minh điện thoại trực tiếp cho tôi nhờ đưa một phái đoàn đại diện cho Tổng Thống đến gặp phái đoàn cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng (MTGPMN) ở trại Davis. Phái đoàn gồm có Luật sư Nguyễn Văn Huyền, Phó Tổng Thống, Luật sư Vũ Văn Mẫu Thủ Tướng và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, quyền Tham mưu trưỏng QLVNCH từ ngày 28 tháng 4/75.(một bộ hạ thân tín của tướng Dương Văn Minh ở Bộ Tư Lệnh Hành Quân từ 1955, sau nầy mới được biết là đã làm tay sai cho CS từ đầu thập niên 70 và từ đó đã trở thành một Việt Cộng nằm vùng rất đắc lực của Bắc Việt.) Khối Ngoại Vụ chúng tôi cho biết là CSBV và Việt Cộng không tiếp phái đoàn, nhưng đại tá Đài cho tôi biết là "ông già nhấn mạnh là tôi nên cố gắng, vì cuộc gặp mặt nầy rất quan trọng". Tôi đành phải đích thân gọi vào trại Davis, gặp đại tá Sĩ để điều đình và cuối cùng phái đoàn của Tổng Thống Minh "được đồng ý cho vào trại Davis gọi là để viếng thăm hai phái đoàn cộng sản Bắc Việt và CPLTMN" (nguyên văn lời đại tá Sĩ trực tiếp nói với tôi qua điện thoại).

(Xin mở một dấu ngoặc ở đây để nói rõ về anh đại tá Sĩ nầy. Tôi biết đưọc anh Nguyễn Văn Sĩ trước học ở trường Collège Cần Thơ, có biệt danh là "Sĩ Kiến, Theo bản trận liệt mà chúng ta biết được thì anh Sĩ là Tư Lệnh sư đoàn 7 bộ binh của MTGPMN. Chúng tôi hai đứa gặp nhau và nhìn lại nhau ở cương vị đối nghịch nhau tại bàn hội nghị Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên ở Tân sơn Nhất. Nhờ đó mỗi khi gặp bế tắc trong bất cứ vấn đề gì ở bàn Hội Nghị, nhất là về trao trả tù binh thì anh Sĩ lại được tướng Tràn văn Trà cho làm đại diện cho Cộng sản để "mật đàm với đại tá Nghĩa" nhằm tìm ra giải pháp. Đến năm 1989, sau khi ra khỏi trại tù cải tạo, nhân một dịp đi xuống Cần Thơ, tôi lại được gặp anh Sĩ vài lần ở ngay sân quần vợt Cần Thơ, và đươc biết là anh đã rời khỏi quân ngũ từ 1977, vì lý do đảng tịch, và là người Miền Nam nên anh phải "đi một xuồng" với tướng Trà).

Phái đoàn của Luật sư Huyền vào trại Davis lúc 9 giở 30 và rời khỏi trại hồi 10 giờ hơn. Tôi tò mò muốn biết kết quả của cuộc gặp gỡ nầy, nhưng đại tá Đài không cho biết vì anh không được biết hay vì anh không muốn tiết lộ, hay vì một lý do nào khác? Qua đại tá Sĩ thì tôi cũng không được biết gì hơn ngoài câu "như đã thỏa thuận với anh hồi nãy", tức phải được hiểu ngầm là "chỉ có viếng thăm xã giao mà không có bàn đến các vấn đề gì khác".

Tò mò hơn, qua điện thoại với trung tá chánh văn phòngTrương Minh Đẩu, tôi được biết là Ông Dương Văn Minh đã "mò" lên tận vùng Long Khánh (không rõ chính xác ở đâu) với liên lạc viên Dương Văn Nhật để gặp Lê đức Thọ từ mấy ngày trước, qua đường dây liên lạc đặc biệt nào đó mà anh không biết.

(Dương Văn Nhật là em ruột của tướng Minh, tập kết ra Bắc năm 1954, về Nam với quân hàm trung tá của MTGPMN, vào ở ngay Dinh Hoa Lan tại đường Trần quý Cáp với gia đình tướng Minh từ lâu, dĩ nhiên trong nhiệm vụ sĩ quan liên lạc của cộng sản.)

Vẫn theo lời anh Đẩu thì sau khi phái đoàn của ông Nguyễn Văn Huyền về đến Dinh Hoa Lan, ông Minh họp Hội đồng Chánh Phủ và cho biết là MTGPMN đã bác bỏ đề nghị của ông nhằm tìm một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam. Vì vậy ông đã quyết định là "chỉ còn một cách duy nhất là "đầu hàng vô điều kiện" mà thôi.

4 giờ chiều :
Tôi muốn nhắc lại ở đây một đoạn đàm thoại ngắn giữa tôi và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ qua điện thoại mà ông gọi tôi lúc 4 giờ chiều ngày hôm nay từ tư dinh của ông ngay trong căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất.

Anh còn ở đây chưa đi đâu sao anh Nghĩa?
Thưa thiếu tướng chưa, vì tôi còn trách nhiệm phải lo cho gia đình các anh em quân nhân của Ban Liên Hợp đi cho xong rồi tôi mới đi. Dự trù chiều mai 29 thưa thiếu tướng.
Gia đình anh đi chưa?

Thưa thiếu tướng đã đi xong đêm 26 vừa rồi. Còn thiếu tướng sao giờ nầy còn ở đây?
Tôi và gia đình đang sắp sửa đi đây, Anh Tiên (chuẩn tướng Phan Phụng Tiên) cho phi cơ đưa chúng tôi đi nhưng anh Tiên thì còn ở lại, đi sau.
Nói đến đây ông hơi ngập ngừng chừng một phút rồi mới nói tiếp:
Phải đi chớ ở lại đây sao được anh Nghĩa? Tôi vừa mới từ nhà ông Minh về đây. Theo lời ông Minh nói với tôi lúc nãy thì chúng ta coi như đã, mất hết rồi không còn quyền gì nữa hết, anh Nghĩa, kể cả quyền làm chánh trị!..., Ông Minh đã nói thẳng cho tôi như thế. Lúc này thì mình còn ở lại đây để làm gì nữa anh Nghĩa?
Nói tới đây ông sụt sùi và tôi nghe có tiếng khóc nghẹn ngào của ông qua điện thoại. Tôi nghĩ có lẽ ông vừa bực tức ông Minh vừa bực tức vì một đời ngang dọc của ông coi như bị trói cả hai tay trong lãnh vực quân sự lẫn chánh trị.. . . và xúc động thấy mình sắp phải rời khỏi quê hương.
Không thấy tôi nói gì nữa ông nói tiếp:

