Cuối tháng 3 năm 1975, Quân Khu 1 hoàn toàn thất thủ, Quân khu 2
chỉ còn Phan Rang và Phan Thiết trong tổng số 12 tỉnh, đến ngày 4-4
hai tỉnh này được sáp nhập vào Quân khu 3. Trên thực tế cả hai Vùng 1 và
2 được coi như đã lọt vào tay quân thù, các sư đoàn chủ lực của Quân
khu 2 và Quân khu 1 phần thì tan rã, phần đã bị thiệt hại nặng nề tới
1/2 hay 2/3 lực lượng.
Cuộc triệt thoái Cao Nguyên đã
khiến cho trên 75% chủ lực của Quân đoàn 2 bị tan rã, sư đoàn 23 và 7
liên đoàn Biệt động quân mất gần hết quân số. Sư đoàn 22 vùng duyên hải
giao tranh dữ dội với các sư đoàn Việt Cộng cuối tháng 3 tại Bình
Định, khi được tầu Hải quân đến cứu tại Qui Nhơn chỉ còn 2000 người.
Toàn bộ xe tăng, thiết giáp khoảng 470 chiếc, 380 khẩu pháo đều bị bỏ
lại hết, một số ít bị phá hủy còn lại lọt vào tay kẻ địch.
Các sư đoàn cơ hữu 1, 2, 3 của Quân đoàn 1 và sư đoàn TQLC đã bị
thiệt hại nặng trên đường triệt thoái, 90 ngàn chủ lực quân của quân
đoàn chỉ có 16 ngàn được tầu vớt chở về miền Nam trong đó khoảng 6000
TQLC, 45% quân số của sư đoàn. Toàn bộ trên 400 khẩu pháo, 450 xe tăng
coi như mất hết, một số lớn lọt vào tay Cộng quân. Các kho đạn, nhiên
liệu tại miền Trung chưa kịp hủy cũng đã biến thành chiến lợi phẩm của
địch. Phạm Huấn nói về sự thiệt hại do kế hoạch triệt thoái gây nên như
sau:
“Chiến lược ‘đầu bé đít to’ của ông Thiệu là rút bỏ
vùng rừng núi Cao Nguyên, vùng ít dân, ‘đất cằn sỏi đá’ miền Trung,
mang chủ lực quân, đại bác chiến xa về phòng thủ vùng đông dân, mầu mỡ:
miền đồng bằng sông Cửu Long và vùng duyên hải.
Nhưng chỉ
hai tuần lễ, khởi đầu bằng Quyết Định Cam Ranh triệt thoái khỏi Cao
Nguyên ngày 14-3-1975, sau đó lệnh chính thức rút bỏ Huế ngày 20-3-1975,
chiến lược ‘Đầu bé Đít to’ của ông Thiệu đã làm tan rã 1/2 Quân Lực
Việt Nam Cộng Hoà và mất 2/3 Đất Nước.
Tất cả lực lượng
Thiết Giáp và Pháo Binh của Quân đoàn II và Quân Đoàn I bị hủy diệt. 3
sư đoàn 1, 3, 23 Bộ Binh bị tan rã hoàn toàn. Các Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến, Sư Đoàn 2, 22 Bộ Binh, ba Sư Đoàn 1, 2, 6 Không Quân, 1 Lữ Đoàn
Dù, 11 Liên Đoàn Biệt Động Quân, các Liên Đoàn Công Binh, Truyền Tin,
Tiếp Vận, Quân Cụ, các Trường Trung Tâm Huấn Luyện Bộ Binh, Biệt Động
Quân, Pháo Binh… bị thiệt hại từ 60 phần trăm đến 70 phần trăm quân số.
Tổng số phi cơ các loại bỏ lại khoảng 200 cùng với 900 đại bác và hơn 1000 chiến xa.
‘Thành quả’ chiến lược ‘Đấu bé Đít to’ của ông Thiệu, trong 2
tuần, quả đã vượt xa mọi kỷ lục về thiệt hại trong cuộc chiến Việt Nam
từ trước đến nay”
(Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975 trang 98.)
Trong khi Đồng minh phản bội cắt giảm quân viện khiến ta thiếu
hụt về nhiên liệu đạn dược, hoả lực giảm 60%, kế hoạch triệt thoái hỗn
độn vô tổ chức của Tướng Thiệu lại càng làm cho tình hình xấu đi một
cách nhanh chóng tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Cộng chiếm nốt phần
đất còn lại của miền Nam.
“Chúng ta đã tiêu diệt và làm
tan rã hơn 35 phần trăm sinh lực địch, lần đầu tiên diệt và loại khỏi
vòng chiến đấu 2 quân đoàn địch, hơn 40 phần trăm các binh khí kỹ thuật
hiện đại của chúng bị mất; ta thu và phá hơn 40 phần trăm cơ sở vật chất
và hậu cần của quân ngụy, giải phóng 12 tỉnh, đưa tổng số nhân dân vùng
giải phóng lên gần 8 triệu”
(Văn Tiến Dũng, Đại Thắng Mùa Xuân trang 136.)
Một điều vô cùng nguy hại là trong trong cuộc lui binh vội vã
hỗn độn, các kho vũ khí đạn dược, quân dụng, cơ sở tiếp liệu… không kịp
hủy đã lọt vào tay quân thù, đúng là giáo vào tay giặc, miền Nam đã
đưa dao cho người ta giết mình.
Văn Tiến Dũng khoe.
“bộ đội hy sinh và bị thương rất ít so với thắng lợi đã giành được, vũ khí, đạn dược tiêu hao không đáng kể…
…
Ta thu đựợc của địch một khối lượng rất lớn vũ khí và đạn dược. Về thế
chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị ta đã có sức mạnh áp đảo quân
địch.
(ĐTMX trang 137)
Vũ khí đạn dược,
binh khí kỹ thuật của ta kể cả máy bay đã được Việt Cộng triệt để khai
thác xử dụng để đánh lại ta khiến cho lực lượng địch ngày càng lớn mạnh
như đi hia bẩy dặm, phải nói là kế hoạch lui binh của ta quá tệ đến nỗi
máy bay chiến đấu mà còn để lọt vào tay quân thù.
“Các
chiến sĩ ta đã tranh thủ nghiên cứu, tìm tòi và học sử dụng các loại vũ
khí và phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ.
