Friday, May 10, 2024

Chương 5: 1973-1974 Bắt đầu của Một Kết Thúc - Những Ngày Cuối của VNCH - Nguyên tác: The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn Viên


Trong hai năm 1973 và 1974, CSBV không chiếm được một tỉnh hay phần đất nào của VNCH. Có lúc CSBV nghĩ đến chuyện đánh Tây Ninh hay Kontum, nhưng phòng thủ của hai tỉnh đó nằm ngoài khả năng quân sự của cộng sản. Không còn mục tiêu nào, cộng sản chuyển hướng về Phước Long, một tỉnh lỵ nằm cực bắc của Vùng III. CSBV tấn công Phước Long với một lực lượng mạnh: hai sư đoàn rưỡi bộ binh, ba trung đoàn phòng không, thiết giáp, và pháo binh, cộng thêm vài đơn vị đặc công.
Đầu tháng 10-1974, qua tin tức thâu thập từ tình báo, phản gián, hồi chánh viên và tù binh, BTTM biết được kế hoạch CSBV chuẩn bị đánh chiếm Phước Long. Tin tức được BTTM chuyển đến bộ tư lệnh Quân Đoàn III, và bộ chỉ huy tiểu khu Phước Long. Tin tức về hoạt động của địch được bổ túc hàng ngày theo tình hình thay đổi. Cuộc tấn công của CSBV vào Phước Long không phải là một bất ngờ, ngoài ước đoán của chúng ta.
Phước Long nằm hướng đông bắc, cách Saigon 150 cây số đường bay. Biên giới ở hướng bắc của Phước Long nằm giáp giới với Cam Bốt. Phước Long gồm có bốn quận: Đức Phong, Phước Bình, Bố Đức và Đôn Luân. Phước Long có khoảng 30 ngàn dân, phần lớn là dân gốc Thượng, Stieng (Ma), và Mnong. Các dân thiểu số sống bằng nghề đốn cây và cạo mủ cao su. Dân gốc Kinh (Việt) còn lại là công chức hành chánh, buôn bán, hay phu đồn điền. Địa hình của Phước Long có nhiều đồi núi, rừng dầy, khó quan sát từ trên phi cơ. Từ lâu một phần của Phước Long là căn cứ hậu cần, tiếp liệu của cộng sản.(1) Phước Long nối với Saigon qua liên tỉnh lộ 1A và quốc lộ 14. Qua khỏi Phước Long, quốc lộ 14, theo hướng đông bắc, sẽ dẫn lên Quảng Đức và Ban Mê Thuột. Sông Bé là phi trường chánh của tỉnh, có khả năng tiếp nhận tất cả các lọai phi cơ từ hạng nhẹ cho đến loại vận tải cơ hạng nặng C-130. Thời tiết Phước Long có sương mù phủ kín từ 8 đến 9 giờ sáng; vào mùa mưa sương mù bao phủ cho đến 10, 11 giờ sáng.
Phước Long nhận tiếp tế qua hai đường 1A và 14. Một tuần sau ngày ngưng bắn CSBV cắt đứt liên tỉnh lộ 1A và quốc lộ 14 ở nhiều nơi. Sau khi hai đường tiếp tế chánh bị cắt đứt, Phước Long và bốn quận của tỉnh chỉ có thể nhận đồ tiếp tế bằng phi cơ và trực thăng. Hàng tháng Phước Long cần từ 400 đến 500 tấn nhu yếu phẩm cho dân và quân như gạo, muối, đường, đạn và nhiên liệu. Tháng 8-1974, quân đoàn III và II phối hợp hành quân, giải tỏa được quốc lộ 14. Thành công này tạm thời lấy đi gánh nặng về không vận bây giờ chỉ dùng vào những chuyến tiếp tế quân sự cần thiết như y dược, đạn và nhiên liệu.
Ngày 14 tháng 12-1974, CSBV đánh chiếm quận Đức Phong, nằm ngang quốc lộ 14. Một lần nữa Phước Long phải sống nhờ vào không vận. Tiếp tế bằng không vận cho Phước Long rất tốn kém và thất thường vì hỏa lực phòng không địch bố trí chung quanh.