Vậy tôi đi hôm nay nghe, anh cũng nên đi luôn đi, coi chừng đi không kịp nữa đó. Anh Tiên chắc cũng đi sau tôi. Còn sắp xếp cho anh em Không quân nữa, chắc phải đưa tất cả phi cơ đi cho hết. Thôi anh ở lại đi sau nghe, chúc anh may mắn.
Xin chúc thiếu tướng và gia đình thượng lộ bình an.
Cám ơn anh.
Một lúc sau đó anh Phan Nhật Nam về gặp tôi ở Ban Liên Hợp xác nhận là gia đình ông Kỳ vừa bay ra Hạm đội 7 bằng trực thăng và anh cũng nhân đó hỏi tôi đã nói gì với ông Kỳ làm cho ông khóc vậy? Tôi đáp :
Có lẽ ông cảm động trước khi rời khòi quê hương, và bực tức vì lời nói của ông Minh Dương chớ tôi thì không có nói gì cả.
Từ sáng sớm hôm nay, căn cứ Không Quân Biên Hòa được lệnh dời hết về Tân Sơn Nhất tất cả phi cơ các loại, từ phi cơ chiến đấu, vận tải đến trực thăng các loại, tất cả nhân viên phi hành và không phi hành đều lục tục kéo nhau về hết ở đây cho đến gần 7 giờ chiều mà vẫn chưa hết. Người nào có gia đình hay thân nhân ờ vùng Sài Gòn Chợ Lớn Gia định thì được phép về nhà nhưng toàn bộ vũ khí cá nhân đều phải gởi lại hết ờ Tân Sơn Nhất. Như thế là cả Vùng 3 và Biệt Khu Thủ Đô chỉ còn có mỗi căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất mà thôi.

6 giờ chiều
Chúng tôi vào D.A.O. đưa một toán 200 người thuộc gia đình sĩ quan và hạ sĩ quan /Ban Liên Hợp Quân sự ra phi cơ trong chương trình di tản (toán thứ 8).

Chờ cho phi cơ cất cánh xong (9 giờ) chúng tôi mới trở về lại Ban Liên Hợp, vẫn phải trực như mọi người và mọi đơn vị.

10 giờ đêm:
Từ 10 giờ đêm, Bắc Việt bắt đầu pháo kích và bắn hỏa tiễn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Ngay ban chiều vào khoảng 7 giờ, họ đã cho một loạt tác xạ điều chỉnh vào khu vực sân bay rồi : tất cả 5,6 quả và 2 hỏa tiễn đều rơi vào khu dân cư ở xóm Trương minh Giảng và Lăng Cha Cà ở bên ngoài khu vực sân bay. Nhưng từ 10 giờ đêm trở đi thì tất cả đạn pháo nặng nhẹ từ 130 ly đến bích kích pháo 82 ly và hỏa tiễn đều rơi vào các đường bay, các ụ chứa phi cơ và các kho bom đạn cũng như Bộ chỉ huy các Không đoàn, Riêng Ban Liên Hợp chúng tôi cũng được hưởng mấy trái hỏa tiễn và đạn pháo 130 ly làm cho 3 dãy nhà bị cháy và gây tử thương vài binh sĩ, làm bị thương một số khác

Chúng tôi và đại tá Ba ra ngoài đường thoát nước lộ thiên bằng xi măng trước văn phòng nằm tránh đạn. Chiếc xe của tôi đậu cách chỗ nằm của chúng tôi chừng 15 thước bị một mảnh đạn và bốc cháy mà chúng tôi không dám chữa. Từ đó, Bắc Việt pháo kích từng chập từng chập cách nhau chừng 15 phút, đủ loại, không ngừng cho đến sáng hôm sau. Hầu như không có phi cơ quan sát hay tiềm kích nào cất cánh lên được suốt đêm nay, và cũng không nghe thấy có tiếng súng phản pháo nào.

Riêng trại Davis của hai phái đoàn cộng sản, cách văn phòng chúng tôi chừng 100 thước, thì không bị một quả đạn nào, tất nhiên đây là vị trí của tiền sát viên Bắc Việt giúp điều chỉnh tác xạ suốt đêm nay thật chính xác, vì trong 2 năm ở đây họ đã nắm rõ từng vị trí trong sân bay nầy rồi!

Ngày 29 tháng 4:
9 giờ sáng:
Chúng tôi qua Phòng họp của Ban Liên Hợp Quân sự không bị trúng đạn pháo, từ đó mới xử dụng được đường dây điện thoại để báo cáo đi các nơi về thiệt hại vật chất và nhân mạng đêm qua..

Đến 9 giờ sáng thì có một chiếc trực thăng Mỹ (sơn toàn trắng) đáp xuống ngay trước phòng họp để bốc chúng tôi đi. Nhưng không hiểu sao tôi lại không chịu đi. Và tôi cho trực thăng nầy di tản 6 sĩ quan của toán thanh tra ngừng bắn, người Nam Dương.

Tôi vẫn còn nhớ ơn đại tá Abbas, Phó trưởng đoàn và trưởng phòng Tình Báo của phái đoàn Nam Dương nầy đã 2 lần đích thân kín đáo trao cho tôi bản đồ trận liệt ghi rõ tiến trình xâm nhập vào Miền Nam của đầy đủ 16 sư đoàn chánh quy bộ binh Bắc Việt và các sư đoàn thiết giáp và sư đoàn pháo binh nặng, vừa được cập nhật vào đầu tháng giêng năm 1975.

- lần đầu ngày 3 tháng giêng 1975. (tôi đích thân mang tay lên trình cho Tổng Thống Thiệu ngày 4 tháng 1, với lời giải thích miệng rất đầy đủ theo đúng tin tức tình báo mà phái đoàn Nam Dương đã sưu tầm rất chính xác và rất đầy đù, (nhưng sau đó tôi đã không thi hành lệnh của Tổng Thống, chỉ vì ông bảo tôi phải mang sang cho Trung tướng Đặng văn Quang)

- lần thứ hai ngày 1 tháng 3, với chú thích về mục tiêu tiến chiếm dự trù của cộng sản là Ban Mê Thuột. Đây là tin tức hết sức chính xác về mục tiêu và thời điểm tấn công của Bắc Việt: tiến chiếm Ban Mê Thuột vào tháng 3/75. Tôi cũng đã mang tay bản đồ và tin tức nầy đến trình cho Tổng Thống Thiệu, nhưng lần nầy thì ông bảo tôi mang sang cho Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng.. Tôi đã y lệnh thi hành. Dĩ nhiên tôi không biết với tư cách Tổng Tư Lệnh Quân đội và Tổng Tham Mưu Trưởng hai ông đã có quyết định kịp thời về một "đường lối hành động" nào hay không.

10 giờ sáng:
Tôi liên lạc với Đại tá Nguyệt, Hải Quân, để đưa một số sĩ quan và quân nhân các cấp, khoảng 30 người xuống tàu, di tản theo Hải Quân. Trong số nầy có các Đại tá Chuân, đại tá Đóa,v.v... thuộc Khối Nghị Hội / Ban Liên Hợp. Số anh em sĩ quan và nhân viên còn lại của Ban Liên Hợp, chúng tôi dự trù cũng sẽ xuống luôn bến Bạch Đằng khoảng 12 giờ trưa sau khi thu xếp việc tản thương xong cho một số anh em quân nhân và nữ trợ tá xã hội tử thương và bị thương đêm qua.