Trong đội
hình hành quân của ta bắt đầu xen lẫn những xe bọc thép M.113, xe tăng
M.48, M.41, những khẩu pháo 105, 155 mi-li-mét, những máy thông tin
chiến thuật PCR 25 của Mỹ. Đặc biệt là những máy bay chiến đấu A.37, F.5
lấy được của địch đã được các đồng chí lái máy bay chiến đấu của ta
chuyển sang tập xử dụng. Khả năng ta lấy của địch, đánh địch chưa bao
giờ phong phú và giầu có như trong chiến dịch này. Khả năng to lớn ấy
làm cho hoả lực của ta càng áp đảo địch một cách ghê gớm và cũng làm cho
tốc độ tiến công của ta càng cao”
(Văn Tiến Dũng, ĐTMX trang 148.)
Trước khi phát động cuộc tổng tấn công, Bộ chính trị Trung ương
đảng Cộng Sản Bắc Việt hoạch định kế hoạch 2 năm để nuốt trọn miền nam,
như thế địch cũng đã đánh giá cao lực lượng và khả năng tác chiến của
quân ta nhưng kế hoạch di tản, tái phối trí lực lượng của Tướng Thiệu và
những lệnh lạc lừng khừng không dứt khoát của ông đã tạo điều kiện vô
cùng thuận lợi cho kẻ địch.
“Quyết tâm chiến lược của Bộ
Chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976: năm
1975, tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để
năm 1976 tiến hành Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn
toàn miền Nam.
(Văn Tiến Dũng, ĐTMX trang 29)
Trong phim Vietnam history by Television, khi trả lời phỏng vấn, Văn
Tiến Dũng cũng nói như vậy, y nói Bắc Việt dự trù hai năm để giải
phóng toàn bộ miền Nam. Sự sai lầm chiến lược của ta đã dọn cỗ sẵn cho
Việt Cộng xơi, khôn ba năm dại một giờ, lãnh đạo của ta đã tạo thời cơ
cho địch, rút ngắn thời hạn tổng công kích của chúng để biến thành kế
hoạch chớp nhoáng.
Cuộc lui binh trên tỉnh lộ 7 và tại
Thừa Thiên - Đà Nẵng khiến cho cả hai quân đoàn của ta tan rã trong vòng
ba tuần lễ, đó là món quà tự trên trời rơi xuống của Việt Cộng. Địch
bèn chớp thời cơ táo bạo tập trung toàn bộ lực lượng tấn công chiếm Sài
Gòn, lần này Việt Cộng xả láng dốc toàn bộ lực lượng vào cái mà chúng
gọi là “Chiến dịch Hồ chí Minh lịch sử”. Trong chiến dịch tháng 3 -
1975, Bắc Việt tung vào hai quân khu 1 và 2 của ta 14 sư đoàn bộ binh,
nay thấy thời cơ đã tới chúng đưa nốt 3 sư đoàn tổng trừ bị ở ngoài Bắc
vào cộng với hơn một chục trung đoàn độc lập đã đưa lực lượng tham gia
chiến dịch này lên tới gần 20 sư đoàn bộ binh chưa kể sự yểm trợ hùng
hậu của hơn hai chục trung đoàn xe tăng, pháo binh, phòng không, công
binh… Văn Tiến Dũng nói.
“Chúng tôi nóng ruột chờ đón
đồng chí Lê Đức Thọ vào, chờ đón những chỉ thị cực kỳ quan trọng của Bộ
Chính trị vào thời điểm này của dân tộc.
Ngày 25 tháng 3, Bộ
Chính trị lại họp. Phiên họp lịch sử ấy khẳng định: ‘Cuộc tổng tiến công
chiến lược của ta đã bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ chiến
lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng
miền Nam , Bộ Chính trị chủ trương: tập trung nhanh nhất lực lượng, binh
khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.”
(ĐTMX trang 124.)
Việt Cộng phát hiện nhậy bén, nhanh tay nắm ngay lấy thời cơ.
“Thời cơ giải phóng Sài Gòn càng ngày càng chín mùi”
(ĐTMX trang 129.)
Địch chớp thời cơ nghìn năm một thuở, chưa bao giờ chúng gặp cơ
hội béo bở như thế, cả một đạo binh to lớn hai trăm nghìn người bỗng tan
rã tháo chạy khỏi hai quân khu. Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông
Dương hai quân đoàn cùng triệt thoái giao lại đất cho kẻ địch, chúng
tiến nhanh y như vào chỗ không người, Văn Tiến Dũng nói.
“Cán bộ cơ quan tham mưu ở mặt trận lúc này phải thốt lên: ‘Vẽ bản đồ không kịp bước quân đi’
(ĐTMX trang 122)
Trong khi Việt Cộng hối hả chuyên chở bằng cả ba phương tiện
đường thủy, đường bộ, đường hàng không để chuyển vận vũ khí, quân nhu,
nhân lực … đánh xả láng một ván bài chót thì ta hầu như không thấy có
một kế hoạch nào khả dĩ ngăn chận bước tiến của địch.
“Để
kịp phục vụ cho chiến trường sẽ được giải phóng sau cùng của cả nước,
Quân khu 5 tổ chức một đoàn xe đặc biệt, chở thẳng vào Nam Bộ những thứ
súng đạn cần thiết mà Khu 5 vừa thu được của địch và những thứ của bộ
đội ta mà Khu chưa dùng hết khi giải phóng Đà Nẵng và các tỉnh phía Nam.
Đoàn xe này do đồng chí thiếu tướng Võ Thứ, Phó tư lệnh Quân khu 5,
trực tiếp chỉ huy chạy từ đồng bằng Quân khu lên Tây nguyên rồi đi xuống
miền Đông Nam Bộ.
Các sân bay Gia Lâm, Vĩnh Phú, Đồng Hới,
Phú Bài, Đà Nẵng, Công Tum nhộn nhịp khác thường. Các loại máy bay lên
thẳng nặng, nhẹ, các loại máy bay vận tải và cả máy bay chở khách đặc
biệt của ta đều được huy động, không những để chở người, chở đạn, chở vũ
khí, chở sách, báo, phim ảnh, tranh vẽ, bản nhạc… mà còn chở hàng tấn
bản đồ Sài Gòn – Gia Định vừa mới in xong ở Xưởng bản đồ Bộ Tổng tham
mưu ta tại Hà Nội.
Các bến sông Hồng, sông Gianh, sông Mã,
sông Hàn, các cảng Hải Phòng, Cửa Hội, Thuận An, Đà nẵng cũng ngày đêm
nhộn nhịp. Các mặt hàng được bốc xếp kịp thời để các đoàn tầu vận tải
của Bộ giao thông vận tải và tầu của Hải quân nhân dân đưa vào phía
trong, nối dài đường biển qua các cảng vừa được giải phóng như Qui Nhơn,
Cam Ranh.