Lực lượng bảo vệ Phước Long gồm năm tiểu đoàn Địa Phương Quân, với cấp số 750 đến 900 mỗi tiểu đoàn, và 48 trung đội Nghĩa Quân tổng cộng khoảng 1000 người. Pháo binh yểm trợ đến từ 4 pháo đội của tiểu khu. Khi thấy một số tiền đồn của chúng ta rơi vào tay địch, quân đoàn III tăng viện cho Phước Long tiểu đoàn 2 (trung đoàn7/sư đoàn 5 BB), và hai pháo đội gồm 6 đại bác 105 ly và 4 đại bác 155 ly. Thêm vào đó, quân đoàn còn cho thêm ba đại đội trinh sát của các sư đoàn 5, 7, và 25BB.
Trận Phước Long bắt đầu vào cuối tháng 12-1974, kết thúc ngày 6 tháng 1-1975.(2)
Ngày 13 tháng 12-1974 CSBV tấn công thăm dò vào quận lỵ Đôn Luân nhưng cuộc tấn công bị các đơn vị dũng cảm Địa Phương Quân bẻ gẫy. Đêm hôm sau, ngày 14, cộng sản cùng lúc tấn công chớp nhoáng vào hai quận Đức Phong và Bố Đức. Hai cứ điểm rơi vào tay cộng sản với không một chống cự nào đáng kể. Những cuộc điều tra sau này không tìm ra nguyên nhân tại sao hai quận mất quá nhanh, vì tất cả cấp chỉ huy đều bị mất tích khi hai tiền đồn rơi vào tay địch. Đêm kế tiếp, 15 tháng 12, một căn cứ hỏa lực do một đơn vị Địa Phương Quân bảo vệ, bị tấn công và tràn ngập. Chúng ta mất hai pháo đội đại bác tại căn cứ hỏa lực này.
Trước những tấn công tới tấp của CSBV, quân đoàn III không vận vào Phước Long tiểu đoàn 2 (trung đoàn 7/sư đoàn 5 BB) từ căn cứ Lai Khê. Được tăng viện, tiểu khu Phước Long mở cuộc hành quân phản công, chiếm lại được quận Bố Đức vào ngày 16. Nếu nói về khả năng tác chiến của các đơn vị địa phương trong giai đoạn này, Phước Long chỉ còn tiểu đoàn 2 bộ binh (thuộc trung đoàn 7 nói trên) và hai tiểu đoàn Địa Phương Quân của tiểu khu là còn khả năng tác chiến. Các đơn vị còn lại tổng số hơn ba ngàn quân di tản về từ các tiền đồn cần được tái trang bị và tổ chức để có thể xử dụng lại. Tiểu đoàn 2 bộ binh được chỉ định giữ vai trò chánh trong nỗ lực phòng thủ quận lỵ Phước Bình, một phần tỉnh lỵ Phước Long, và phi trường Sông Bé. Bản doanh của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận cũng đóng ở phi trường này.
Với sự hỗ trợ đầy đủ của BTTM, Quân Đoàn III xử dụng phi cơ vận tải và trực thăng CH-47 để tiếp tế đạn, vũ khí và quân dụng cho quân phòng thủ, và cũng để tái trang bị các đơn vị đã di tản từ tiền đồn về đang tụ lại tỉnh lỵ. Những chuyến bay tiếp tế trên đường trở về, đem ra Phước Long gia đình và thân nhân binh sĩ, công chức và cán bộ dân sự. Thẩm quyền tiểu khu muốn di tản dân đi để không phải lo lắng về tiếp tế và an ninh cho dân chúng.
Trong thời gian đó, áp lực của CSBV càng lúc càng gia tăng chung quanh thành phố. Phi trường Sông Bé bị pháo kích nặng. Các chuyến bay tiếp tế bị phòng không bắn chận ở hai hướng bắc và tây bắc của phi trường. Một vận tải cơ C-130 bị bắn cháy khi còn nằm trong ụ. Ngày hôm sau một C-130 hạ cánh với đồ tiếp tế và một toán chuyên viên không quân sửa chữa. Khi cất cánh chiếc này bị trúng đạn phá hủy. Lợi dụng phi trường tê liệt, địch di chuyển các ổ cao xạ sát vào vòng đai, canh chừng các ngõ tiếp tế bằng không vận của chúng ta. Lai Khê, bản doanh của sư đoàn 5, nơi các trực thăng ngừng lại để đổ xăng trên đường đi đến Phước Long, cũng bị áp lực pháo kích và phòng không của cộng sản.