11 giờ 30 sáng:
Chúng tôi nghe thấy có tiếng súng liên thanh từ dưới đất bắn lên các phi cơ đang cố gắng cất cánh khỏi phi trường. Anh em cho biết là chiếc xe jeep mui trần có gắn liên thanh 12 ly 7 của đại úy Quân Cảnh / Phi trường đang nằm ngay giữa các phi đạo bắn lên bất cứ loại phi cơ và trực thăng nào muốn cất cánh rời khòi phi trường. (sau ngày 30/4, đích thân tôi gặp đại úy Quân Cảnh nầy, mang súng lục đang đứng gác ngay tòa nhà Quốc Hội ở đường Tự Do. Thì ra đây là một tên cộng sản nằm vùng đã nhận lệnh của cộng sản từ trại Davis trong công tác ngăn chận không cho phi cơ cất cánh từ khuya ngày 29 tháng 4.)

Chúng tôi lên xe đi xuống Hải Quân để kịp lên tàu với đại tá Nguyệt. Nhưng lúc vừa đi ngang qua Bộ Tổng Tham Mưu (đúng 12 giờ trưa) thì không biết tại sao thình lình tôi lái xe Jeep của tôi rẽ trái đi vào cổng Tổng Tham Mưu. Hai xe jeep và 2 xe 4/4 trong đoàn xe của tôi dĩ nhiên phải vào luôn cổng theo xe của tôi.

Đến ngay Bộ Chỉ Huy Pháo Binh, chúng tôi ngừng xe lại và tôi vào ngay Hội trường của Bộ Chỉ Huy nầy tìm chỗ nằm xuống đánh một giấc ngon lành không còn biết ất giáp trời trăng gì nữa, có lẽ vì quá mệt mỏi. Tất cả anh em sĩ quan theo tôi từ Tân Sơn Nhất (trong số nầy có đại tá Nguyễn ngọc Nhận, đại tá Lộc, pháo binh thuộc Ban Liên Hợp quân sự Cần Thơ, trung tá Chữ Nam Anh, trung tá Hoàng chánh văn phòng, v.v...) đều theo tôi vào hết trong hội trường vắng trống nầy.

Đến 4 giờ chiều, thình lình tôi thức dậy và đinh ninh mình đang ngủ dưới tàu của Hải Quân nên lên tiếng hỏi:

Tàu của chúng ta đã chạy đến đâu rồi? đã ra khòi sông Lòng Tão chưa?

Chạy đến Hội trường của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh trong Tổng Tham Mưu rồi! Trung tá Hoàng vừa cười mai mỉa vừa trả lời.
Tôi bàng hoàng đứng ngay dậy quan sát thì rõ ràng thấy mình đang ở giữa Bộ Tổng Tham Mưu. Bèn ra lệnh:
Anh em lên xe ngay đi để xuống Bến Bạch Đằng chắc còn kịp vì đại tá Nguyệt chắc chắn còn đợi tôi.
Không kịp nữa rồi ông ơi, Bộ Tổng Tham Mưu đã khóa cổng và có lệnh không cho ai ra vô gì nữa hết, chúng tôi đã thử mấy lần muốn ra rồi mà không được.
Vậy là chết rồi! anh thử liên lạc với ông Nguyệt thử coi? ở số nầy nè!
Trung tá Hoàng cố gọi chừng 15 phút mà không nghe ai trả lời.. . .
Thế là số mạng bắt ta phải ở lại đây rồi! (tôi chán nản nghĩ thầm như vậy khi sực nhớ lại không biết vì lý do gì mà mình tự nhiên lại rẽ vào cổng Bộ Tổng Tham Mưu lúc 12 giờ trưa nay thay vì cứ phải chạy thẳng xuống Bến Bạch Đằng để xuống tàu. Về sau nầy tôi mới được biết là đại tá Nguyệt chỉ vì chờ tôi không chịu nhổ neo tách bến nên phải bị anh em binh sĩ Hải Quân khiêng xuống tàu và rời bến lúc 2 giờ trưa )

7 giờ chiều

Trung tướng Vĩnh Lộc, quyền Tổng Tham mưu trưởng, cho người xuống gọi cá nhân tôi và đại tá Nhận lên văn phòng của ông để nhận việc. Lúc đó tôi mới biết được là ở Bộ Tổng Tham Mưu hiện giờ không cón Tham mưu Trưởng, không còn một số trưởng phòng quan trọng nào nữa như P1, P2, P3 và P4. Tất cả đều đã tìm phương tiện di tản hết rồi, chỉ còn sĩ quan xử lý thường vụ mà thôi. Không cần suy nghĩ tôi cũng đã thấy được tình hình chung như thế nào rồi.

Đại tá Nhận được trung tướng Vĩnh Lộc ép nhận chức vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi vẫn không chịu nhận bất cứ một nhiệm vụ nào, ít nhất trong hiện tại, vì đã dự định nội nhật ngày mai là phải rời khòi Bộ Tổng Tham Mưu để tìm phương tiện di tản.

8 giờ 30 tối:

Các trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ồ ạt đáp xuống D.A. O. (Phòng Tùy viên Quân Lực Mỹ) ở ngay phía sau lưng tòa nhà chánh của Bộ Tổng Tham Mưu để bốc người Mỹ theo đúng tiến trình hành quân di tản của Hoa Kỳ. Không có một tiếng súng nhỏ lớn hay hỏa tiễn phòng không nào của Bắc Việt từ dưới đất bắn lên, điều nầy cho thấy rõ là giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt đã có một mật ước nào đó rồi cho thời gian và lộ trình di tản của Hoa Kỳ.

Có tiếng loa kêu gọi từ các trực thăng lúc họ bay ngang qua không phận Bộ Tổng Tham Mưu: Ai muốn được di tản thì cứ qua bãi đáp trực thăng bên D.A.O. ngay phía sau Bộ TTM. Có một số sĩ quan và nhân viên của Ban Liên Hợp (đang ở đây với tôi) đã nghe rõ tiếng loa kêu gọi từ trực thăng và đã vượt rào kẽm gai của Bộ Tổng Tham Mưu đến bãi bốc trực thăng bên D.A.O. (khoản 40 thước đường) trong số đó có Đại tá Lộc, trung tá Hoàng và một số sĩ quan cấp úy khác. Riêng tôi thì không thích "chui rào" như họ, (có lẽ vì tự ái cá nhân hay vì số mạng không biết )

Ngày 30 tháng 4:
6 giờ sáng:
Do đó, sáng ra kiểm điểm lại thì chỉ còn có tôi với trung tá Chử Nam Anh và một số chừng 10 binh sĩ mà thôi. Những người khác thì đã được trực thăng Mỹ di tản đêm qua rồi. Cùng tôi lên xe sẵn sàng ra cổng Bộ Tổng Tham Mưu.

7 giờ sáng:

Nhân lúc xe của trung tướng Vĩnh Lộc và đại tá Nhận ra cổng, chúng tôi tháp tùng theo xe nầy luôn, vì nếu không thì sẽ bị chận lại không ra khỏi đây được nữa theo tiêu lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu.

Ra khỏi Bộ Tổng Tham Mưu là chúng tôi chia tay nhau, tạm gọi là "đường ai nấy đi" vì tới giờ phút nầy chúng tôi hình như đã linh cảm được số phận của Miền Nam Việt Nam sẽ ra sao rồi!