Phải có bằng ấy con đường và phương tiện mới đủ
sức vận chuyển thần tốc ra mặt trận một số lượng quân đội và vật chất
lớn chưa từng có của cách mạng nước ta.”
(ĐTMX trang 142)
Trước cuộc chuyển vận bộ đội, súng đạn, quân nhu … ồ ạt vào Nam
của quân thù, ta không thấy một kế hoạch cụ thể nào của Bộ Tổng tham
mưu hay Dinh Độc Lập khả dĩ ngăn chận hoặc giảm bước tiến quân của địch
như oanh tạc các đoàn xe, tầu vận tải, phục kích đánh công voa, giật sập
cầu cống, phá đường … Thượng cấp của ta quan tâm tới cuộc phòng thủ
phần đất còn lại thì ít mà lo cho kế hoạch “Tẩu vi thượng sách” của
mình thì nhiều.
Ngày 4-4-1975 Phan Rang và Phan hiết
được sáp nhập vào Quân khu 3. Tại Phan Rang lực lượng ta gồm 2 trung
đoàn bộ binh 4 và 5 thuộc sư đoàn 2, 1 lữ đoàn Dù, 1 liên đoàn Biệt Động
quân, 4 tiểu đoàn Địa phương quân, sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2
khu trục hạm, một giang pháo hạm, một hải vận hạm… Trung Tướng Nguyễn
Vĩnh Nghi Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 đóng tại Tháp Chàm.
Phan Rang phố xá vắng tanh, dân di tản về Phan Thiết rất nhiều,
ngày 14-4 Việt Cộng tấn công tuyến phòng thủ Phan Rang tại phi trường,
một tiểu đoàn Dù đụng độ Việt Cộng, địch bỏ xác cả 100 tên. Ngày 15-4
Phó Thủ tướng đặc trách Quốc phòng Trần văn Đôn và Tướng Toàn thị sát
mặt trận. Khi phái đoàn vừa về thì Việt Cộng tấn công mạnh, địch tăng
cường sư đoàn 325 và nhiều chiến xa. Quân đội VNCH phản công dữ dội
nhưng không thể chống lại lực lượng quá đông của địch phải rút lui,
trung đoàn 4 và 5 tan rã. Khuya ngày 16-4 chỉ có 200 người thoát vòng
vây, các sĩ quan thuộc Bộ tư lệnh tiền phương và và sư đoàn 6 không quân
bị bắt hết, các đơn vị ta tại đây coi như tan rã, Việt Cộng chiếm được
40 máy bay tại Phan Rang.
Hai hôm sau ngày 18-4 Phan Thiết cũng bị lọt vào tay Cộng quân
Quân đoàn 4 BV gồm các đơn vị đã chiếm QK 2 theo Quốc lộ 1, Quốc
lộ 20 tiến về Sài Gòn, gần giao điểm của hai Quốc lộ này là Xuân Lộc
thuộc tỉnh Long khánh cách Sài Gòn 60 cây số, Xuân lộc giữ vị trí quan
trọng bảo vệ phi trường Biên Hoà.
Phạm vi trách nhiệm
của sư đoàn 18 là Long Khánh, phụ trách an ninh phía Bắc căn cứ Long
Bình, Quốc lộ 15 và căn cứ Không quân Biên Hoà. CSBV huy độïng 4 sư đoàn
thuộc Quân đoàn 4 đã bị sứt mẻ: sư đoàn 6 gồm 2300 người, sư đoàn 7 có
4100, sư đoàn 341, sư đoàn 1 gồm 3400 người sư đoàn 325 gồm5000 người,
trung đoàn biệt lập 95B gồm 1200 người.
BV khi tấn công Xuân Lộc nhằm các mục tiêu.
- Tấn công tuyến phòng thủ then chốt phía đông như Xuân Lộc, Bà Rịa, Vũng Tầu.
- Kéo lực lượng Việt nam Cộng Hoà ra ngoài để tiêu diệt, mở cửa lớn để vào Sài Gòn.
- Thu hút lực lượng Việt Nam Cộng Hoà vào phía đông để đưa các
lực lượng khác tới bắc và tây bắc Sài Gòn. Giữa tháng 3 sư đoàn 18 bắt
được một số tù binh còn nhỏ tuổi, mới được đưa từ ngoài Bắc vào, lấy
cung tù binh biết trước ý dịnh củaVC, sư đoàn 18 chuẩn bị sẵn sàng chờ
địch. Bộ binh và pháo binh được đưa lên giữ các cao điểm quan trọng, gia
đình binh sĩ được đưa về hậu cứ Biên Hoà.
Sáng 9-4 Việt
Cộng pháo Xuân Lộc 4000 quả, cho hai tiểu đoàn đặc công đột nhập thị xã
bị đẩy lui bỏ lại hằng trăm xác chết, dân bị trúng đạn nhiều người
chết, địch pháo phi trường Biên Hoà. Ngày 11-4 tiểu đoàn 2/52 VNCH băng
rừng tăng cường Xuân Lộc đã phục kích tiêu diệt một đoàn xe 30 chiếc ,
gần 100 tên VC bỏ xác. Quân đội VNCH kháng cự mãnh liệt tại Xuân Lộc,
biệt đội kỹ thuật của ta bắt được điện báo VC và biết vị trí đóng quân
của chúng để gọi máy bay oanh kích khiến thiệt hại của địch cao. Xuân
Lộc tuy không phải là mục tiêu cuối cùng nhưng vẫn là mục tiêu chính, VC
đưa thêm quân vào chiến trường, sáng ngày 16-4 Tướng Toàn cho lệnh thả 2
trái bom CBU (Daisy Cutter) tại Bắc Gầu Giây tiêu diệt nhiều đơn vị bộ
binh, thiết giáp, pháo binh địch. Bị Việt Cộng tố cáo trên dư luận quốc
tế nên Mỹ không dám cung cấp ngòi nổ, sự thực họ chỉ thử nghiệm vũ khí
cũng như ngăn chận đà tiến quá nhanh của VC để dễ di tản khỏi VN.
Ngày 20-4 Tướng Toàn bay trực thăng vào Xuân Lộc gặp Tướng Đảo
bàn kế hoạch lui binh, sư đoàn 18 rút lui vào lúc đêm vừa đánh vừa rút,
giữ trật tự bình tĩnh, tối 20 trung đoàn 48 về đến Long Giao đặt pháo
binh yểm trợ tổng quát cho cuộc lui binh, sau đó truyền tin, công binh,
pháo binh, quân y… rút theo.
