Monday, April 30, 2012

Cuối Đường / 30 tháng tư bẩy lăm



(Hồi ký của Vương Mộng Long- k20)
"Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ.
Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của mình!"
(Vương Mộng Long)
---o---
Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của Quốc Lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, Quốc Lộ 1 sẽchấm dứt. Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-Bình thì Bộ ChỉHuy Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu Đoàn 82 BiệtĐộng Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên Đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư Đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu,
-"Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủSài-Gòn!"
Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để "phòng thủ thủ đô".Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên Quốc Lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ.Vào giờ này, quân số Tiểu Đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân Khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu Tá Vương Mộng Long), Thiếu Úy Thủy, Trung Úy Trâm, Chuẩn Úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại Úy Ngũ Văn Hoàn, Tiểu Đoàn Phó chết đêm 28 tháng Tư. Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Phước và Trung Úy Đăng mất tích. Thiếu Úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu Úy Học, Thiếu Úy Hoàng vắng mặt từchiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn Úy Gấm, Chuẩn Úy Trung, Chuẩn Úy Lê Văn Phước (Ban 3) cùng Trung Úy Trần Văn Phước thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua.
Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi. Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạlùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từlâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên-Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là Quốc Lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch đểlấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.
Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bênđường. Chiếc xe Jeep của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờphút này, trên máy thu thanh, ông Dương Văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương Văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là "những người anh em" Chỉtrong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi,
-"Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?"
-"Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?"
Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt,
-"Thiếu Tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu Tá ơi! Hu...hu ...hu..."
Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọngđàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...
Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này. Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương Văn Minh lên chức tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng Thống Việt-Nam Cộng -Hòa được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽnhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quyệt nước mắt.
Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền-Namđi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,
-"Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!"
- "Hoan hô!...Hoan hô!"
Thùng!... Thùng!... Hoan hô!...Hoan hô!... Thùng!... Thùng!... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió; lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.
-"Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?"
Chửi thề xong, ông Hạ Sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn.
-"Thôi! Ta đi!" Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.
-"Mình đi đâu bây giờ, Thiếu Tá?" Thiếu Úy Thủy băn khoăn hỏi.
-"Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ."
Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.
-"Thùng!... Thùng!...Hoan hô!...Hoan hô!" , chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.
-"Hoan hô! Hoan hô cái mảcha tụi mi!" Hạ Sĩ Phi lại đổ quạu.
-"Cành! Cành! Cành!... Cành!... Cành! Cành!" Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Thằng VC vác cờlại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường.Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết.
Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Donđưa ống nghe cho tôi,
-"Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!"
Tôi nghe tiếng Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng LĐ24/BĐQ,
-"Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!"
giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.
Nghe ba tiếng "Đường-Sơn Quán", tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉhuy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ Chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sé San là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từphương Bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra nhưcơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông. Họ quen gọi tôi là "Anh Hai". Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng "Anh Hai"của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, "Anh Hai" lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn II giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim "Đường-Sơn Đại-Huynh" được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh "Đường-SơnĐại-Huynh" chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý Tiểu Long, tài tử chính của phim này.
Sau khi "Anh Hai" vào Plei-Me nhận Tiểu Đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái "Đường-Sơn" khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía. Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết đượcở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu? Tôi mởmiệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,
-"Có phải Tiểu Đoàn 82 BiệtĐộng Quân đó không?"
-"Phải rồi! 82 đây!"
-"Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!"
-"Có ai ở đó không?"
-"Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng"
Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung Úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,
-"Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!"
Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho "hòa bình" có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ SĩPhi, một của Trung Sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.
Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la,
-"Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!"
Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. "Hòa bình" rồi, tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung đểbuông súng?
-"Choác! Choác! ....Choác!"
Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôiđang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể,hơi nước phun "phì...phì..."che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đãở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,
-"Đưa tao!"
Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. "Oành!" một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏiđã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cáiđầu; máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.
Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ.Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu nhưai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu. HạSĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh nhưkhông. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ,lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, "Cành! Cành!..." -"Choác! Choác!..." - "Xoẹt! Xoẹt!..."-"Oành! Oành!..." Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.
-"Cành! Cành! Cành!..." Trên xe, Hạ Sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,
-"Đù má tụi mi! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!"
Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của Quốc Lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩuđại liên của Trung Sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường.Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bịloại ra ngoài vòng chiến.
Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. BiệtĐộng Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, Vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hếtđạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắmđấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh Nhứt Liêu Chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ).
Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thìđạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng Trung Úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,
-"Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !"
-"Làm gì có tank! Chỉcó 12,7 ly thôi!"
Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ "đúp" (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. HạSĩ Phi vỡ óc. Hạ Sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút chạy vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.
Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung Sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung SĩTài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào,
"Chạy đi!...Ông thày...chạyđi!..."
Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ "toang toác!"trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.
-"Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thàyơi!" đó là tiếng Trung Úy Trâm.
"Toác!Toác!"- "Chíu! Chíu!" đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạyđược một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất.
Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổnhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đóđây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban-Mê-Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi.Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,
-"Ôi!...Ôi!... Ông Trời ơi!...Ông Trờiơi!...ơi...ơi..."
Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay nhưsắt nguội của Trung Úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.
-"Trâm ơi ! Làm ơn! ...Cho anh chết! Trâm ơi!..."
Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung Úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi vềhướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn đường,
-"Ông Thiếu Tá bị thương hả?"
Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng,
-"Ông Trung Úy lấy xe này đưa Thiếu Tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!"
-"Cám ơn cụ!"
Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.
Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều ngườiđang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ.Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,
-"Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?"
Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, "Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!"
Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn,
-"Thày ơi! Thôi đi thàyơi! Đừng bỏ em, thày ơi! "
Trung Úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau. "Hu ... hu... hu...."
Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.
Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng Quốc Lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ,
-"Thiếu Tá lên xe, em chở đi trốn."
Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.
-"Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai,đâu rồi? Họ khai có ông Thiếu Tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác Thiếu Tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa Thiếu Tá đi dấu. Khôngđể cho chúng nó bắt."
Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe,đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,
-"Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mởcửa cho con!"
Cánh cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc Di-Cư,
-"Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!"
-"Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!"
Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,
-"Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!"
Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà. Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp,
-"Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không?" một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.
-"Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng..."
Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,
-"Chứ hai anh kia làm chi rứa? "
-"Anh Cả và anh Hai của tôiđó!" Hải nhanh miệng.
-"Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt." Bà cụ phân trần.
Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,
-"Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!"
Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về,
-"Thiếu Tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi."
-"Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!" bà cụ ân cần.
-"Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào." Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la.
-"Thưa Mẹ! Con đi!"
-"Thưa Mẹ! Con đi!"
-"Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹvà em vô cùng!"
Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi vềhướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo.
Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi,
"Thái Sơn ơi! Trâm ơi!"
Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu Úy Trần Văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi nhưnhững người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố.
Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tài, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?)
Còn cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau khi cuốc bộmột đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.
Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. Chiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt-Nam Cộng-Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô...
Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờtrên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn Gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng Đoàn Phòng Vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽgia đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy.
Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...
Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung Úy Trần Văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉqua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay mất.
Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu "Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh". Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi,
"Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Haiơi!"
Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn.
Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu Úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lựcđịch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủyđược dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí vềquê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.
Thời gian trôi...
Mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca "Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh". Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ,đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời,
-"Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!"
-"Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!" anh Bắc-Kỳ mừng rỡ.
Bà chủ nhà nghệch mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.
Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúiđầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không?
Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân Xã, đến Quốc Lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quânđã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số"82" màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ,nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.
Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,
-"Các chú tha lỗi cho anh..."
Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột,
-"Thày ơi! Chạy đi!... Thày ơi!..."
Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ...
Vương mộng Long