Tôi lái xe về nhà người em họ ở Cư xá Đô Thành (Bàn Cờ) dự trù sẽ thay quần áo và nghỉ ngơi trước khi tìm được phương tiện di tản. Tình hình quân sự và chánh trị thì đã quá rõ ràng rồi, bây gờ chỉ còn xem con đường nào thuận tiện nhứt để thoát khỏi đây thôi. Phương tiện nào đây? Tàu hay phi cơ? Bằng tàu thì hoặc phải xuống Bến Bạch Đằng và Nhà Bè, hoặc phải ra tận Vũng Tàu hay Gò Công? Bằng phi cơ thì chỉ có ra tòa đại sứ Mỹ.. Vậy ta phải đi một vòng xem sao rồi mới quuyết định được. Đang ngồi suy tính một mình thì thằng em họ kêu cho hay là có lệnh mới rồi.. Lệnh của Tổng Thống và của Tổng Tham Mưu trưởng..

11 giờ trưa
Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố Miền Nam Việt Nam "đơn phương ngừng bắn vô điều kiện", một cách chơi chữ để nói lên một sự "đầu hàng Cộng sản Bắc Việt không có điều kiện (nhưng đó mới thực sự là điều kiện của Bắc Việt đã trao cho ông), và ngay sau đó tướng Nguyễn hữu Hạnh với tư cách là Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH lên tiếng trên đài truyền hình và đài phát thanh Sài Gòn, ra lệnh đơn phương ngừng bắn cho các đơn vị còn đang chiến đấu và kêu gọi quân nhân các cấp phải buông súng xuống!

Lắng tai nghe đi nghe lại những lời tuyên bố của hai tướng Minh và tướng Hạnh tôi vừa đau khổ vừa bùi ngùi nghe theo lời khuyên của em mình, trút bỏ bộ quân phục thân yêu của mình trong suốt gần 25 năm trong quân đội, xong mượn chiếc xe Honda của thằng em vội vàng phóng ra cửa. Tôi nghĩ bụng: Thôi thế là coi như xong hết rồi, không biết cái gì sẽ xảy ra sau chuyện đầu hàng quá nhục nhã nầy? Thương thuyết chăng? Chánh phủ Liên Hiệp chăng? Chắc chắn là không rồi. Hàng ngàn chiếc xe xe tăng T.54 từ Bắc Việt vào đây tức là cộng sản Bắc Việt nhất quyết đã chọn giải pháp quân sự rồi thì làm gì còn có giải pháp chánh trị? Và đối với mộng bành trướng bá quyền của Cộng sản thì đâu có chuyện anh MTGPMN nhảy vào ngồi mát ăn bát vàng của họ được? Tôi vừa đi vừa suy nghĩ mông lung.. tự nhiên thấy mình trở lại gần Bộ Tổng Tham mưu lúc nào không hay. Nhân tiện tôi đi vòng qua hướng Lăng Cha Cả để theo đường Trương minh Giảng xuống Sài Gòn.

Lúc nầy đã quá 1 giờ trưa rồi. Đường xá vắng tanh, dân chúng rút hết vô nhà đóng kín cửa. ngoại trừ bọn hôi của còn đang lăng xăng lục lạo và khuân vác từng biệt thự do người Mỹ mướn ở, hay các nhà vô chủ, của những người dân quá sợ cộng sản đã bỏ đi hoặc di tản hay đang tìm đường di tản ra ngoại quốc.

Tuy không còn nghe tiếng đạn pháo hay rốc kết liên tục nhưng vẫn còn lác đác một vài tiếng súng cá nhân hay một vài tràng liên thanh đâu đó từ hướng trại Hoàng hoa Thám của anh em Dù. Tôi còn nhớ lúc rời khỏi Ban Liên Hợp Quân sự ngày hôm qua, tôi còn chứng kiến được một số hành động anh dũng của anh em "Biệt kích 81 Dù" đã bắn hạ 13 chiến xa T.54 của Bắc Việt từ Lăng Cha Cả lên hướng Củ Chi khi các đơn vị Bắc Việt tấn công vào trại Hoàng Hoa Thám để tìm cách đột nhập ngang hông vào Tân Sơn Nhất. Hôm nay xác những chiếc tăng T.54 vẫn còn ngổn ngang ở vùng nầy, và tiếng súng cá nhân vẫn còn lẻ tẻ mặc dầu đã có lệnh đơn phương ngừng bắn của QLVNCH từ 11 giờ sáng nay.

Đường Trương minh Giảng vắng tanh không một bóng người, không một chiếc xe nào chỉ thấy có một vài xác chết rải rác ngoài đường, gần cầu, hình như của bọn đặc công Bắc Việt.

Khắp các nẻo đường mà tôi đi qua, trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn và cả Gia Định, tôi quá đau lòng mà thấy cảnh không biết bao nhiêu là súng ống đạn dược đủ loại, quân phục đủ màu đủ sắc của mọi binh chủng được vứt bỏ ngổn ngang từng đống hay bừa bãi, rải rác khắp các vỉa hè, các thùng rác, cống rãnh.. có lẽ đây là một cách vừa thi hành, vừa phản đối lệnh buông súng đầu hàng của tướng Minh và tướng Hạnh. . . .còn đang ra rả kêu gọi liên tục trên đài phát thanh. Càng đau lòng hơn khi thỉnh thoảng tôi bắt gặp một số người chạy long nhông ngoài đường, hầu hết chỉ có một quần cụt trên người, có khi trần truồng như nhộng, chắc chắn họ là quân nhân, vì họ luôn miệng chửi thề tục tỉu vang trời, chửi cả bọn chiến thắng Bắc Việt lẫn người chủ bại đan tâm khóa tay Quân đội để đầu hàng cộng sản!

Bến Bạch Đằng và Nhà Bè vắng tàu nhưng không vắng người vì còn một số quá đông đang còn lóng nhóng chờ... tàu từ Tân Cảng xuống. Nhưng tôi nghĩ chắc chắn không còn chiếc nào.

Tôi vào Bình Đông (Chợ Lớn) để thử tìm đưởng bộ xuống Gò Công. Nhưng cảnh sát dã chiến ở chốt đầu cầu đã được lệnh khóa cổng từ 6 giờ sáng nay không cho một ai qua khỏi cầu. Trở về Phú Lâm, tôi cũng bị chốt cảnh sát dã chiến ngăn chận, như thế có nghĩa là từ 6 giờ sáng nay đã có lệnh khóa hết mọi con đường ra khỏi Đô thành, khó mà dùng đường bộ được, và cũng có nghĩa là bọn cộng sản Bắc Việt đã bao vây chặt thủ đô nầy rồi.

Như thế là coi như tôi không còn khả năng và phương tiện nào thoát ra khỏi thủ đô Sài Gòn nữa bằng cả 3 đường bộ, đường thủy và đường bay. Thôi thì đành phải ngồi yên để chờ xem diễn tiến sắp tới tức là ngồi chờ xem Cộng sản Bắc Việt tiến vào thủ đô mà thôi!! Nghĩ thế tôi quay xe trở về Bàn Cờ.