Sư đoàn 18 thiệt hại 30%
quân số, Địa phương quân nghĩa quân bị thiệt hại nặng, VC chết 5000, 37
xe tăng bị bắn cháy. Sư đoàn 18 để 2500 quân ở ngoài và 2500 quân ở
trong thị xã, VC pháo 2000 quả, đến tối sư đoàn 6 VC phải gom quân rút
lui. Trân đánh kéo dài mấy ngày, VC đưa thêm vào mặt trận một sư đoàn
nữa ngày 10 để tấn công thị xã nhưng vẫn bị đẩy lui. Địch pháo 2000 quả
vào tuyến phòng thủ nhưng sư đoàn 18 vẫn đứng vững. Trước đấy sư đoàn
này được coi như một sư đoàn loại dở, tệ thế nhưng đã đẩy lui nhiều đợt
tấn công dữ dội của đối phương. Trong mấy ngày tấn công VC đã pháo 8000
quả vào Xuân Lộc nhưng sư đoàn 18 vẫn bám sát trận địa chiến đấu rất
dũng mãnh không lùi một bước.
Sư đoàn 18 lui binh tốt đẹp cho thấy khuyết điểm của Quân đoàn 1 và 2.
- Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh, không kiểm soát đôn đốc từ cấp chỉ huy.
- Gia đình binh sĩ, dân chúng di tản làm rối loạn hàng ngũ, sư
đoàn 18 đã có kế hoạch cho di tản gia đình binh sĩ về Biên Hoà trước nên
không sẩy ra hỗn loạn. Ngày 18-4 Ủy ban Quốc phòng Thượng viện Mỹ bác
bỏ đề nghị viện trợ khẩn cấp cho VNCH của Tổng thống Ford.
Từ ngày 8-4 -1975 Lê Đức Thọ, người thực sự cầm đầu Bắc Việt chủ toạ
phiên họp tại Lộc Ninh với các cán bộ thuộc Trung ương Cục miền Nam và
Bộ Tổng tham mưu CS. Thọ tuyên bố thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch giải
phóng Sài Gòn Chợ Lớn, Tư lệnh Đại Tướng Văn Tiến Dũng, Chính ủy Phạm
Hùng, Phó Tư Lệïnh Thượng Tướng Trần Văn Trà. Bộ Tư lệïnh bàn kế hoạch
đánh chiếm Bộ TTM, dinh Độc Lập, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Bộ Tư lệnh
Cảnh Sát Quốc Gia, Phi trường Tân Sơn Nhất.
Ngày 21-4, Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng thống tại dinh Độc lập để rồi mấy hôm sau ra khỏi nước.
Phó Tổng thống Trần văn Hương lên thay, trong khi ấy các nhà
ngoại giao quốc tế ra sức vận động hai bên để tránh cho Sài Gòn khỏi trở
thành bãi chiến trường. Mấy hôm sau Cộng quân bắn 4 trái hoả tiễn 120
ly vào Khánh Hội làm cháy mấy chục căn nhà. Đài BBC nói BV cảnh cáo
chính phủ Trần Văn Hương phải bàn giao cho một chính quyền do họ chỉ
định, người ta hiểu ngay đó là nhóm chính khách thứ ba do ông Dương Văn
Minh lãnh đạo. Ngày 27-4 Quốc Hội nhóm họp để biểu quyết việc trao quyền
cho Dương Văn Minh.
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh
Quân đoàn 3 QLVNCH tổ chức phòng thủ Thủ đô trên 5 tuyến chính với
khoảng cách tới trung tâm thành phố xa hơn tầm pháo của đại bác 130 ly
VC đồng thời bảo vệ các căn cứ quan trọng tại Biên Hoà, Củ chi, Lai Khê,
Long Bình.
Phía tây bắc là tuyến Củ chi với sư đoàn 25
BB và hai liên đoàn 8, 9 Biệt động quân. Tuyến Bình Dương ở phía bắc với
sư đoàn 5 BB. Tuyến Biên Hoà phía đông bắc với sư đoàn 18 BB và lực
lượng Xung kích Quân đoàn 3. Tuyến Vũng tầu và Quốc lộ 15 do lữ đoàn 1
Dù cùng với một tiểu đoàn thuộc sư đoàn 3 BB và các đơn vị thiết giáp,
Địa phương quân, nghĩa quân của tiểu khu Phước Tuy phụ trách. Tuyến Long
An phía nam ngoài lực lượng địa phương quân, nghĩa quân cơ hữu còn có
sư đoàn sư đoàn 22 BB phụ trách cộng với sự tăng cường của trung đoàn 12
thuộc sư đoàn 7 BB và trung đoàn 14 thuộc sư đoàn 9 BB và Liên đoàn 6
BĐQ.
Năm tuyến phòng thủ chính của ta cũng trùng với 5
hướng tấn công của năm quân đoàn địch: Hướng tây nam là đoàn 232, Tư
lệnh trung tướng Lê đức Anh với các sư đoàn 3, 5, 8, 9 BB và 27 đặc công
và 4 trung đoàn độc lập 16, 24, 88, 71 và trung đoàn phòng không tiến
từ sông Vàm Cỏ Đông và Hậu Nghĩa. Quân đoàn 3, Tư lệnh thiếu Tướng Vũ
Lăng gồm các sư đoàn 10, 316, 320 và 968 tiến về phía Tây Ninh. Phía bắc
là quân đoàn 1, Tư lệnh là Thiếu Tướng Nguyễn Hoà gồm các sư đoàn 312,
320B và 308 từ Lộc Ninh và Phước Long tiến về khu tập trung ở phía nam
sông Bé. Quân đoàn 4, Tư lệnh Thiếu tướng Hoàng Cầm gồm các sư đoàn 6, 7
và 341 sau khi chiếm Xuân Lộc đang tiến về Trảng Bom. Mũi sau cùng là
quân đoàn 2 , Tư lệnh thiếu tướng Nguyễn Hữu An gồm các sư đoàn 3 Sao
vàng, 304, 324B, và 325 tiến đánh Long Thành, Vũng Tầu, Phước Lễ.