Đêm Tâm Tình « Sài Gòn Còn Mãi Trong Tôi »

Sài Gòn không bao giờ mất tên Gs Lê Mộng Nguyên, Viện Hàn Lâm Pháp Quốc, Khoa Học Hải Ngoại

Kính thưa quí vị,

Các bạn thân mến,

Sài Gòn ơi, ta bỏ em đi từ dạo ấy

Ba mươi ba năm trời lẳng lặng trôi qua

Từ ngày ấy ta không bao giờ trở lại

Vì kinh thành đã mất hết dáng yêu xưa



Hồi ấy, tôi thuộc nhóm Giáo sư Turbo (Turbo-Prof) nghĩa là mỗi tuần phải lấy tàu từ Paris về Tỉnh để giảng dạy ít nhất 4 giờ rưỡi : nào là luật Hiến pháp, nào là luật Hành Chánh, nào là luật Bang Giao… và đặc biệt trong niên học 1974-1975 tôi phải dạy cả Thuế Pháp và Tài Chánh Công Hữu (Droit fiscal et Finances publiques). Tháng tư 1975, khác thường lệ tôi phải ở lại Besançon đến 3 ngày liên tiếp để chấm thi khẩu vấn tại Đại Học Luật khoa và Kinh Tế một số sinh viên, một tuần trước niên học chấm dứt. Trong Agenda tôi ghi rõ : 14 thí sinh ngày 28, 6 thí sinh ngày 29 và 30 thí sinh ngày 30/04/1975 với hàng cuối trang ngày 30 : SÀI GÒN THẤT THỦ !

Tôi còn nhớ lúc đầu thế chiến thứ hai 1939-1945, khi nghe PARIS bị chiếm đóng bởi Đức Quốc Xã vào tháng 06/1940, có một bà thầy Pháp dạy tại trường Quốc Học ở Huế đương giảng bài, ngừng lại khóc òa như một đứa trẻ con vừa mới mất Mẹ. Ngày 30/04/1975, tôi đương chấm thi vấn đáp, nghe tin sét đánh trước mặt đông đủ sinh viên, tôi tiếp tục làm bổn phận, nhưng lòng đau rưng rức...

Trái lại với Đức Quốc Xã không dám đổi tên Paris sang Thành Phố HITLER, Hồng quân Bắc Việt sau khi xâm chiếm kinh thành VNCH, không ngần ngại ra lệnh từ nay Sài Gòn là TP HỒ CHÍ MINH, thật kỳ quặc, và quá lố lăng… Trong một bài báo trên Mạng « Sài Gòn Bất Tử » của Nguyễn Thanh Nam có đoạn sau (tôi xin trích).