Trên đường về, đột nhiên tôi nghe mấy tràng đại liên ròn rã ở hướng nhà thờ Sài Gòn. Quá tò mò tôi muốn đến xem nhưng gần đến nhà thờ thì nghe tiếng chiến xa chạy rầm rập ở hướng đại lộ Thống Nhất. Tôi biết là chuyên gì đã xảy ra rồi, nhưng quá đau lòng đến độ không thể nào dám chạy đến đó để xem, tôi vội chạy về Bàn Cờ ngay.

6 giờ chiều:
Tôi có ý định lên Hạnh Thông Tây, vào thăm Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp của mình. Nhưng khi vừa qua khỏi sân Golf ở phía sau Tổng Tham mưu thì một cảnh tượng quá đau lòng làm tôi phải ngừng xe lại ngay. Từng nhóm thương bệnh binh dìu nhau đi bộ từ cổng Tổng Y Viện Cộng Hòa. Hỏi ra tôi mới biết là từ 5 giờ chiều nay, một toán quân Bắc Việt đã vào tiếp thu Quân Y Viện mà họ liệt vào hàng "chiến lợi phẩm chiến tranh". Người sĩ quan tiếp thu ra lệnh cho tất cả đều phải ra khỏi bệnh viện, và "ngay tức khắc" không được chậm trễ, không được mang theo bất cứ thứ gì kể cả xe cộ đủ loại, vì tất cả đều là của Mỹ Ngụy, không do cá nhân mua sắm, ngoại trừ quần áo đang mặc trên mình.

Tất cả mọi người, từ các bác sĩ quân y, các nam nữ y tá, trợ tá xã hội, lao công dân chính v.v. cho đến thương bịnh binh đủ loại, không cần biết tình trạng bệnh lý, đã được chữa trị hay chưa, vết thương đã mổ hay chưa? lành hay chưa lành? v.v... Thật quá khủng khiếp cho những anh em thương binh vừa được chuyển từ mặt trận về, vừa được lên bàn mổ hay vừa được mổ mà chưa khâu xong vết mổ, còn đang nửa mê nửa tỉnh.. đều phải ôm vết thương lang thang xuất viện mà không biết phải đi về đâu? nhà ở đâu mà về? Gia đình có đâu mà về? đơn vị ở đâu mà về? Vì họ được tản thương về đây từ mặt trận.

Đây là một câu chuyện thê thảm nhất trong lịch sử chiến tranh quốc cộng, giữa Nam Bắc Việt Nam, giữa người Việt Nam với nhau. Ngay như trong cả 2 thế chiến, người ta cũng không có lối cư xử quá tàn bạo và nhẫn tâm vô nhân đạo như thế, huống là giữa những người Việt Nam cùng một dòng máu Lạc Hồng?

Để giúp cho những người khốn khổ nầy, chúng tôi và một số dân chúng quanh chùa Vạn Hạnh (Phú Nhuận) kêu gọi được một số xe tư nhân, xe tắc xi, xích lô máy, xích lô đạp.. đưa giùm một số thương bịnh binh nặng, đang trong tình trạng giải phẫu dở dang.. đến các bệnh viện Đô Thành, Nguyễn văn Học, Chợ Rẫy, Grall và một số bệnh viện tư của người Hoa ở Chợ Lớn, kể cả 2 bệnh viện tư nhỏ của hai bác sĩ Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Duy Tài ở đường Pasteur.. để nhờ tạm chữa trị tiếp, chờ ngày cho họ về với gia đình..

Giờ nầy thật tình thời gian đã trôi qua quá lâu rồi, gần 30 năm rồi, thử hỏi dân chúng Miền Nam cũng như người Việt Nam ở hải ngoại nầy còn có mấy ai biết đến và nhớ đến một buổi chiều thê thảm nhất của anh em quân nhân chúng tôi, nhất là những anh em thương bịnh binh thuộc QLVNCH đang điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa đã bị xua đuổi thẳng tay một cách vô nhân đạo ra khỏi bàn mổ hay khỏi giường bịnh, do sự tiếp thu của Cục Quân Y của Quân Đội Nhân Dân BV? vào ngày 30 tháng 4 /1975 mà cộng sản gọi là ngày chiến thắng của họ trong chiến dịch xâm lăng Miền Nam Việt Nam có tên gọi là chiến dịch Hồ chí Minh!!!

Đêm nay về Bàn Cờ nghỉ tạm, tôi không có một chút hứng thú nào khi ngồi trước một bữa cơm ngon của gia đình, tôi cũng trằn trọc suốt đêm không ngủ được chỉ mong cho trời mau sáng để được xem tận mắt cảnh "đổi đời"! Ước gì cảnh đó phải hoàn toàn khác hẳn cảnh mà tôi đã đích thân chứng kiến chiều hôm qua ở Gò Vấp!

Ngày mồng 3 tháng 5/ 1975
Không có chuyện gì làm, tôi lang thang tản bộ quanh khu chợ Sài Gòn, và đi lần về Thư Viện Quốc Gia, trong thâm tâm chỉ muốn gặp lại một người bạn của tôi là anh Hữu, quản thủ thư viện Quốc Gia. Có đến nơi mới thấy được cảnh mà cộng sản Bắc Việt gọi là bài trừ "Văn Hóa đồi trụy" :

Sau ngày 30/4/75, một ủy ban gọi là "ủy ban bài trừ văn hóa đồi trụy" ra đời. Thành phần gồm một cán bộ Đảng CSVN và sinh viên học sinh chít khăn đỏ trên tay (mà người dân Sài Gòn gọi là mấy con "cọp 30"), tại Sài Gòn Chợ Lớn thì mỗi quận một tiểu ban, ở các tỉnh thì mỗi tỉnh một tiểu ban.

"Văn hóa đồi trụy" được định nghĩa là tất cả những ấn phẩm thuộc mọi lãnh vực chánh trị, kinh tế, lịch sử (nhất là lịch sử), giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, văn nghệ, phim, ảnh. v.v... đang được lưu hành và sử dụng tại Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 30/4/1975 trở về trước, được in, chép hay thu vào băng nhựa, bằng tiếng Việt Nam hay bất cứ loại sinh ngữ ngoại quốc nào (trừ chữ Tàu và chữ Nga).

Mục tiêu mà các "ông cọp 30" nhắm vào trước tiên là Thư viện quốc gia (national library) ở đường Gia Long. Tất cả sách bìa cứng bìa mềm, gáy tím gáy vàng, dày mỏng gì cũng đều được mang ra đường xé nát và đốt hết. Tội nghiệp cho mấy bộ tự điển và Encyclopédia chữ Anh chữ Pháp (trên 100 cuốn), và rất nhiều bộ sách quý thuộc các ngành Công Pháp quốc tế, Khoa Học Kỹ Thuật, Hàng Không và cả khoa học Không Gian,v.v... mà anh Hữu đã tốn công sưu tầm trên 10 năm dài để làm giàu cho thư viện của Đất Nước, trong phút chốc bị "cọp 30" xơi tái hết! Chúng tôi đến gần lượm từng tờ của bộ Encyclopedia lên xem mà ứa nước mắt... nhưng không dám hỏi thêm vì bị ngay một "cọp 3O" khoảng 16 tuổi tới đuổi:

"Đi đi, tiếc gì mà coi, xé bỏ hết, đốt bỏ hết, nó là tiếng nước ngoài, của thực dân, của đế quốc đồi trụy, ru ngủ đầu độc dân tộc. Ta Độc lập rồi thì Ta cần gì ba cái thứ nầy nữa!!"
Tội nghiệp! Thật là tội nghiệp!!!
(Về sau mãi cho đến 1992 lúc chúng tôi sắp rời khòi VN, thì thư viện quốc gia nầy vẫn còn được cộng sản dùng làm "mặt bằng" cho mướn làm tiệc cưới và tiệc "liên hoan" của cán bộ công nhân viên các cấp).