Kế hoạch BV như sau: Hướng tây bắc quân đoàn 3 và địa phương
quân Tây ninh, Củ chi, các lực lượng đặc công biệt động, tăng pháo tiến
đánh căn cứ Đồng Dù, tiêu diệt sư đoàn 25 từ Củ chi đến Trảng bàng rồi
tiến đánh Tân sơn nhất, phối hợp với quân đoàn 1 đánh Bộ Tổng tham mưu
sau đó tiến về Dinh Độc Lập. Hướng bắc quân đoàn 1 cùng các lực lượng
đặc công, pháo binh, hoả tiễn.. bao vây căn cứ Bình Dương, Bến Cát rồi
đánh BTTM, BTL các binh chủng Gò gấp rồi tiến về dinh Độc Lập. Hướng
đông quân đoàn 4 tiến đánh Biên Hoà, phi trường BH rồi tiến vào quận 1
SG. Hướng Đông nam quân đoàn 2 đánh Bà Rịa, Vũng Tầu.. để chặn đường rút
lui của VNCH, chiếm căn cứ Nươcù Trong, Long thành, pháo kích phi
trường TSN, chiếm Long bình. Hướng tây, tây nam đoàn 232 chiếm Hậu
nghĩa, rồi tiến đánh Biệt Khu Thủ Đô.
Quân đội VNCH như
chúng ta đã biết từ cuối tháng 3-1975 đã mất gần một nửa lực lượng chủ
lực. Tại Quân khu 3 ta chỉ còn 3 sư đoàn 25, 5, 18 và các đơn vị di tản
từ miền Trung về với quân số thiếu hụt, tổng cộng gần 6 sư đoàn để đối
đầu với khoảng 20 sư đoàn BV. Lực lượng hai bên như sau.
“Về tương quan lực lượng giữa hai bên thì QLVNCH chỉ có 6 sư đoàn để bảo
vệ thủ đô chống lại một lực lượng đông đảo với quân số gần 20 sư đoàn
CSBV. Ba sư đoàn 7, 9 và 21 BB thuộc quân đoàn IV QLVNCH không thể dùng
để tiếp ứng do điều kiện an ninh lãnh thổ của vùng đồng bằng sông Cửu
Long. CS cũng đã xác nhận cán cân lực lượng trong chiến dịch này như
sau:
Ta: 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4, và 232 bao gồm 15 sư đoàn
bộ binh, 5 lữ đoàn bộ binh biệt lập, 4 trung đoàn tăng thiết giáp và 6
trung đoàn đặc công. Quân số tổng cộng khoảng 280 ngàn với 400 xe tăng
và 420 pháo.
Địch: 5 sư đoàn bộ binh 5, 18, 22 và 25, sư
đoàn TQLC, 2 lữ đoàn Dù, lữ đoàn 3 Kỵ binh và 4 liên đoàn Biệt động
quân. Quân số tổng cộng khoảng 240 ngàn với 625 xe tăng thiết giáp và
400 pháo”
Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập.
Quân số của BV gồm 280 ngàn người trong đó đa số là thành phần
tác chiến, lính VC không có lương nên không có các đơn vị hành chánh
tài chánh, chúng cũng không có cứu thương y tế, bác sĩ, y tá… nên nói
chung thực lực địch đông đảo hơn ta nhiều.
Quân số của
VNCH là 240 ngàn nhưng trong đó chỉ có khoảng sáu chục ngàn là lính nhà
nghề, còn lại là địa phương quân, nghĩa quân và các thành phần không
chiến đấu. BV có đầy đủ đạn dược trong khi ta gặp khó khăn về tiếp
liệu, lực lượng hai bên trên thực tế chênh lệch, ưu thế quân sự về phía
địch.
Bắt đầu từ 26-4-1975 VC đã bắt đầu tấn công vào
Trường Thiết Giáp Long Thành, căn cứ Nước Trong, đặc công tấn công Tân
cảng, cầu xa lộ, đài ra đa Phú Lâm nhưng thất bại bị đẩy lui.
Sáng ngày 27-4 sư đoàn 3 BV tấn công chiếm Phước Lễ, Lữ đoàn Dù
rút về Vũng Tầu, sư đoàn 18 được lệnh lui về giữ Trảng Bom. Phía tây các
căn cứ dọc theo Vàm Cỏ Đông lần lượt bị VC chiếm, chúng pháo phi trường
Biên Hoà dữ dội, sư đoàn 3 Không quân phải di về Tân sơn nhất và Cần
thơ. Phía tây nam đoàn 232 cắt quốc lộ 4 nhiều nơi để chận viện binh từ
quân khu 4, phía bắc quân đoàn 1 BV tiến về Thủ Đầu Một, phía tây bắc
quân đoàn 3 BV cắt quốc lộï 1 và 21 để chặn đường rút của sư đoàn 25 BB.
Chiều ngày 28-4 Tướng Dương Văn Minh tuyên thệ nhậm chức Tổng
thống tại dinh Độc Lập, chừng một tiếng sau, tên phi công nằm vùng trung
úy Nguyễn Thành Trung hướng dẫn năm phi cơ A-37 của ta do Việt Cộng
chiếm được ném bom phi trường Tân Sơn Nhất rung chuyển cả trời đất khiến
dân chúng Đô thành hốt hoảng. Tối hôm ấy BTL Quân đoàn 3 di chuyển từ
Biên Hoà về Gò Vấp.
Từ 4 giờ sáng ngày 29-4 BTTM, phi
trường Tân Sơn nhất, BTL Hải quân bị pháo kích dữ dội. Cộng quân chiếm
được Nhơn Trạch đặt hai khẩu 130 ly pháo 300 quả vào Tân Sơn Nhất gây
nhiều thiệt hại nặng, các bãi đậu phi cơ, bồn chứa nhiên liệu, kho đạn
bị trúng pháo kích gây nhiều đám cháy lớn. Sư đoàn 325 BV chiếm Nhơn
Trạch, thành Tuy Hạ, tiến về Cát Lái. Sư đoàn 304 chiếm căn cứ Nước
Trong.
Trong khi ấy Dương văn Minh cử ba người sứ giả
đến trại Đê Vít tại Tân Sơn Nhất để thương thuyết ngưng bắn với phái
đoàn Quân sự VC nhưng bị Đại tá Võ Đông Giang bác bỏ.
Tại Biên Hòa sư đoàn 18 cùng với lực lượng xung kích Quân đoàn 3, Lữ
đoàn 4 Dù và 469 TQLC … vẫn giữ được phòng tuyến. Buổi chiều Bộ Tư lệnh
Hải quân và Không quân di tản. Một liên đoàn BĐQ tại Bến Tranh Bắùc Mỹ
Tho được lệnh trực thăng vận về Cần Đước ngăn chận Việt Cộng trên liên
tỉnh lộ 5A nhưng không có trực thăng, do đó Chợ Lớn được coi như bỏ ngỏ.