- Mày lấy vợ ở đâu ?
- Dạ, em lấy vợ Sài Gòn

Lấy vợ Sài Gòn, xin làm ơn đổi lại Lấy vợ Hồ Chí Minh cho đúng nghĩa

- Chị mua gà ở đâu ? Gà Sài Gòn chịu khó đổi lại Gà Hồ Chí Minh cho đúng nghĩa
- Đi Sài Gòn coi chừng chó, chó Sài Gòn dữ lắm. Chó Sài Gòn cần đổi lại Chó Hồ Chí Minh

vân vân …

Ngày xưa lúc còn nhỏ ở bên nhà, tôi có được xem phim La Belle de Saigon nghĩa là Cô Gái Đẹp Sài Gòn, bây giờ phải gọi Cô Gái Đẹp Hồ Chí Minh, thật là buồn cười…và nhất là đi ngược lại với thủ tục quốc tế (loại trừ cựu Liên Bang Nga Xô Viết và các nước còn Cộng Sản) không lấy tên người để đặt tên một nước, một miền hay một đô thị, và chỉ để dành tên đường hay đại lộ cho những vị anh hùng tổ quốc hoặc ân nghĩa nhân loại. Ngay thực dân Pháp dưới thời bảo hộ Đế quốc An Nam (1884-1945) cũng không dám đổi tên một thành phố, mà chỉ dè dặt đổi tên một cái cầu, cầu Trường Tiền ở Huế chẳng hạn trở thành Cầu Clemenceau (Georges Benjamin Clemenceau : 1841-1929), nhưng dân chúng vẫn tiếp tục gọi Cầu Trường Tiền là Cầu Trường Tiền, và biết bao văn nghệ sĩ sinh trưởng tại Huế đã có dịp ca ngợi nhịp cầu thơ mộng này với sông Hương núi Ngự… Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn đã diễn tả nỗi buồn Tháng Tư Đen của đồng bào Việt Nam, một cách thấm thía :

Sài Gòn ơi ! Ta mất người như người đã mất tên

như giòng nước quẩn quanh buồn

như người đi cách mặt xa lòng hỏi thầm em có nhớ không

Sài Gòn ơi ! Đến những ngày ôi hè phố xôn xao

Trong niềm vui tiếng hỏi câu chào

đời tươi thắm vạn sắc màu

nay còn gì đâu …(Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên)

Cũng như Paris kinh thành hoa lệ, Sài Gòn vẫn mãi mãi là Saigon đối với đồng bào chúng ta, hải ngoại và quốc nội. Sau bài ca nhung nhớ của Nguyễn Đình Toàn, chúng ta phải nói lên nỗi lòng tin tưởng vững chắc trong một tương lai sáng lạng : Sài Gòn ơi, ta mất người nhưng tên người vĩnh viễn trong tâm trí chúng ta, xin quyết chí – như biểu ngữ của Đại Hội Thế Giới 2007 tại Paris - nguyện thề tẩy trừ tên Hồ chí Minh đặng hồi phục tên Sài Gòn yêu dấu !

Đêm 30/04/1975, tôi lấy tàu từ Besançon trở lại Paris mà lòng buồn vô hạn, đau đớn như nàng Kiều từ nay đoạn trường trong kiếp lưu vong :

Ta mất nước như người mất quá khứ

Tháng Tư Ngàn Chín Trăm Bảy Mươi Lăm

Ngày Ba Mươi như cuộc thế thăng trầm

Muôn đời hận như dân Chàm đã chết



Ta mất nước như người mất thương tiếc

Tháng năm dài lang bạt sống quê người

Luôn hướng về đất nước Việt xa xôi

Đau thương xót thương nhà ai hiểu thấu ?


Ta mất nước như người mất thơ ấu

Trời ban ngày sao tối như ban đêm ?

Xuân đã về sao vẫn lạnh buốt thêm ?

Hoàng hôn xóa bao hình trong ký ức !



Ta mất nước như người mất hạnh phúc

Đêm trăng mài lưỡi kiếm núi sông hờn

Ta nguyện thề quyết trả nợ nước non

Tranh đấu mãi cho Sài Gòn muôn thuở

Xin cảm ơn quí vị.

Gs Lê Mộng Nguyên


Bài nói chuyện của Nhà văn Từ Trì trong
Đêm Tâm Tình « Sài Gòn Còn Mãi Trong Tôi », Paris, 13/05/2007