Cùng lúc pháo kích áp đảo phi trường, đêm 22 tháng 12-1974, địch tấn công quận Bố Đức lần thứ hai. Lần này Bố Đức mất vào tay địch. Bốn ngày sau, hai sư đoàn 7 và 3 CSBV (sư đoàn 3 này mới thành lập ở miền nam, khác với sư đoàn 3 đang hoạt động ở Bình Định) đánh vào quận Đôn Luân, và Đôn Luân thất thủ. Khi mất Đôn Luân vào tay địch, trừ quận lỵ Phước Bình và thành phố Phước Long nằm trong ranh giới quận, tất cả tỉnh Phước Long hoàn toàn nằm trong tay CSBV.
Đêm 30 tháng 12-1974 hai sư đoàn 7 và 3, với sự hỗ trợ của một trung đoàn xe tăng, pháo binh của quân đoàn, tấn công Phước Bình đây là vòng đai phòng thủ của tỉnh Phước Long. Trận đánh kéo dài từ nửa đêm cho đến chiều hôm sau thì bộ chỉ huy của chi khu và trung tâm hành quân bị pháo địch bắn phá hủy. Lính của tiểu khu và của tiểu đoàn 2/trung đoàn 7 rút về phòng tuyến mới ở phi trường Sông Bé. Tại đây lính VNCH bắn cháy 4 xe tăng ở đầu một phi đạo, gây tử thương và bắt sống 50 cán binh CSBV. Trong lúc đó, một lực lượng khác của địch tiến về núi Bà Rá, một địa hình nổi bật nhất của tỉnh, với ý định chận đường rút lui của tiểu đoàn 2. Sau một ngày chiến đấu ác liệt, quân chúng ta rút vào phòng tuyến của tỉnh và sát nhập vào các đơn vị địa phương quân ở đó. Sau khi cô lập được quân VNCH, địch chỉ tấn công quân ta vào ban ngày; ban đêm địch bắn quấy phá vào phòng tuyến của chúng ta.
Ngày hôm đó không quân VNCH bay hơn 100 phi vụ yểm trợ cho các lượng ở Phước Long. Không quân dùng đủ loại bom đánh địch, kể luôn loại bom CBU chống biển người. Không quân có thể tập trung hỏa lực mạnh như vậy để yểm trợ cho Phước Long vì BTTM đã huy động không lực từ quân đoàn II và IV về. Nhưng để làm gián đoạn nỗ lực yểm trợ của không quân từ Sư Đoàn 3 Không Quân, 6 giờ sáng ngày 1 tháng 1-1975, cộng quân pháo kích mạnh vào phi trường Biên Hòa. Pháo của địch phá hủy một vài đoạn phi đạo và làm cháy nhà, văn phòng trong chung cư của phi trường. Tất cả phi vụ xuất phát từ phi trường Biên Hòa bị gián đoạn đến 1 giờ chiều cùng ngày.
Bảy giờ sáng ngày phi trường Biên Hòa bị pháo kích, cộng quân mở cuộc tấn công đánh thẳng vào thành phố Phước Long từ hướng nam. Nhưng cuộc tấn công của địch bị chận đứng ngay chân đồi dẫn lên phố. Trong khi đó địch lấy được cao điểm của ta ở núi Bà Rá. Chiếm xong, địch dùng núi làm đài quan sát và kéo đại pháo 130 ly lên bắn trực xạ vào hệ thống phòng thủ của Phước Long.
Đến ngày 3 tháng 1, pháo của địch phá hủy pháo binh của chúng ta trong thành phố, gồm 8 khẩu 105 ly và 4 khẩu 155 ly. Để ngăn cản các cuộc tiếp viện bằng không lực, cộng sản thiết lập nhiều dàn phòng không chung quanh thành phố, gây nhiều trở ngại cho các chuyến tiếp vận và yểm trợ của không quân. Ngày 2 tháng 1, nhờ vào yểm trợ tối đa và hệ thống địa hình phòng thủ vững chắc, quân trú phòng đẩy lui nhiều đợt tấn công của đối phương. 15 xe tăng của địch bị không quân và quân trú phòng bắn cháy từ lúc đầu cuộc tấn công. Ngày 2 tháng 1, tỉnh trưởng Phước Long xin phương tiện tải thương, tiếp viện và quân bổ sung. Tuy nhiên vì đài chuyển vận truyền tin duy nhất còn lại trên núi Bà Rá bị phá hủy, tất cả liên lạc từ Phước Long ra ngoài bị cắt đứt.