Mục tiêu kế tiếp của bọn "cọp 30" là Thư Viện Bộ Giáo Dục, các nhà sách ở khu chợ Bến Thành và dài dài vô đến Chợ Lớn... sau đó tiểu ban đi xét từng nhà khắp đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, ai sợ thì cứ tự mình đốt, bỏ... nếu xét gặp thì chắc chắn phải gặp khó khăn với mấy "ông cọp 30 trẻ" nầy.

Về văn nghệ thì tất cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu không phải loại nhạc lai căn (lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang vào, đều được liệt vào loại "nhạc vàng của đế quốc Mỹ và tay sai", cấm lưu hành, xé đốt, hủy bỏ, ai lưu giữ sẽ có tội. Các kịch bản hay các vở tuồng cải lương, hát bộ v.v.. cũng phải được duyệt xếp loại lại (Bà Thiếu tá Cách Mạng đào hát Kim Cương phụ trách phần nầy).

Nói tóm lại Bắc Việt chủ trương hủy bỏ tất cả những gì mà họ cho là tàng tích của Mỹ Ngụy từ 75 trở về trước, để đem thay thế vào đó những gì mà miền Bắc đang có và đang áp dụng, không cần biết có hợp với dân tộc Việt Nam hay không và cũng không cần lượng xét hậu quả sẽ như thế nào (có nghĩa là thay vì đẩy Miền Bắc tiến lên để theo kịp đà phát triển của Miền Nam, họ làm mọi cách nhằm kéo lùi Miền Nam thụt lùi lại vài chục năm, sao cho trình độ văn minh tiến bộ của hai miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển như nhau... nhằm đưa đất nước Việt Nam vào con đường xã hội chủ nghĩa đúng theo lệnh của các quan thầy Liên Xô và Trung Cộng. Mãi cho đến cuối thập niên 80, lúc tôi ra khỏi trại tù cải tạo, lãnh đạo đảng Nguyễn Văn Linh nhờ chạy theo phong trào "đổi mới" của Liên Xô, mới chịu mở mắt ra và chừng đó mới thấy được là đảng cộng sản đã kéo cả đất nước và dân tộc Việt Nam đi lùi vào thời kỳ đồ đá... từ sau ngày cướp được chánh quyền mùa thu năm 1945 và nhất là để mất đi một cơ hội và một thời gian quá dài từ sau ngày nhuộm đỏ Miền Nam Việt Nam 30 tháng 4 1975.)

Ngày 4 tháng 5

Tôi đến nhà của Ngô công Đức vì nghe tin anh ta mới từ bên Pháp trở về Sài Gòn qua ngã Lào, Hà Nội (mang theo chiếc xe đạp). Đến nhà anh mới được biết là người vợ của anh đã sang ngang không biết vì lý do gì, (có thể vì hành động phản chiến của anh.) Đến đây tôi may mắn được gặp lại một người bạn thân, trung tá Nguyễn văn Binh, cựu quận trưởng quận Gò Vấp, (anh rễ của Ngô công Đức) may mắn có mặt tại Dinh Độc Lập từ sáng ngày 30/4, nhờ vậy tôi mới được biết thêm một vài chi tiết liên quan đến chuyện bộ đội Bắc Việt vào tiếp thu Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 4. Tôi phải ghi lại gần như nguyên văn lời của ông bạn Nguyễn văn Binh của tôi như sau :

"Sau khi chiến xa T.54 ủi sập một bên cổng chính của Dinh Độc Lập, (theo suy đoán của anh Binh thì đây là một hành động tượng trưng cho chiến thắng quân sự cuối cùng và quyết định của cộng sản Bắc Việt ) một số bộ đội tràn vào sân thượng hạ cờ VNCH xuống và treo cờ MTGPMN lên (chưa phải là cờ đỏ sao vàng của Bắc Việt ), một sĩ quan Bắc Việt có bộ đội hộ tống ập vào đại sảnh, nơi mà Tổng Thống Dương Văn Minh đang có mặt cùng với những người cộng sự viên thân tín nhứt trong Chánh Phủ của ông.
Thấy vị sĩ quan nầy đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của quân đội nhân dân Miền Bắc, nên ông Minh tưởng rằng mình đang đứng trước một tướng lãnh cao cấp.
-"Thưa quan sáu, tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông"
Sĩ quan nầy dùng danh từ "mầy tao" xẵng giọng hách dịch và đanh đá lên tiếng:
- "Mầy dám nói là trao quyền hả? Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mầy làm gì có "quyền" nào để giao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng nầy đây.
Ngoài ra tao xác nhận với mầy là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chánh trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ bây giờ tao cấm mầy không được ngồi xuống!

Mặt tướng Minh co dúm lại. ông chợt hiểu là ông không gặp được những người của MTGPMN mà là những người cộng sản Bắc Việt, dù họ treo cờ Việt Cộng trên xe. Không phải là những người Miền Nam đã vào chiếm Dinh Tổng Thống, mà đang đứng trước mặt ông là những chiếc xe tăng, những sĩ quan và bộ đội Bắc Việt và họ đã đối đãi với ông không như bạn hay đồng bào, mà như một kẻ thù thất trận!

Tướng Minh cố gắng tự kềm chế và dịu dàng hơn ông nói tiếp:
- "Chúng tôi đã có dự trù sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua...
Vị trung tá Bắc Việt ngăn ông lại và xẵng giọng:
- "Bọn bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ cái bếp tư sản của mầy lại đi. Chúng tao đã có cơm dã chiến của chúng tao, một nắm cơm nắm và một hộp thịt kho mặn"

Sau đó sĩ quan nầy ra lệnh nhốt tất cả các tổng trưởng hiện diện vào một gian phòng, sau khi đã cho lệnh khám xét rất cẩn thận và không khoan nhượng trước sự hiện diện các nhà báo ngoại quốc đang làm nhiệm vụ quay phim, chụp ảnh lia lịa cảnh tượng lịch sử nầy.

Sau đó ông Minh bị "bộ đội" bao quanh chĩa súng vào người ông, và vị sĩ quan cao cấp vung khẩu súng lục to đẩy ông lên một chiếc xe Jeep và phóng đi dưới hàng loạt ánh đèn chớp của máy ảnh và máy quay phim của báo chí. Ông được đưa đến đài phát thanh để ông phải lên tiếng kêu gọi lần chót với các binh sĩ còn đang tiếp tục chiến đấu. Vì chiến trận vẫn còn tiếp diễn gần như khắp nơi, ở ngoại ô, ở Chợ Lớn, chung quanh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, ở khu vực gần Tân Cảng, trước trung tâm truyền tin Phú Lâm,...