Kính thưa quí vị,

Chúng ta bị mất Sài Gòn từ trên 30 năm qua. Trên 30 năm qua, một thành phố được người ngoại quốc thường mệnh danh là « Hòn ngọc Viễn Đông » đã phải sống trong bầu không khí ngột ngạt của một chính thể độc tài, đảng trị, phi nhân, hằng ngày chà đạp nhân quyền và dân quyền đến độ mất cả tên nguyên thủy, phải mang một cái tên mới hắc ám hãi hùng. Trên 30 năm qua, cái tên hung dữ mà bạo quyền cộng sản áp đặt lên Sài Gòn nói lên sự tàn bạo của Bắc quân khi họ thôn tính miền Nam. Vì nó luôn luôn nhắc nhở tới cái « chiến dịch Hồ Chí Minh » khủng khiếp mà những người cộng sản đã phát động để cưỡng chiếm vùng đất tự do còn lại của người dân Việt. Khi họ áp đặt tên mới cho Sài Gòn người cộng sản đã phủ nhận giá trị lịch sử và nét kiêu hùng của thành phố. Thật vậy, trong cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Sài Gòn tượng trưng cho các nỗ lực mở mang lãnh thổ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Sài Gòn là phiên âm sang tiếng Việt của cái tên Prei Kor khi thành phố này còn thuộc về Cao Miên. Khi chúa Minh, Nguyễn Phước Chu, lấy đất này vào năm 1698 thì Prei Kor được Việt hóa trở thành Sài Côn và sau đó là Sài Gòn. Khi những người Trung Hoa trung thành với nhà Minh, không chịu thần phục nhà Thanh sang tìm tự do bên Việt Nam, họ được chúa Nguyễn cho vào khai khẩn đất Sài Gòn Gia Định. Sự đóng góp của các người Minh hương trong công cuộc khai khẩn miền Nam cũng nói lên tinh thần bất khuất của người dân Việt tiền phong ở miền Nam nói chung và ở Sài Gòn nói riêng. Sài Gòn còn biểu tượng cho tinh thần ham chuộng tự do của người dân Việt. Chúng ta không quên rằng từ năm 1954 đến năm 1975 Sài Gòn là thủ đô của người Việt tự do. Chúng ta không quên rằng sau khi Hiệp Đinh Genève chia đôi lãnh thổ năm 1954 đã có một triệu người dân miền Bắc di cư vào Nam để tránh gông cùm cộng sản. Từ trên 30 năm qua, mỗi khi nghĩ tới thành phố Sài Gòn, mỗi người chúng ta không khỏi bùi ngùi tìm về những kỷ niệm thân thương. Chúng ta nhớ lại giọng ca Trần văn Trạch trên các làn sóng điện của Đài Pháp Á hay Đài Sài Gòn, trong thập niên 1950 : « Sài Gòn là viên ngọc trân châu trên Á Đông . . . » trong lòng chúng ta nao nao mơ về thành phố xa xưa. Chúng ta xót xa nhớ lại giong ca Mai Lệ Huyền trong thập niên 1970 : « Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi ». Chúng ta ngẩn ngơ nghe câu hát Phạm Duy : « Trả lại em yêu, khung trời đại học, con đường Duy Tân, cây dài bóng mát ». Chúng ta mơ màng trước câu thơ Nguyên Sa : « Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát ... » Và giờ đây chúng ta nuối tiếc khi nghe bài ca Ngô Thụy Miên : « Những thành phố em sẽ đi qua. Đây Ba Lê, đây Vienne, đây Luân Đôn, nhưng có đâu bằng Sài Gòn hôm qua, nhưng có đâu bằng Sài Gòn mai sau ... ». Từng ấy kỷ niệm êm đềm chất chứa trong lòng mỗi người bỗng hiện về trong tâm tư : Đây đường Nguyễn Huệ với chợ hoa tươi mát mỗi khi Tết đến. Đây Nhà thờ Đức Bà đêm Giáng Sinh với tiếng chuông vang rền mừng thánh lễ nửa đêm. Đây đường Tự Do với những chàng trai lính Cộng Hòa về phép, đi hiên ngang dạo phố bên người yêu. Đây Sở Thú với những tà áo mầu tung bay phấp phới trong nắng chiều chủ nhật. Ôi biết bao kỷ niệm thân thương đã bị một cái tên oan nghiệt chôn vùi trong dĩ vãng. Nhưng không vì thế mà chúng ta mất đi niềm hy vọng. Nhìn lại lịch sử thế giới chúng ta thấy thành phố Saint Petesbourg bên Nga, sau hơn 70 năm bị cộng sản đô hộ dưới cái tên không kém hắc ám là Leningrad, đã lấy lại được tên cũ khi chính quyền Nga Xô sụp đổ. Chúng ta mong rằng một ngày gần đây thành phố thân quí của chúng ta sớm lấy lại được cái tên Sài Gòn cổ truyền do tổ tiên để lại.

Nhà văn Từ Trì, Paris,

* Để mãi mãi nhớ ngày 30 tháng 4 năm 1975.