Một buổi họp khẩn cấp được triệu tập tại dinh Độc Lập. Tổng thống Thiệu chủ toạ như thường lệ, với sự tham dự của phó tổng thống Trần Văn Hương, thủ tướng Trần Thiện Khiêm, phụ tá an ninh quốc phòng Đặng Văn Quang, tư lệnh không quân Trần Văn Minh, tư lệnh quân đoàn III Dư Quốc Đống, trung tướng tham mưu trưởng BTTM kiêm tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận Đồng Văn Khuyên, và tác giả (Dương Văn Minh), Tổng Tham Mưu Trưởng BTTM. Đề tài của buổi họp là có nên tăng viện cho Phước Long hay không, và nếu tăng viện, thì tăng viện như thế nào về quân nhu, nhân sự.
Tướng Dư Quốc Đống, tư lệnh quân đoàn III, trình bày về tình hình của Phước Long nói riêng và của quân đoàn, nói chung. Để giải cứu Phước Long, tướng Đống đề nghị xin một sư đoàn bộ binh, hay sư đoàn Nhảy Dù. Quân tăng viện sẽ đổ bộ xuống hướng bắc Phước Long bằng trực thăng dưới sự yểm trợ tối đa của không quân. Trình bày xong ý kiến, tướng Đống xin được từ chức, viện cớ là từ khi nhậm chức tư lệnh quân đoàn, ông đã không đủ khả năng giải quyết được tình hình quân sự của vùng.
Tổng thống Thiệu bác bỏ lời xin từ chức của tướng Dư Quốc Đống, vấn đề hệ trọng ngay trong lúc này, theo tổng thống Thiệu, là giải quyết vấn đề Phước Long trước. Sau khi nghiên cứu tình hình, kế hoạch tiếp viện thêm quân cho Phước Long bị hủy bỏ dựa vào các lý do sau:
Bộ Tổng Tham Mưu không còn quân tổng trừ bị: hai sư đoàn Dù và TQLC đang được xử dụng cho vùng I và tình hình không cho phép hai đơn vị rời khỏi mặt trận. Tình hình chiến sự ở hai vùng II và IV cũng không cho phép giảm thiểu quân số nếu muốn cán cân quân sự được quân bình và an ninh được bảo đảm. Riêng tại vùng III, hai sư đoàn cơ hữu của quân đoàn là sư đoàn 18 và 25BB được dùng án ngữ khu vực Tây Ninh, cản áp lực của Công Trường (sư đoàn) 5 và 9 CSBV đang hướng về Saigon.
Trong trường hợp tìm được quân để tiếp viện, lực lượng tiếp viện này phải được di chuyển bằng không vận vì đường bộ dẫn về Phước Long bị cắt. Ngoài các đơn vị không quân cơ hữu của quân đoàn III, lực lượng không vận cần có thêm là 2 phi đoàn trực thăng UH-1, 1 phi đoàn trực thăng CH-47, kèm thêm một số phi cơ khác để yểm trợ và oanh tạc. Bộ Tổng Tham Mưu có thể trưng dụng các phi đoàn trực thăng UH-1 từ Vùng II và IV, nhưng các phi đoàn trực thăng CH-47 thì không tìm được đâu ra. Các phi đoàn CH-47 tân lập ở Vùng II và IV có khả năng hoạt động rất giới hạn: mỗi phi đoàn chỉ cung cấp được từ bốn đến sáu phi cơ mỗi ngày và đó là con số tối thiểu quân đoàn cần phải có cho các phi vụ khẩn cấp ở mặt trận của họ. Ngoài ra, trực thăng UH-1 không thể bay thẳng từ Biên Hòa đến Phước Long, và trực thăng CH-47 thì không thể bốc chở đại bác 155 ly được.
Về tiếp tế: Không quân có thể thả 60 đến 100 tấn đồ tiếp tế cho quân phòng thủ từ bảy đến mười ngày, với điều kiện họ kiểm soát an ninh cho một vùng nhận hàng lớn. Nhưng nếu không quân phải tiếp tục thả viện trợ trên mười ngày thì các quân khu khác phải hy sinh khả năng không vận của họ cho cuộc tiếp tế ở Phước Long. Bộ Tổng Tham Mưu phỏng định không quân sẽ bị thiệt hại cao trước hỏa lực phòng không của địch đang có mặt chung quanh Phước Long. Sự thiệt hại về không lực sẽ không được thay thế vì ngân quỹ dành cho không quân không còn nữa.