Đến 13 giờ, tướng Minh được đưa trở về Dinh Tổng Thống và bị nhốt dưới tầng hầm. "
Cũng vẫn theo lời của anh bạn tôi:
-
Ông Nguyễn Văn Hảo đương kim Tổng trưởng Tài Chánh đã có mặt tại dinh Độc Lập ngày 30/4/75 với tướng Dương Văn Minh, cùng với nội các của ông Vũ Văn Mẫu và một số nhân sự phản chiến tự xưng là thành phần thứ ba (như Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Cứ, Võ Long Triều,v.v...). Khi ông Minh được đưa trở về đến Dinh Độc Lập thì ông Hảo lên tiếng, nói một câu "bất hủ" với sĩ quan chỉ huy Bắc Việt rằng:
-"Tôi còn ở đây chờ quí vị, để trao cho quí vị một món quà, đó là trên 20 tấn vàng".
Vị sĩ quan đó đáp ngay tức khắc:
-"Đó không phải là quà mà là chiến lợi phẩm của chúng tao, tao phải tịch thu, mầy hãy trao ngay cho tao đi!".


Và ông Hão đã dẫn người nầy đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam ngay chiều ngày 30/4/1975, trao 3 chìa khóa hầm vàng cho đại diện Bắc Việt, để chỉ dẫn họ cách thức lấy 20 tấn vàng dằn kho của VNCH ở Ngân Hàng nầy. Sau đó ông Hảo vẫn bị đưa về nhốt chung với các vị Tổng trưởng khác".
..................
Ở nhà của Ngô công Đức, tôi được chứng kiến một cảnh "ngu dốt" của một toán bộ đội Bắc Việt, nói lên tình trạng quá lạc hậu đáng thương hại của người dân Miền Bắc nói chung:

Trong lúc tôi và anh Binh anh Đức ngồi ở phòng khách trò chuyện thì có một toán chừng 6 anh "bộ đội" ập vào nhà "khám xét".

Người chỉ huy cầm trong tay cái điện thoại và hách dịch hỏi anh Đức :
Cái "đài" nầy là của anh?
Phải, của tôi
Anh làm "chức vụ" gì lớn lắm của Mỹ Ngụy mà có cái "đài" nầy? anh dùng cái đài nầy để liên lạc với Mỹ Ngụy và với CIA phải không? Tôi phải bắt anh ngay về cơ quan để "làm việc", mặc áo vô đi rồi theo tôi ngay. (vì lúc đó anh Đức ở trần)
Xin lỗi anh tôi không đi đâu hết, cái nầy là cái điện thoại chớ không phải cái đài.
Đồ ngoan cố, cái nầy là cái điện đài, tôi được lệnh bắt anh, vì trong nhà anh có một cái điện đài mà không chịu đi khai báo.. . .

.. . . . . . .
Tôi rời khỏi nhà anh Đức trưa hôm đó, lòng suy nghĩ miên man. Thật tội nghiệp cho cái anh chàng phản chiến Ngô công Đức nầy, giờ nầy chạm mặt với thực tế có lẽ anh mới sáng mắt thấy rõ trình độ của người dân Miền Bắc và mức độ giáo dục và ảnh hưởng tuyên truyền nhồi nhét của cộng sản là thế nào đối với dân chúng..! Tội nghiệp cho cái anh bộ đội quá ngu dốt nầy, và cũng thật quá tội nghiệp cho người dân Miền Nam của mình trong những năm tháng sắp tới... có lẽ phài chịu sống đau khổ triền miên vì cái tình trạng ngu dốt của kẻ xăm lăng thống trị, đến từ Miền Bắc...

Ngày 5 tháng 5/75

Tôi quyết định đến nhà anh chị bác sĩ Nguyễn văn Tạo ở đường Pasteur để tạm trú và tạm lánh mặt chờ ngày 15 tháng 6 là ngày trình diện đi "học tập". Ở đây có lẽ yên hơn là về Sadec (gia đình tôi) hay Cai Lậy (gia đình bên vợ tôi), dù sao ở ngay Sài Gòn chắc không bị những màn trả thù rùng rợn như ở tỉnh, như một số tin tức mà tôi được biết cho tới ngày hôm nay.. (như ở ngay tnh Vĩnh Long, các ông cai tổng Nguyễn Văn Dần, Nguyễn Văn Xôm, Nguyễn Văn Thêm đều bị họ kết án là "có tội với nhân dân" mà không thông qua một tòa án nào, và bị hành quyết ngay khi bị bắt, bằng vũ khí thô sơ như búa, mã tấu...Riêng anh trung úy Dù Nguyễn văn Ngọc ở xã Long Hồ, dù đã chết từ hơn một năm trước, vẫn bị họ đào mả lên, đưa cả quan tài ra giữa chợ ở Ngã Tư Long Hồ để cho phá nát bằng cốt mìn.)

Sáng nay tôi phải lên thăm một thiếu tá tuyên úy Phật Giáo, đang là trụ trì tại một ngôi chùa ở Hạnh Thông Tây, và là người có trách nhiệm lo mọi công tác hậu sự cho quân nhân các cấp không may bị tử thương, và hằng ngày lo chăm nom săn sóc nơi an nghỉ cuối cùng của anh em quân nhân chúng tôi là "nghĩa trang quân đội Hạnh Thông Tây" nằm ở đối diện không xa với chùa nầy.

Đưa tôi vào chánh điện lạy Phật xong ông dẫn tôi lên phòng riêng và khi chỉ còn có hai chúng tôi thì ông nín không nổi nữa, bật lên khóc sướt mướt, ấp úng nói không thành lời. Sau một lúc khá lâu bình tâm trở lại ông mới nói rõ cho tôi nghe là không phải ông khóc vì chuyện "mất nước", nhưng khóc vì động lòng từ bi trước cảnh mồ mả trong nghĩa trang quân đội mà ông có trách nhiệm săn sóc đã bị cộng sản Bắc Việt dùng xe ủi đất san bằng hết ngay chiều ngày mồng 3 tháng 5 vừa qua.