30 Tháng 4
 * Để mãi mãi nhớ ngày 30 tháng 4 năm 1975.  
   TVG
 Ai vui ? Ai buồn ?
Ngày 30 tháng 4, ngày có "hàng triệu người vui, hàng triệu người buồn" như lời nhận xét  của “cựu thủ tướng” cs Võ Văn Kiệt, “người” này cũng giống như một số “người” lãnh đạo csvn khác phải chờ đến mãi buổi xế chiều của cuộc đời thì bỗng dưng phải gió rồi trở giọng “phản động.”  Phải chi mấy “người” này tỉnh táo một chút vào lúc đang còn quyền cao chức rộng thì đám dân đen cũng được nhờ (!) và đã nhiều sinh mạng không phải oan thác.
CS vẫn tiếp tục hân hoan vui mừng “nhiệt liệt” hợp ca cái điệp khúc "ngày chiến thắng huy hoàng",  là một (ngày) thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta." (sic) (Lời của Đại tướng gốc thợ may Văn Tiến Dũng).
Kỷ niệm chiến thắng, bắn pháo hoa “diễu binh” ăn mừng ngày 30/4, mà ngay bên lề đường còn nhiều đám dân đen xếp hàng kêu oan bị cướp mất đất, bà già run rẩy ăn xin, em bé bỏ học bán vé số… Ăn mừng ngày đánh “Mĩ cút ngụy nhào.”  Oái oăm, ngày này cũng là ngày ăn mừng “đổi mới,” trải thảm đỏ mời đón Mỹ trở lại đầu tư vì “đảng ta” vừa mới định hướng kinh tế thị trường XHCN và cảm thấy “bị tư bản bóc lột” là chuyện “tiên tiến, tốt” phải làm trong giai đoạn phát triển kinh tế quốc gia.  Ngày này cũng là ngày các lãnh tụ csvn vĩ đại kêu gọi “khúc ruột ngàn dặm” về xây dựng quê hương vì sau mấy chục năm chiến thắng vinh qunag “đảng ta” vẫn chỉ giỏi ở cái mảng phá hoại và tham ô.
Đám chăn trâu, thợ thiến heo, ở đợ, cướp cạn, thất học… đi bộ từ trong rừng ra với áo không lành giầy không vớ “ăn mừng” vì bỗng nhiên một sớm một chiều trở thành tiến sĩ, đại gia, cán bộ cao cấp lèo lái “con thuyền không bến” Việt Nam đến vinh quang vô địch (?)
Ăn mừng vì “thép đã tôi thế đấy” đội ngũ cán bộ lãnh đạo (từ chính quyền trung ương đến cơ sở chính quyền địa phương) thành một lũ vô cảm, dửng dưng trước những đau khỗ quằn quại của đồng loại, coi thường dân, không dám nhận chịu trách nhiệm về những sai trái; Ăn mừng vui vì “tụi nó” cướp của người khác chứ không (chưa) cướp đến của nhà mình?!
Ngược lại, cũng có nhiều người ở cùng chiến tuyến với cs rất buồn vì đã tự “giác ngộ.” Họ nhìn ra là họ đã bỏ phí cả thời xuân xanh, tài sản để chạy theo cs rồi bây giờ sau mấy chục năm ròng mới nhận ra cái ngu xuẩn của mình và ngu xuẩn của chính sách cs; Mặc dù họ mới chợt “phản tỉnh” và tuyên bố “phản động” này nọ nhưng cũng chỉ làm cho có chuyện, làm để lấy tiếng ngu vì cô thế (người quốc gia còn bán tín bán nghi, không buồn để ý đến họ), sức đã mòn, chợ đã chiều… không thay đổi cái quái gì được nữa!
Có những “cựu” cảm tình viên cs, “hùa” viên cs (loại này rất đông đảo – Họ hầu như mù tịt về cs nhưng lại thích làm dáng cs; lọai “Nếu là chim tôi sẽ là bồ câu trắng / Nếu là hoa tôi sẽ là hoa hướng dương / Nếu là người tôi sẽ là người cộng sản…  Người quốc gia cỡ phó thường dân thôi cũng hiểu là cs không phải là bồ câu trắng; và cs cũng chẳng có ưa gì hoa hướng dương, hoa hướng âm gì ráo trọi!) thích và mơ tưởng thiên đường bánh vẽ cs; ăn cơm quốc gia thờ ma cs.  Đám đông này trước đây rất ồn áo, đã từng nhẩy múa điên cuồng theo nhịp đập trống bịp bợm của cs rồi bây giờ rất buồn; đành phải im lặng vì cái thực tế cs quá bẽ bàng làm họ không thể nói và làm gì hơn để biện minh cho cái sự kiện “bé cái lầm” của mình.
Có những gia đình gồm nhiều thế hệ dù không bao giờ chấp nhận cs nhưng không tìm được lối thoát thân.  Họ rất buồn vì phải đón chịu tất cả những trận đòn thù hận, tù đày, bao vây kinh tế… từ mafia cs.
Có trên 3 triệu người tị nạn ở hải ngoại rất buồn, nhìn về ngày 30/4 như một ngày quốc hận, một tháng Tư đen; một ngày đau đớn cay đắng nhiều nước mắt nhất trong suốt 4000 ngàn năm lịch sử dân tộc Việt. 
Ai thắng ? Ai thua?
Sau một cuộc chiến tranh thì phải có kẻ chiến thắng, người bại trận.  Cứ theo như luận điệu như csvn đang “ăn mừng” thì mọi người phải hiểu là “Mĩ và Ngụy đã thua?!”  Mà có thiệt vậy không hà?
Hãy nhìn nước (“đế quốc”) Mỹ từ ngày 30/4/1975 cho đến hôm nay. Họ không có tỏ cái vẻ gì là một nước bại trận.  Họ vẫn là một cường quốc mà các lãnh đạo csvn lần lượt thay phiên nhau xin đến thăm viếng (sau cấm vận!)  Các chuyến thăm viếng của lãnh tụ csvn vẫn được báo lề phải cs tường trình như một niềm hãnh diện “Chủ tịch, Thủ tướng nước ta được Tổng thống Mĩ tiếp đón tại Nhà trắng, tại phòng Bầu dục, tại vườn Hồng…  Rõ ràng là các Tổng thống Clinton , Bush đã đến Việt Nam mà vẫn được dân chúng Việt Nam niềm nở háo hức tiếp đón…  Họ không hề đến Việt Nam để ký giấy đầu hàng hay xin xỏ csvn bất cứ chuyện gì?!
“Ngụy” (một danh từ có nghĩa xấu mà cs đã gán cho tất cả người dân, chính quyền hay bất cứ sự kiện gì có dính dáng đến “đế quốc Mĩ!”) có thua thiệt không?  Chiến tranh đã chấm dứt nhưng sự tranh đấu của “Ngụy” đâu đã thấy chấm dứt!  Thực ra, sự tranh đấu của “Ngụy” mỗi ngày mỗi mạnh hơn; nhất là từ hải ngoại.  Cờ vàng vẫn tung bay hiên ngang oai hùng trước công đường thế giới trong khi cờ đỏ cs phải lén lút đi vào cửa sau.  Cơ hội “Ngụy quân, Ngụy quyền” trở lại Việt Nam (khi csvn bị giải thể) không còn là chuyện “không tưởng.”  Người dân Việt Nam (nhất là dân miền Nam) đâu còn dấu diếm e dè gì khi họ cần tỏ thái độ là “thà sống với Mỹ làm ‘Ngụy’ như người Nhật, Đức, Nam hàn, Đài loan… vẫn còn hơn là ‘vinh quang’ cúi đầu dưới “4 cái tốt” và “16 chữ vàng” của kẻ tử thù truyền kiếp TQ.  Chẳng thà sống lưu vong làm ‘Ngụy’ hơn là sống dưới cái nhà tù lớn CSVN lập ra.”