Thời gian tính của chiến trường: Dù có được một vị trí phòng thủ kiên cố, quân trú phòng Phước Long không thể chống cự lâu trước sự tấn công của hai sư đoàn cộng sản. Trong điều kiện quân tiếp viện được gởi đến giải vây, lực lượng này phải có mặt ở Phước Long cấp tốc trong vòng hai, ba ngày trước khi quân trú phòng bị tràn ngập. Giả định sư đoàn Nhảy Dù đảm nhiệm cuộc hành quân giải vây, thời gian qui động, trang bị và chuyên chở sẽ mất từ năm đến bảy ngày. Nếu gởi một sư đoàn Bộ Binh từ Vùng IV, thời gian cần thiết để chuẩn bị cho sư đoàn ra mặt trận là ba ngày năm 1972, sư đoàn 21 Bộ Binh cần một thời gian tương đương khi được gởi đến Chơn Thành để tiếp viện cho mặt trận An Lộc.
Tính cách chiến lược của Phước Long: Nếu so sánh toàn diện, Phước Long không quan trọng bằng Tây Ninh, Pleiku, hay Huế về phương diện kinh tế, chính trị và dân số. Theo BTTM, trong thời điểm ngặt nghèo về ngân quỹ quốc phòng đang đối diện, nếu phải giữ đất thì chúng ta nên củng cố lực lượng để giữ Tây Ninh hay Huế hơn là Phước Long.
Buổi họp đi đến quyết định sau cùng là dùng quân của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù (BCND) để giải cứu Phước Long. Liên Đoàn 81, với kinh nghiệm ở An Lộc năm 1972 và khả năng đánh rừng núi sâu trong lòng địch, được chọn cho nhiệm vụ này. Liên Đoàn 81 có nhiệm vụ hỗ trợ quân trú phòng ở phía nam thành phố, hướng tấn công của CSBV. Liên Đoàn còn có nhiệm vụ tái chiếm núi Bà Rá.
Ngày 3 tháng 1-1975, tình hình Phước Long không thay đổi nhiều, trừ những áp lực liên tục của CSBV ở hướng nam. Vòng đai phòng thủ của tỉnh bây giờ thu hẹp lại vào chung quanh chợ, sân bay L-19, và trung tâm hành chánh. Tất cả đại bác của quân trú phòng bị hủy hoại sau khi cộng sản bắn hơn hai ngàn quả đạn vào dinh tỉnh trưởng và bộ chỉ huy tiểu khu. Từ cao độ 12 ngàn bộ, không quân thả hơn hai mươi tấn đạn và đồ tiếp liệu cho quân trú phòng ở hướng bắc của bộ chỉ huy tiểu khu. Những cuộc không trợ được thực hiện chính xác, tuy nhiên vì sự pháo kích dồn dập của cộng quân, quân trú phòng gặp nhiều khó khăn khi tiếp nhận đồ tiếp tế từ trên không. Hơn 300 quân nhân bị thương đang chờ di tản. Bộ tư lệnh dự định dùng các trưc thăng đổ quân Liên Đoàn 81 để di tản họ trên đường bay trở lại. Ngày đổ bộ Liên Đoàn 81 được dự định là ngày 4 tháng 1-1975.
Trong thời gian này, Liên Đoàn 81 đã qui động và trang bị hai đại đội, sẳn sàng hành quân. Tư lệnh của Liên Đoàn dùng trực thăng quan sát và chọn được một bãi đổ quân ở những chân đồi, hướng bắc của bộ chi huy tiểu khu. Ngày 4, mưa và mây thấp làm đình trệ hai dự định đổ quân. Cộng quân gia tăng pháo kích và tấn công, nhưng quân trú phòng giữ vững vị trí phòng thủ của họ. Trung tâm chỉ huy hành quân bị pháo liên tục và cuối cùng bị hủy hoại. Vị chỉ huy phó của tiểu khu tử thương, và trung tá Xuân, tỉnh trưởng Phước Long bị thương nặng. Xe tăng của cộng quân đã xuất hiện ở phía nam và tây thành phố. Sau khi trung tâm hành quân bị phá hủy, liên lạc tiểu khu và bộ tư lệnh quân đoàn III chỉ còn được một băng tầng vô tuyến để gọi nhau.