Đến tối Cộng quân đụng độ với các chiến đoàn 315, 322 tại hai hướng
đông bắc thành phố. Trung tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng tham mưu trưởng lệnh
cho sư đoàn 18 BB về giữ khu vực nằm giũa Thủ Đức và nghĩa trang Quân
đội.
Phía bắc, căn cứ Lai Khê của sư đoàn 5 bị địch pháo kích dữ dội, quận Bến Cát bị tấn công.
Phía tây 2 liên đoàn 8, 9 BĐQ bị thiệt hại nặng , VC bỏ xác cả
trăm tên cùng 18 xe tăng bị bắn cháy, quốc lộ 1 giữa Sài Gòn và Củ Chi
bị gián đoạn.
Sư đoàn 22 BB vẫn làm chủ được tình hình phía nam, mặc dù bị VC tấn công.
Chiều 29-4 toà Đại sứ Mỹ bắt đầu di tản bằng trực thăng, sau
19 giờ bay liên tục 80 trực thăng đã chở đi được hơn 1,000 người Mỹ và
khoảng 6,000 người Việt Nam ra ngoài hạm đội.
Ngày 30-4
một trung đoàn BV giao tranh ác liệt với quân Dù tại Ngã Tư Bẩy Hiền và
Lăng Cha Cả, VC bị thiệt hại nặng tới 50% quân số. Địch tấn công trại
Hoàng Hoa Thám, BTL không quân, căn cứ sư đoàn 25 BB VNCH thất thủ,
chuẩn Tướng Lý Tòng Bá bị bắt.
Cộng quân xâm nhập Ngã Tư
Bẩy Hiền, trong vòng 15 phút có 6 chiến xa bị liên đoàn 81 Biệt Cách Dù
bắn hạ, địch bị chận đánh tơi bời phải rút khỏi ngã tư Bẩy Hiền.
Theo Tướng Hoàng Lạc, ông Dương Văn Minh lại cử người tới Tân
Sơn Nhất để thương thuyết với VC xem có vớt vát được tí nào không nhưng
họ vẫn một mực đòi phải buông súng đầu hàng nếu không chúng sẽ bắn phá
dữ dội thành phố. Sài Gòn bây giờ đang nằm trong tầm pháo của quân thù.
Tướng Dương Văn Minh phần vì thấy phòng tuyến của ta đã sụp đổ dưới các
trận tấn công, pháo kích của địch, chúng đã vào sát thành phố không hy
vọng cứu vãn được tình thế. Lúc 10 giờ 30, trên đài phát thanh, ông tân
Tổng thống kêu gọi các cấp chỉ huy, binh sĩ QĐVNCH ngưng bắn giao nạp
vũ khí cho các đơn vị Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam để tránh đổ máu vô ích.
Khi ấy tiếng súng trận khắp nơi đều đã im bặt.
Dương
Văn Minh tuyên bố ngưng bắn thì Lê Đức Thọ ban lệnh cho các quân đoàn BV
không chấp nhận đình chiến cứ tiến thẳng vào Sài Gòn tước vũ khí và bắt
quân ngụy đầu hàng không điều kiện. Cộng quân tiến vào Thủ Đô đang bỏ
ngỏ làm bốn ngả: Cánh thứ nhất từ Long Khánh theo xa lộ Biên Hoà, thứ
hai từ Củ Chi qua Ngã Tư Bẩy Hiền, thứ ba từ Long An kéo lên qua ngả Phú
Lâm Chợ Lớn, cánh cuối cùng từ Bình Dương theo xa lộ Đại Hàn vào Hàng
Xanh.
Theo báo Sài Gòn Giải Phóng năm 1976 nhân ngày kỷ
niệm chiến thắng 30-4, VC cho biết đoàn quân vào dinh Độc Lập trước
nhất là cánh từ Long An, họ có chụp hình những chiếc xe lội nước PT-76
vào sân dinh và bộ đội thiết giáp VC trên xe nhẩy xuống. Theo tài liệu
của ký giả ngoại quốc hoặc do lời kể của các viên chức chính phủ trong
dinh Độc Lập thì cánh quân từ Biên Hoà cùng với các xe T-54 đã tiến
chiếm dinh Độc Lập trước tiên.
Báo VC năm 1976 cho biết
người đi đầu là một viên đại uý, được các viên chức tiếp đón tại cửa
vào, y hỏi thăm đường lên lầu rồi vội kéo cờ vàng của ta xuống để treo
cờ Mặt trận lên để chứng tỏ giang sơn này, đất nước này đã hoàn toàn
thuộc về CS. Trong số các sĩ quan BV vào tiếp thu dinh Độc Lập sau đó,
người cấp bậc cao nhất là một Đại tá ký giả chiến trường (journaliste de
guerre), các tài liệu Mỹ (Vietnam, A History; The World Almanac Of The
Vietnam War) đều nói tên người này là Bùi Tín. Báo chí VC năm 76 đăng
tấm hình ngày 30-4-1975 tại dinh Độc Lập, Dương Văn Minh nói với viên
Đại Tá VC bước vào dinh.
“Chúng tôi chờ các ông đến để bàn giao quyền hành”
Viên Đại tá VC (không thấy nói tên) người to lớn nắm tay trợn
mắt la lối dữ tợn trước ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu nguyên văn.
“Các ông còn cái gì nữa để mà bàn giao, các ông phải đầu hàng vô điều kiện”
Rồi hống hách bắt Tướng Dương Văn Minh phải lên đài phát thanh
tuyên bố đầu hàng. Bùi Tín nói láo hoàn toàn, trong khi ấy Quân khu 4
vẫn còn nguyên vẹn với hơn 200 ngàn địa phương quân và ba sư đoàn BB chủ
lực. Vì là một bọn nhà quê, VC không biết một tí gì về nghi lễ quốc tế
của chiến tranh, quân sự. Khi tiếp thu một cuộc đầu hàng tại mặt trận,
nếu là cấp bậc thấp hơn phải chào người cấp bậc cao dù kẻ ấy thua trận,
kế đó bắt họ ký giấy đầu hàng không thể chửi bới vô phép như vậy. Theo
lời kể của cựu dân biểu Lý Quí Chung thì cả những tên sĩ quan cấp úy BV
khi mới vào dinh cũng quát tháo những người cầm đầu chính phủ và gọi họ
bằng anh.
“Các anh phải hàng hết”
Chúng
ta thấy rõ các thanh niên xuất thân từ một xã hội bán khai lạc hậu như
miền Bắc chỉ là những người thiếu giáo dục.