Cs một mặt kêu gọi "hòa giải và hòa hợp dân tộc" mà tại sao mặt khác, bao nhiêu năm trôi qua, vẫn gọi những người “phía bên kia chiến tuyến” là “ngụy quân, ngụy quyền?” Vẫn gọi Mỹ là “đế quốc tư bản” mà thích  gởi con cháu họ sang Mỹ du học để được học… cách bóc lột của đế quốc tư bản?
Ôi cộng sản Việt Nam !!! Một sự nghịch lý lố bịch cuối cùng còn xót lại trên hành tinh này!
Ai giải phóng ai? Giải phóng cái gì?
Theo tự điển tiếng Việt, chữ “Giải phóng” có nghĩa là “Làm cho thoát khỏi tình trạng bị nô dịch, bị chiếm đóng. Làm cho được tự do; thoát khỏi sự ràng buộc bất hợp lý. 
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hàng trăm ngàn người dân miền Nam lại bị cưỡng chế nô dịch (đi tù, đi kinh tế mới, bị quản chế, bị cô lập, hoàn toàn mất tự do, mất quyền công dân…)  Người dân miền Nam có cần được cs bắc Việt giải phóng họ hay không?  Nếu gọi là “đã được giải phóng” thì đời sống của họ phải khá hơn, tốt đẹp hơn lúc chưa “được giải phóng.”  Hãy nhìn, đọc những con số không biết nói dối.  Bác sĩ Nguyễn Văn Tuấn - rời Việt Nam năm 1981 sang định cư tại Úc năm 1982 là Giáo sư Đại học New South Wales (Úc)  - đã trình bày một cách cụ thể kết quả (bằng số) trước và sau ngày “giải phóng” 30 tháng 4 năm 1975 như sau:
(Trích nguyên văn – tuy hơi dài nhưng đáng đọc; đáng đồng tiền bát gạo)
Tính từ ngày 30/4/1975 . Nhân dịp đọc một cuốn sách cũ, tôi thấy có vài thông tin về kinh tế của miền nam Việt Nam trước 1975 cũng có ý nghĩa so sánh nào đó ...
Về thu nhập bình quân, theo “số liệu kinh tế - GDP” bình quân, ở miền Nam vào thời trước 1975 là 150 USD.  Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời đó, nhưng cao hơn ở các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ, và Pakistan .  Ba mươi sáu năm sau, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là khoảng 1100 USD, thua xa Thái Lan (khoảng 4000 USD).
Về giáo dục đại chúng, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, năm 1973, tỉ lệ dân số biết đọc, biết viết là 70%, rất cao so với các nước Á châu láng giềng hồi đó. Hiện nay, tỉ lệ dân số biết đọc và viết là 90%.  Ba mươi sáu năm, chỉ tăng 20%?
Hôm nọ, khi tôi viết rằng thời trước 1975, du học sinh Thái Lan sang đại học miền Nam học, còn bây giờ thì mình sang đó... du học. Chẳng có gì xấu hổ. Người ta giỏi hơn mình thì mình học người ta.  Nhưng nói ra sự thật ấy làm tôi nao lòng và buồn về sử đổi đời. Có người từ miền Bắc hỏi tôi có bằng chứng gì giáo dục miền Nam tốt hơn bây giờ? Tôi nói chính tôi là sản phẩm của nền giáo dục thời trước 1975 đây.  Còn hàng vạn "sản phẩm" của nền giáo dục trước 1975 đang ở nước ngoài và họ cũng thành danh, thành tài. Đó là một bằng chứng của nền giáo dục trước kia.
Về trình độ của giới cầm quyền, 36 năm sau nước (CHXHCN) ta đã có 50% bộ trưởng có văn bằng tiến sĩ.  Thời trước 1975, tôi không có con số chính xác, nhưng chỉ nhớ số bộ trưởng có bằng tiến sĩ chỉ đếm đầu ngón tay.  Ngay cả ông Hoàng Đức Nhã với bằng thạc sĩ (MS degree) nhưng được giới báo chí và công chúng nể lắm rồi.  Nhưng theo Giáo sư Đặng Phong thì tuy họ học không cao, nhưng trình độ thật thì cao và đáng nể:  “Cần phải phân biệt rõ: nền chính trị thối nát (không phải tôi nói, mà người Mỹ và người trong giới chính trị Sài Gòn nói) với bộ máy kinh tế chuyên nghiệp. Những cấp cao nhất, tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng... phần lớn là dân võ biền, là lính sang làm chính trị như Thiệu, Kỳ, Khiêm ... Nói chung, họ không có mấy kinh nghiệm để điều hành một xã hội dân sự văn minh. Nhưng điều đặc biệt là cấp dưới của họ (bộ trưởng, tổng trưởng...) và các chuyên gia hàng đầu đều là những người có học vấn, kiến thức kinh tế - xã hội rất giỏi để vận hành khối lượng tiền, hàng cực lớn. Bằng chứng là Nam VN khi đó đã có hệ thống ngân hàng, hệ thống thuế, bảo hiểm... trình độ quốc tế, hoạt động toàn cầu. Dân đã xài séc (checks), các công cụ tín dụng, công sở xài máy tính IBM, tổ chức nền kinh tế đã sử dụng các phương tiện hiện đại, mà bây giờ chúng ta mới chập chững tiến vào.
Ngày xưa (thời VNCH) cũng có tham nhũng, nhưng hình như bản chất hơi khác với thời nay.  Ngày xưa, giới quan chức VNCH tham nhũng chủ yếu là ăn chận tiền tài trợ của Mĩ.  Thật ra, tham nhũng của VNCH là có lợi cho “cách mạng,” vì lợi dụng đó mà du kích mới có tiếp viện!  Tham nhũng thời VNCH theo Gs Đặng Phong là “một nguồn hậu cần quan trọng giúp chúng ta thành người chiến thắng.”   Còn ngày nay, cứ như báo chí phản ảnh thì quan chức ăn chận tiền của… dân.  Họ cũng ăn chận (hay ăn cắp?) tài nguyên đất nước.  Hình thức tham nhũng nào cũng nguy hiểm, nhưng ăn chận tiền dân và tài nguyên quốc gia thì đúng là nguy hiểm và […].  Giáo sư Đặng Phong nói: “Tham nhũng cũng là một cách ra đời tầng lớp hữu sản cho nên đạo lý kém hơn, chụp giật hơn, lưu manh hơn.