Tám giờ sáng ngày 5 tháng 1-1975, không quân thực hiện 60 vụ oanh tạc để dọn bãi đổ quân ở phía bắc thành phố. Chín giờ sáng, một đại đội (120 người) BKND nhảy xuống nơi ấn định. Toán quân bắt tay và phối hợp được ngay với quân trú phòng. Mười một giờ, Liên Đoàn 81 đổ bộ thêm một đại đội và bộ chỉ huy của lực lượng xuống hướng bắc dinh tỉnh trưởng. Khoảng ba giờ chiều, sau khi cuộc đổ bộ hoàn tất, hơn 250 quân nhân của Liên Đoàn 81 được thả xuống thành phố dưới những cơn pháo kích mãnh liệt của cộng quân. Quân ta chỉ bị thiệt hại một tiểu đội trong cuộc đổ quân, vài trực thăng bị phòng không địch bắn trúng nhưng bay về được. Tuy nhiên với hỏa lực phòng không mãnh liệt của đối phương, dự định di tản các thương binh không thực hiện được như đã định.
Trong khi đó xe tăng địch chọc thủng phòng tuyến của Địa Phương Quân tại Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận, và trên đường tiến về trung tâm thành phố. Các toán đặc công di chuyển trên xe tăng nhanh chóng thiết lập các chốt phòng thủ trong khi xe tăng tiến về hai hai mục tiêu là dinh tỉnh trưởng và bộ chỉ huy tiểu khu. Dinh tỉnh trưởng đang được xử dụng làm bộ chỉ huy của Biệt Cách Nhảy Dù (BCND). Nhưng cuộc tấn công của cộng quân lúc đó bị chận đứng; BCND phản công đánh chiếm lại các mục tiêu bị mất, nhất là Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận. Mặc dù cuộc phản công của BCND mãnh liệt và gan lì, họ đã không lấy lại được các mục tiêu đã mất vào tay địch. Đến thời gian đó của trận chiến, BCND mất gần 50 phần trăm lực lượng. Súng chống xe tăng loại M-72 do quân ta xử dụng không hữu hiệu để hủy hoại chiến xa địch. Xe tăng của cộng quân trong cuộc tấn công này có gắn thêm chướng ngại vật hai bên hông xe; và xe chỉ đổ phân nửa bình xăng để giãm thiểu thiệt hại trong trường hợp bị trúng đạn. Súng không giật 90 ly hữu hiệu với xe tăng của địch quân hơn. (Còn tiếp...)
Chú thích:
1. Theo William E. Le Gro trong Vietnam from Cease-Fire to Capitulation, trang 133, Phước Long là căn cứ của nhiều bộ chỉ huy chiến thuật, tiếp liệu của CSBV. Đồn điền Bù Đốp-Bố Đức là bản doanh của bộ chỉ huy M-26 Xe Tăng gồm ba tiểu đoàn xe tăng. Bộ chỉ huy nằm cách phi trường Sông Bé 45 cây số. Ngoài bộ chỉ huy xe tăng ở B-2, các bộ chỉ huy của CSBV đóng ở Phước Long gồm có Bộ Tư Lệnh Công Binh (ở Bố Đức) với ba tiểu đoàn công binh, và các bộ chỉ huy Quân Xa, Huấn Luyện, Hậu Cần, đóng ở khoảng Tây Ninh-Bù Gia Mập. Phước Long là đoạn cuối của bốn đường xâm nhập bắc nam tụ về (chú thích dịch giả).
2. Lực lượng cộng sản đánh vào mặt trận Phước Long là Quân Đoàn 4, (thiếu tướng Hoàng Cầm, tư lệnh; đại tá Bùi Cát Vũ, chính ủy). Các trung đoàn tham dự là 3 trung đoàn 141, 209, 165 của sư đoàn 7; ba trung đoàn 201, 271, 16, và hai trung đoàn cao xạ. Đọc Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Tập II, Quyển Hai, (nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, 1990), trang 193-194 (chú thích của dịch giả).

Nguyễn Kỳ Phong

No comments:

Post a Comment