Monday, March 12, 2012

Đại Úy Dũng Cảm

Lời nói đầu: Bài này được chuyển dịch từ chương Mười Ba trong quyển Across the Fence của tác giả John Stryker Meyer. Tác giả là một cựu quân nhân Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ. Ông đến Việt Nam năm 1968, về căn cứ FOB 1 (Forward Operating Base 1) tại Phú Bài, Huế và được chọn về toán SI Idaho, bao gồm các quân nhân Việt Mỹ. Ông và toán SI Idaho nhảy nhiều lần xuống thung lũng A Shau bên đất Lào, và có lần được tuyển chọn cho công tác bên Miên. Trong chương Mười Ba chúng ta sẽ thấy toán sau khi nhảy xuống bãi đáp, bị công quân vây kín, và bị đốt hỏa công.

Ngày Giáng Sinh của năm 1968 vẫn là một ngày bình thường như mọi ngày của toán ST Idaho. Sáng sớm, toán lên chiếc Kingbee, bay ra Quảng Trị. Đây sẽ là nơi khởi hành cuả chuyến công tác. Buổi sang, chúng tôi bận rộn vì có những sự việc phức tạp với các đơn vị yểm trợ. Mọi chuyện cũng tạm ngưng khi chúng tôi đến Quảng Trị. Cuối cùng, chúng tôi cũng bước được vào phòng thuyết trình. Công tác cho ngày đó sẽ là các mục tiêu MA phía tây vùng Phi Quân Sự bên đất Lào, dọc theo con sông chảy quanh vùng DMZ. Bên trong phòng thuyết trình, có một bản đồ thật lớn được treo bên trên tường, và trên bản đồ là tất cả các mục tiêu nằm bên vùng DMZ và các mục tiêu của MA bên đất Lào. Những tấm bản đồ mà chúng tôi mang theo khi đi công tác là những tấm bản đồ loại nhỏ, chỉ là những đoạn cắt rời ra, căn bản là nếu bị tịch thu, bản đồ nhỏ sẽ vô ích đối với quân địch.

Trên các mục tiêu trong tấm bản đồ, có nhiều mục tiêu đánh dấu MA, MA 10 đến MA 16 hay 18. Hai cái số nhỏ là MA 10 và MA 11 là hai mục tiêu nằm trong khu vực sát phía tây của biên giới Nam Việt Nam. Số cho mục tiêu MA của toán tôi lớn hơn. Vậy thì nó phải nằm xa vào trong nội địa Lào, gần một khu vực, nơi mà báo cáo cho biết quân Bắc Việt đang xây dựng các ống dẫn dầu. Quân Bắc Việt cần xăng dầu để di chuyển xe tải, và quân lính dọc xuống đường mòn HCM. Đường ống dẫn dầu sẽ mang lại nhiều hiệu quả hơn là xe tải, chở dầu xuống hướng Nam.

Khi nhìn vào bản đồ, chúng tôi nhận thấy một chuyện sẽ gây khó khăn: có thêm nhiều súng phòng không tụ nhóm lại quanh khu vực hành quân của chúng tôi. Các nhân viên tại phòng thuyết trình cảnh giác cho các phi công trực thăng và phi công trên chiếc Covey rằng có nhiều chỗ mới có phòng không 12 ly 7 và 37 ly trong khu vực hành quân. Nhiều lần, các phi công Kingbee chỉ vào một vị trí mà họ đã bị phòng không của quân Bắc Việt bắn vào họ. Vì có thêm nhiều tổ phòng không dọc theo vùng DMZ và các mục tiêu MA, các phi công Kingbee nói họ sẽ bay, là sát mặt đất, thẳng vào bãi đáp. Hôm nay, trực thăng sẽ bay theo hình xoắn ốc, không tắt máy, xâm nhập vào bãi đáp.