Sau khi ông
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì các mặt trận quanh Sài gòn đều im
tiếng súng chỉ còn một vài trận lẻ tẻ như tại Hố Nai, bốn tiếng sau lệnh
đầu hàng, Thiếu Uý Tư, Biệt kích Dù và năm người lính thân tín dùng
súng chống chiến xa M-72 phục kích bắn cháy, lật một xe Jeep, một T-54, 2
xe Molotova… rồi chạy thoát hết. Khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng thì Tướng Phạm Văn Phú Tư lệnh Quân đoàn 2 và Tướng Lê Nguyên Vỹ,
Tư lệnh sư đoàn 5 tự sát.
Quân khu 4 vẫn còn nguyên
vẹn, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam không cho giật sập cầu Long An như Tỉnh
trưởng đề nghị. Theo lời kể của Trung úy Lê Ngọc Danh, sĩ quan tùy viên
của Tướng Nam thì, trước khi tự sát ông đã thắp nhang lễ vái trước bàn
thờ Phật. Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó tự sát chiều tối 30-4,
hôm sau 1-5 Tướng Nam cũng tự sát lúc 7 giờ rưỡi sáng, Chuẩn tướng Trần
Văn Hai tư lệnh sư đoàn 7 cũng tự vẫn.
Thực ra rất nhiều
người quyên sinh trước ngày tàn của chế độ, của đất nước như thiếu tá
Đặng Sĩ Vinh thuộc BTL Cảnh sát Quốc gia tự sát lúc 2 giờ chiều 30-4
cùng vợ và 7 người con tại nhà riêng. Trung tá Vũ đình Duy, Trung tá
Nguyễn Văn Hoàn thuộc Đơn vị 101 tự sát… Các quân nhân Biệt kích Dù cũng
như nhiều binh chủng khác đã mở lựu đạn tự tử vì chán chường thất vọng
khi thấy đất nước lọt vào tay quân thù. Ngoài ra còn nhiều người tự sát
ngoài mặt trận như Trung tá Nguyễn Hữu Thống trung đoàn trưởng trung
đoàn 42 (sư đoàn 22) khi tầu Hải quân vào Qui Nhơn cứu đám tàn quân của
sư đoàn cuối tháng 3-75 , Trung tá Thống từ chối di tản ở lại tự sát.
Đại Tá Lê Cầu, Trung đoàn trưởng trung đoàn 47 (sư đoàn 22) cũng tự sát
ngoài mặt trận khi không còn lối thoát.
Tháng 4 năm 2006
một cựu sĩ quan tham mưu của Quân đoàn 4 tiết lộ ngày 30-4-1975 họ đã
dự định hành quân qua Miên sang Thái Lan hoặc ra Phú Quốc lập phòng
tuyến chống lại CS, cũng có người cho rằng Quân khu 4 chờ chính phủ Sài
Gòn dời xuống để tiếp tục chiến đấu nhưng ông Dương Văn Minh lại đầu
hàng địch. Theo lời kể của Trung uý Danh, tuỳ viên của Tướng Nam thì ông
là người nhân ái, sùng đạo Phật không muốn đổ máu, ông hay lễ bái trước
bàn thờ Phật tại văn phòng.
“Là một tư lệnh Quân đoàn,
đã nắm trong tay nhiều đơn vị trung thành, tướng Nguyễn Khoa Nam có thể
ra lệnh tiếp tục chiến đấu, nhưng là vị tướng có lòng nhân ái, không
muốn binh sĩ và đồng bào đổ máu vô ích, ông không cho phá cầu, ông không
muốn có người chết thêm”
(Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Bút ký của Trung úy Lê Ngọc Danh.)
Nhận xét về Tướng Dương Văn Minh nhiều người hồi đó cũng như bây
giờ chỉ trích chê bai ông là kẻ đầu hàng địch, dâng nước cho Việt Cộng,
nhưng cũng có nhiều người đồng ý với quyết định củaTướng Minh cho rằng
tiếp tục chiến đấu sẽ chỉ gây thêm tang tóc đổ máu cho quân dân một cách
vô ích không hy vọng gì cứu vãn tình thế. Sau khi ra định cư tại Hải
ngoại, Đại Tướng Dương Văn Minh đã trả lời phỏng vấn:
“Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu dân”.
Nhiều người bỏ nước chạy trước khi Sài Gòn thất thủ cả tuần
hoặc hai ba tuần lễ nhưng nay cũng vẫn lớn tiếng chê bai Tướng Minh đầu
hàng phản bội!.
Quyết định đầu hàng của Dương Văn Minh có
thể coi là hợp tình huống vì dù tiếp tục chiến đấu anh dũng cũng vẫn
thua, tuy nhiên sau này ông lại chấp nhận để Việt Cộng phục hồi quyền
công dân cho mình và đi bầu Quốc Hội VC thì thật là thiếu tự trọng, một
người cấp bậc Đại Tướng bốn sao như ông không thể hèn nhát như vậy được.
Trong khi có những Tướng lãnh, quân nhân… tự sát để giữ danh dự cho
QĐVNCH thì lại có những nhà quân sự, công chức cao cấp hèn nhát bỏ chạy
và rồi sau đó còn huyênh hoang tuyên bố chỉ trích người này người nọ.
Việt Cộng bắt đầu mở chiến dịch tấn công Sài Gòn từ 26-4-
1975, bốn ngày sau phòng tuyến của ta đã hoàn toàn sụp đổ. Trước khi
Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống người ta đã đoán biết công việc của
ông chỉ là để đầu hàng. Một viên chức hành chánh thân cận của ông Trần
Văn Hương sau này tiết lộ hồi đó ông Hương cho biết người ta đã sắp đặt
sẵn để ông Thiệu bàn giao cho ông Hương rồi ông Hương bàn giao cho ông
Minh, ngay cả việc Dương Văn Minh yêu cầu cơ quan Tuỳ viên quân sự DAO
Mỹ rút lui cũng là do người ta sắp đặt cả. Khi Dương Văn Minh đang làm
lễ bàn giao ngày 28-4 thì đài BBC đã nói.
“Hôm nay tại
Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử giữ chức vụ Quyền Tổng thống do ông
Trần Văn Hương trao lại để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng”
Như thế mọi việc đã được sắp đặt cả, tất cả chỉ là một tấn tuồng hề
chính trị. Nhiều người không tin tưởng ông Dương văn Minh, họ cho rằng
sau cuộc đảo chính 1-11-1963, cờ đã đến tay mà ông không phất được thì
chẳng bao giờ thành công. Khi hai Tướng Thiệu và Khiêm ra đi hôm 24-4,
quân dân đều thất vọng lớn, ai nấy thừa hiểu số phận của miền Nam như
thế nào, lại nữa hai hôm sau đó, Tổng Thống Trần Văn Hương hiệu triệu
đồng bào về tình hình vô cùng bi đát của đất nước, ông đã khóc lóc trên
làn sóng điện về viễn ảnh “cái núi xương sông máu của thành phố Sài Gòn”
khiến cho quân dân ai nấy mất hết tinh thần.