Mặc cho sự van xin cầu khẩn của ông (trong bộ áo nâu sòng của một thượng tọa) họ vẫn san bằng hết từ nhà xác, nhà liệm xác, nhà nguyện cho đến ngôi mộ cuối cùng...... Ông vừa nói vừa tức tưởi khóc:
" Không hiểu sao họ quá tàn nhẫn như vậy? Họ nói là để lấy đất mà trồng trọt để nuôi nhân dân đang đói nghèo. Đất rộng như vầy, màu mỡ như vầy mà làm nghĩa địa thì phí của trời quá... độc ác với nhân dân quá!"
Thật tội nghiệp cho vị tuyên úy Phật Giáo nầy. Ông quá thật tình, nhìn sự việc qua lòng từ bi của một tu sĩ, nên không hiểu là hành động nầy phải xuất phát từ chủ trương và chánh sách của người cộng sản mà nhất là cộng sản Miền Bắc, đội quân tiền phong của Quốc tế Cộng sản Đệ Tam Nga Tầu.!
Dù họ là người Việt Nam nhưng tư tưởng, hành động và nhất là lương tâm của họ ngày hôm nay không còn thuộc về họ nữa. Họ phải theo đúng giáo điều Mác Lê, theo đúng lệnh của Staline, của Mao trạch Đông là những quan thầy trực tiếp điều khiển họ trong cuộc chiến tranh bành trướng về phương Nam nầy.
Ông bạn tuyên úy của tôi cũng chất phác như người dân Miền Nam đã từng cho những lời "tố cộng" của chánh quyền hay của Phòng Chiến Tranh Chánh trị là những chuyện "đặt điều" cốt để tuyên truyền tác động tinh thần của quân cán chính Miền Nam. Bây giờ chỉ mới giáp mặt với một vài hành động của họ thôi, rồi đây có lẽ từ từ rồi họ sẽ thấy được bộ mặt thật của con người cộng sản nầy. Nhưng từ hôm nay cho đến đó người dân Miền Nam chúng ta chắc còn sẽ phải chịu nhiều cảnh thương đau cùng cực nữa... trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của họ.

Tôi mời ông thiếu tá tuyên úy bạn tôi cùng lên nghĩa trang Biên Hòa để xem thử là họ đã ủi nghĩa trang quân đội ở đây chưa? Theo tin ông đã nhận được thì hình như họ cũng đã thực hiện công tác nầy rồi, cũng vào ngày 3 tháng 5.

Có đi đến nơi chúng tôi mới thấy rõ được hiện trạng. Thật là thê thảm! Trước hết là tượng hình của một binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến qua tượng đài "Thương Tiếc", một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật rất có giá trị đặt bên vệ đường ở mặt tiền của nghĩa trang quân đội đã bị cộng sản phá nát bằng cốt mìn, và ủi sạch không còn một chút dấu vết..Cả nghĩa trang rộng lớn cũng đã biến thành bình địa!

Trên đường về Hạnh Thông Tây cả hai chúng tôi yên lặng không trao đổi một lời nào, tôi tin chắc là cảm nghĩ của một người tu sĩ đương nhiên phải khác hẳn với cảm nghĩ của một chiến binh như tôi. Dù sao khi về đến chùa, trước khi giã từ, tôi cũng nói rõ cho Thầy tuyên úy bạn tôi thấy được cảm nghĩ của tôi:

- Hành động quá ư tàn nhẫn đến dã man nầy thật không đúng là hành động của bất cứ người Việt nào nhất là ở Miền Nam Việt Nam. Từ ngàn xưa, đúng theo đạo lý và truyền thống của dân tộc Việt, người Việt Nam chúng ta ai cũng biết là "nghĩa tử là nghĩa tận" hay "chết là hết". Dù giữa cá nhân anh và tôi có thù hằn nhau cách mấy nhưng khi anh hay tôi có người đã nằm xuống rồi thì coi như mối thù đó được xóa bỏ vĩnh viễn, không ai còn muốn nhắc đến nữa. Vậy ủi hết mồ mả của quân nhân các cấp thuộc QLVNCH có nghĩa là gì đây? Nếu không muốn nói trước hết là nhằm "trả thù cho quân đội và nhân dân Miền Bắc"? sau đó lại "xóa sạch được vết tích của QLVNCH, người đã chết xóa trước, người còn sống xóa sau? trong chủ trương sửa lại toàn bộ lịch sữ trong tương lai đối với các thế hệ trẻ sau 1975, một trang sử đấu tranh dai dẵng của Quân Dân Cán Chính Miền Nam đã hy sinh làm tiền đồn ngăn chận làn sóng xăm lăng cộng sản, trong suốt gần 30 năm từ 1945 mà họ cần phải xóa bỏ ? Tôi nghĩ chỉ có như vậy họ mới đang tâm có những hành động phi nhân đạo nầy. Và chắc chắn trên toàn bộ Miền Nam Việt Nam các nghĩa trang quân đội đều phải chịu chung một số phận.
Dĩ nhiên rồi cũng phải đến số phận của chúng tôi... những chiến binh còn sống sót.

Nhưng ngày nào còn có một chiến binh QLVNCH còn sống sót như cá nhân tôi thì ngày dó cộng sản Bắc Việt đừng hòng sửa được một trang sử nào!!!

Chúng tôi xin tạm chấm dứt mấy trang "Hồi Ký Dang Dở" ở đây, và xin thành tâm cầu nguyện cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được vĩnh viễn thoát khỏi ách độc tài đảng trị của bọn cộng sản vô thần khát máu và tàn bạo nầy.

Dương Hiếu Ngh
ĩa

Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, người dẫn đầu đoàn xe chở ông Diệm, qua đời

RICHLAND, Washington (NV) – Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa qua đời lúc 8 giờ 30 phút sáng Chủ Nhật, 14 Tháng Tư, trong một nhà dưỡng lão ở Richland, Washington, hưởng thọ 94 tuổi. Ông là người từng dẫn đầu đoàn xe chở anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu sau cuộc đảo chính 1 Tháng Mười Một, 1963, và trên đường trở về hai ông đã bị ám sát.

Bà Dương Thị Yến, ái nữ của ông Nghĩa, xác nhận tin này với nhật báo Người Việt hôm Thứ Năm, 18 Tháng Tư.

Bà cho biết thêm: “Ba tôi ra đi rất nhẹ nhàng. Ông đi trong giấc ngủ. Ông là một đảng viên cao cấp đảng Đại Việt, từng đỗ thủ khoa Khóa 5 Hoàng Diệu, trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, từng làm tỉnh trưởng Vĩnh Long. Ông cũng từng làm việc trong Ủy Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên trước năm 1975. Sau khi cuộc chiến kết thúc, ông bị đi tù Cộng Sản 13 năm.”

Bà Yến cho biết, sau này ông đã tu hành, trở thành một thiền sư, đã lập một số thiền viện và xuất bản cuốn “Quê Mẹ Oan Khiên.”

Khi được hỏi chi tiết về biến cố ông Diệm và ông Nhu bị ám sát năm 1963, bà Yến cho biết: “Lúc đó, ba tôi chỉ là thiếu tá, ông dẫn đầu đoàn công voa, đâu phải nhân vật cao cấp gì đâu, nhưng sau này có nhiều sách viết xuyên tạc chuyện này lắm.”

Trong một hồi ký đã công bố nhiều năm trước, Đai Tá Dương Hiếu Nghĩa cho biết ông không biết gì về việc hai anh em Tổng Thống Diệm bị sát hại trên đường đi; vì chiếc thiết vận xa chở hai ông đi phía sau còn xe ông Nghĩa dẫn đầu. Ông Nghĩa chỉ được lệnh đi đón hai ông Diệm, Nhu từ nhà thờ Cha Tam, Chợ Lớn, để đưa họ về Bộ Tổng Tham Mưu.

Trong email gởi ra cho người quen, bà Yến cho biết “tang lễ trong vòng gia đình và lễ hỏa táng đã được cử hành trong ngày Thứ Ba, 16 Tháng Tư.”