Ngày 30/4 thường được nhắc đến như là một “ngày chiến thắng,” “ngày giải phóng miền Nam .”   Đứng trên quan điểm kẻ thắng người thua, thì chắc cũng có lí do để gọi đó là ngày chiến thắng.  Nhưng thử hỏi với cả 4 triệu (?) người phải bỏ mạng trong cuộc chiến đó, cộng thêm hàng trăm ngàn bỏ mạng trên biển, và 3 triệu người lưu vong, thì chiến thắng đó có vẻ vang không?  Chẳng lẽ ăn mừng chiến thắng trên xác người?  Còn giải phóng thì có nghĩa là giải phóng từ nô lệ, gông cùm của bọn đế quốc, nhưng trong thực tế ngày xưa đâu có nô lệ, và bọn đế quốc Mĩ cũng đâu có gông cùm gì; chúng vẫn phát triển giáo dục tốt, hệ thống y tế tốt, kinh tế gia đình khá no ấm, học trò lễ phép, báo chí nói khá thoải mái (diễu cợt ông Thiệu, ông Kỳ liên miên).  Do đó, hai chữ “giải phóng” e rằng không thích hợp với thực tế của những con số vừa trình bày.
(nguồn Nguyễn Văn Tuấn Blog)
(hết trích)
Như đã trình bày hơi dài giòng, “giải phóng” là thay đổi cái (chế độ chính trị) cũ bằng một cái khác tốt đẹp hơn.  Ai cũng biết nhạc sĩ thân cộng Trịnh Công Sơn, sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã lên đài phát thanh Sàigòn kêu gọi “anh em văn nghệ sĩ và học sinh sinh viên miền Nam Việt Nam” như sau:
(Tôi xin ghi lại nguyên văn từ tài liệu audio của “youTube”)
“Tôi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất vui mừng và cảm động được gặp và nói chuyện với tất cả anh em văn nghệ sĩ ở miền Nam Việt Nam này (!).  Hôm nay (ngày 30 tháng 4 năm 1975) là cái ngày mơ ước của tất cả chúng ta.  Đó là ngày mà chúng ta đã ‘giải phóng’ hoàn toàn đất nước Việt Nam ; cũng như những mơ ước của các bạn (?) bấy lâu về sự độc lập, tự do và thống nhất… Hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả…  Chúng tôi đang ở đài phát thanh Sàigòn…  Tôi xin hát lại cái bài ‘Nối vòng tay lớn…’ Hôm nay thật sự’ cái vòng tay lớn’ đã được nối kết…  Rừng núi dang tay nối lại biển xa… ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà..”(sic)
Cũng “cái ngày hôm nay,” ai đã từng nghe bài “Em còn nhớ hay em đã quên” của con vẹt TCS thì chắc phải nhớ câu hát “Em ra đi nơi này vẫn thế.”  Trịnh Công Sơn viết:
“Em ra đi nơi này vẫn thế
Lá vẫn xanh trên con đường nhỏ”
Hay nhỉ? “Nơi này vẫn thế là thế nào?  Tại sao lại có sự mù lòa lạ lùng như vậy?   Chuyện “Lá vẫn xanh” là chuyện dễ hiểu, tất nhiên.  Bạo quyền và chủ nghĩa cs đâu có tài thánh nào đổi mầu lá cây từ xanh sang đỏ được? “Nơi này vẫn thế là thế nào?  Chỉ một thời gian ngắn sau khi lên đài phát thanh Sàigòn  “kêu goại và hót” “rừng núi dang tay nối lại biển xa…” để “mừng ngày chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước” thì Trịnh Công Sơn đã phải trở ra sống ở Huế và “tham gia” vào những chuyến lao động trồng khoai sắn trên những cánh đồng còn đầy rẫy mìn ở Cồn Thiên, gần vĩ tuyến 17 chứ đâu có còn được các tướng tá của chính phủ Sàigòn che chở cho sống ung dung và tự do đi hát nhạc phản chiến ở Sàigòn… 
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nếu toàn dân miền Nam được sống một cuộc sống vẫn thế thì đâu có hàng triệu người dân Việt phải liều mạng vượt biên vượt biển đi tị nạn ở nước ngoài (Ậy! Đến ngay cả cô Em nào đó của TCS cũng phảira đi một cách phản động.”)  Người ở lại đã và đang sống một cuộc sống thê thảm nhất trong lịch sử dân tộc chứ đâu có cái chuyện Nơi này vẫn thế?Thật là chuyện trơ trẽn! Ốt dột!
Anh là ai? Ai là anh?
Trong chiến tranh, anh (cs) tự cho anh là anh hùng vì anh có can đảm ném lựu đạn, gài bom plastic, pháo kích vào chỗ đông dân lành tự nhiên như người Hà lội.  Anh tự hào là anh rất giỏi về môn phá hoại cầu cống, đắp mô đường xá.  Anh tự hào có can đảm cầm súng bắn, ám sát, thủ tiêu, thảm sát hàng trăm hàng nghìn người không có cái gì để tự vệ  Anh vẫn cho anh là anh hùng là vô địch vì anh đã đứng lên, đã thành công trong việc giải phóng dân tộc trong khi các nước láng giềng của anh không cần có lãnh tụ kiệt xuất như HCM và cũng chẳng cần một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vinh quang như của anh mà dân họ vẫn độc lập ấm no tự do hơn dân tộc anh!… 
Sau chiến tranh anh (cs) chứng tỏ anh là một thằng hèn nhất lịch sử.  Anh đem đất liền và đảo của tiền nhân dâng nhượng cho TQ rồi anh bảo đó là chuyện nhỏ.  Anh không dám phản kháng và anh cũng cấm dân của anh biểu tình lên tiếng bày tỏ phản kháng khi TQ chiếm đất lấn biển.  Anh làm ngơ khi dân anh bị TQ tàn sát ở ngoài biền, ở biên giới.  Anh làm ngơ đế các đối tác TQ đánh đập dân anh ngay ở quanh các vùng nội địa mà anh cho phép họ khai thác tài nguyên quốc gia.  Anh rất hèn  khi anh cưỡng bức tài sản, đất đai của dân nghèo.  Anh rất hèn hạ bịt mồm, đánh xập các tiếng nói oan ức chính đáng của dân.
Chẳng sớm thì muộn, anh sẽ đền tội với dân… Chân lý đó chỉ là vấn đề thời gian.  Anh cũng biết thừa là cái bánh xe thời cuộc sẽ phải lăn theo chiều hướng không còn thuận lợi cho chính sách cướp bóc sát nhân của anh…  Cho nên trong lúc này, khi còn nắm chút quyền hành, anh cố vơ vét tham nhũng càng nhiều càng tốt và anh dự định xây sẵn một cái ống cống để anh có cơ hội chui, vượt thoát… 
Tương lai của các anh có lẽ cũng chẳng sáng sủa gì hơn kết cuộc của con chuột Gaddafi.
Chờ xem…
Trần Văn Giang
Tháng 4/2012