Phần thì
ta không đủ lực lượng để chống lại gần 20 sư đoàn Cộng quân, phần vì đạn
dược thiếu hụt do cắt quân viện, lại nữa trong hàng lãnh đạo nhiều
người bỏ trốn như ngày 28-4 các ông Tổng tham mưu trưởng, Tư lệnh quân
đoàn 3 và nhiều ông lớn khác đã “tẩu vi thượng sách”, cha chung không ai
khóc... Đài BBC Luân Đôn cũng tuyên truyền phá hoại khiến binh sĩ thất
vọng chán chường, tinh thần chiến đấu của quân ta không còn nữa. Lực
lượng phòng thủ dần dần rã ngũ, một số đơn vị can đảm chiến đấu tới cùng
nhưng dù tinh thần chiến đấu cao tới đâu cũng không thể địch nổi lực
lượng quá đông đảo và hoả lực hùng hậu của quân thù.
Sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Quân khu 4 vẫn còn nguyên vẹn 3
sư đoàn chủ lực và hơn 200 ngàn địa phương quân, một lực lượng đông
đảo chiếm 40% tổng số ĐPQ toàn quốc. Điều này cho ta thấy rõ sự bố trí
lực lượng của ta sai lầm và phí phạm. Tháng 3-1975, trong khi vùng 1, 2
bị Cộng quân tấn công vây hãm tơi bời ta vẫn không chịu rút bớt quân từ
Vùng 4 lên yểm trợ tuyến đầu và cuối tháng 4-1975 khi Sài Gòn như người
bệnh nhân hấp hối cũng vẫn không chịu dốc quân từ vùng 4 lên đánh xả
láng một ván bài chót.
Trận đánh cuối cùng đã kết thúc
cuộc chiến tranh Đông Dương chỉ kéo dài có mấy ngày từ 26-4 cho tới 30-4
-1975, cũng vào ngày này 30 năm trước đó, năm 1945 tại Bá Linh quân
Đức đầu hàng Nga. Sài Gòn tái diễn lịch sử nước Đức Thế Chiến Thứ Hai,
có khác chăng tại Bá Linh giới lãnh đạo không bỏ trốn và ép buộc quân
đội của họ chiến đấu tới người lính cuối cùng.
Kể từ
ngày Cộng quân đánh chiếm quận Đức Lập 9-3-1975 và Ban Mê Thuột 10-3 để
mở đầu cuộc Tổng công kích cho tới 30-4-1975, ngày kết thúc chỉ vỏn vẹn
có năm mươi mấy ngày. Võ Nguyên Giáp ra lệnh tấn công quân Pháp tại Hà
Nội nửa đêm 19-12-1946 là ngày khởi đầu cuộc chiến tranh dài nhất của
thế kỷ đến trưa ngày 30-4-1975 là ngày kết thúc tính ra đã gần 30 năm.
Theo thời gian những bí mật dần dần được tiết lộ, trận chiến mất
nước 1975 đã được sắp đạt sẵn y như một vở tuồng hề, Việt Nam đã trở
thành bãi chiến trường tan nát vì bom đạn, tệ hại hơn thế nữa, nó đã trở
thành món hàng mua bán đổi chác giữa các thế lực siêu cường .
Trọng Đạt
Tài Liệu Tham Khảo.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam, 2000.
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc (Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt nam 1945-1975) Tiếng Quê Hương 2006.
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh xuất bản, 2005.
Văn Tiến Dũng: Đại Thắng Mùa Xuân, nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội 2005.
Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn, nhà xuất bản Quân Đôïi Nhân Dân, Hà Nội 2005.
Dương Đình Lập, Trần Minh Cao: Cuộc Tổng Tiến Công và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, nhà xuất bản tổng hợp TPHCM 2005.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1991.
Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Vietnam, Sphinx publishing 1986.
The World Almanac Of The VietNam War: John S.Bowman, General editor, A Bison book.
Lâm Lễ Trinh: Tổng Thống Hai Ngày Dương Văn Minh, Người Việt Dallas 30-6-2005.
Trần Việt Đại Hưng: Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam 1975, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2002.
Lữ Lan: Cuộc Chiến 30 Năm NHìn Lại Từ Đầu, Sài Gòn Nhỏ Dallas 28-4-2006.
Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas 7-10-2005.
Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam , Người Việt Dallas 21-6-2006.
Lâm Lễ Trinh: Mạn Đàm Với Đại Tướng Cao Văn Viên, Về Nguồn, Thuỷ Hoa Trang 2006.
Hồ Đinh: Cơn Phẫn Nộ Cuối Cùng Của Một Quân Đội Bị Phản Bội, Người Việt Dallas 23-12-2005.
Lewis Sorley, Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 22-11-2006.
Cao Văn Viên: Tuyến Đầu Vùng Một Thất Thủ, Thằng Mõ Sacramento, số cuối tháng 4-2006.
Mường Giang: Tiểu Khu Bình Thuận Và Tháng 4-1975 Đẫm Máu Và Nước Mắt, Sài Gòn Nhỏ Dallas cuối tháng 4-2005.
Hồ Đinh: Sư Đoàn 18 Bộ Binh Và Những Ngày Tử Chiến Tại Xuân Lộc, Sài Gòn Nhỏ Dallas cuối tháng 4-2005.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (RVNAF 1968-1975, Bill Laurie), Nguyễn Tiến Việt dịch, Con Ong Việt số 71, tháng 5 -2006.
Trần Trung Đạo: 30 Năm Nhìn lại, Con Ong Việt số 60, tháng 5-2005.
Hải
Triều, Trung Nghĩa: Bán Tiểu Đội Biệt Cách Dù & Trận Đánh Chớp
Nhoáng Sau Lệnh Đầu Hàng 30-4-75, Sài Gòn Nhỏ, cuối tháng 4-2006.
Nguyễn Văn Lục: Đi Tìm Thời Gian Đánh Mất, 30-4-1975, 30-4-1976, 30-4-2007, Sài Gòn Nhỏ Dallas, 6-4-2007.
Lê Ngọc Danh: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam , (bút ký của sĩ quan tuỳ viên Tướng Nguyễn Khoa Nam ), Bút Việt 28-4-2006.
No comments:
Post a Comment