_______
Phụ chú:

Xin mời quý vị đọc thêm hai bài thơ được tôi ghi lại từ một “phản hồi” (reply) trên trang mạng “Đàn Chim Việt:”

Ngoài Bắc có một anh điên điên khùng khùng đi đến đền Kiếp Bạc (đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương) xướng bài thơ ngạo mạn như sau :

Bác anh hùng tôi cũng anh hùng
Tôi, Bác cùng chung nghiệp kiếm cung
Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng
Bác có linh thiêng “đù” một tiếng
Rằng tôi cách mạng đã thành công.

Bài thơ trên được lưu truyền đến tai một cô gái giang hồ.  Cô ta ôm mặt khóc ròng ròng; than thở là đã bất hạnh không được sinh cùng thời với tác giả bài thơ trên.  Lời than của cô nàng được thi sĩ dân gian ghi lại như sau:

Bác tôi, tôi bác cũng là người
Mà đã là người cũng thế thôi!
Tôi, GÁI GIANG HỒ, vang khắp nước
Bác, TRAI TỨ CHIẾNG, cộm muôn nơi
Bác đưa cầy cáo lên bàn độc
Tôi dắt nai tơ đến... chợ trời
Ví thử chúng mình cùng thế hệ
Đẹp duyên Rồng Phượng Bác và Tôi.


TVG