“Chúng ta không muốn thêm một Bader nữa”, (Staff Sergeant Arthur E. Bader, hy sinh trong một công tác mang tên Eldest Son, trực thăng Kingbee bị bắn rơi trên bầu trời Lào, vùng hành quân Prairie Fire, mang theo phi hành đoàn cùng bảy người lính M ũ Xanh -Green Beret) lời nói của một trong những sĩ quan thuyết trình. Những sĩ quan này cũng cho chúng tôi biết có những báo cáo về các đặc công Bắc Việt trong vùng. Các toán thám sát tại Kontum đã chạm trán với đám đặc công Bắc Việt ít nhất một lần trong năm vừa qua. Cuối cùng, chúng tôi lên trực thăng. Đại Uý Tường, viên phi công bay dẫn đầu nói ông sẽ mang nguyên cả toán trên chiếc H-34 vì điều kiện thời tiết và chiều cao của các đỉnh núi cho phép chiếc trực thăng cũ kỹ mang nổi. Trong lúc thuyết trình, chúng tôi được cho biết là Covey đã tìm được một bãi xâm nhập ở một thung lũng hẻo lánh, nơi không có sự hoạt động của quân địch với hy vọng nơi này sẽ là nơi có ít khả năng có mặt những tên kiểm soát bãi xâm nhập hay những tên địch quân truy lùng từ những khu vực chung quanh. Chúng tôi sẽ khám phá ra việc này trong thời gian ngắn. Khi lên trực thăng, tôi cảm thấy thích toán của tôi: Lynne Black tham gia với Bubba và tôi. Hai người rất liều mạng, nhưng cũng rất thận trọng, thông minh và cũng giỏi miệng nữa. Phước là người đi đầu, Hiệp là thông dịch viên và Tuấn thủ cây M-79. Tôi ở trong toán ST Idaho được bảy tháng và tôi là người lính Hoa Kỳ thâm niên nhất của toán. Tôi vẫn xem tôi là một người lính mới. Vậy mà sau bao lần nhảy toán với bao gian nan nguy biến đã làm cho tôi cảm thấy tôi già hơn tuổi 22 của tôi. Tôi vẫn tự hỏi không biết tôi có thể nhìn thấy được sinh nhật thứ 23, sắp đến trong vòng 25 ngày nữa.

Điều lợi là chúng tôi có Đại Uý Tường, một trong những phi công tài giỏi nhất của Phi Đoàn 219 Kingbee (KQVNCH). Dũng khí và tài bay bổng phi thường làm cho ông là một trong những phi công Kingbee được nể phục trong chương trình C&C. Tôi lạc quan nghĩ công tác sẽ được suông sẻ, đặc biệt là Covey đã tìm được một bãi xâm nhập vắng vẻ. Khi chúng tôi bay về hướng tây, song song với vùng DMZ, Đại Uý Tường liền bay theo lời yêu cầu của viên sĩ quan thuyết trình tiến đến mục tiêu. Vừa sau khi chúng tôi bay qua Lào, viên xạ thủ đại liên bắn thử súng. Cây súng bị trở ngại tác xạ nhiều lần trước khi môt viên đạn bay ra khỏi nòng súng. Cây đại liên luôn bị trở ngại tác xạ, nhiều như anh đã xài nó. Tôi luôn hỏi tại sao họ đã không thay thế mấy cây súng đại liên bằng loại M-60 hay .50 ly.


Đại Uý Tường bắt đầu cho trực thăng giảm cao độ trước khi bẻ về hướng phải, mang trực thăng vào trong một hẻm núi nằm giữa hai ngọn núi lớn. Chiếc Kingbee vẫn bền bỉ bay lên dốc, tôi ngồi ngay cửa hướng về phía đông. Khi trực thăng tiếp tục bay lên cao, tôi trông thấy một cái chòi khoét sâu vào trong núi với một hay hai người trong đó. Họ nhìn như dân bản xứ trong vùng, không bận đồ lính Bắc Việt, không thấy ra-đi-ô hay anten. Họ có vẻ ngạc nhiên khi trông thấy chúng tôi, cũng giống như chúng tôi đã ngạc nhiên về họ vậy. Vài giây sau, Đại Uý Tường bay trực thăng vào bãi đáp, một đồi nhỏ bao trùm bởi cỏ voi. Tôi không chịu nhảy ra khỏi trực thăng khi tôi nghĩ trực thăng đã chạm đất và đã do dự vài lần. Khi tôi cảm thấy bánh xe trực thăng chạm đất và có thể thấy được đất nâu, tôi nhảy ra ngoài.

Cả toán Idaho xuống hết trực thăng. Việc xâm nhập, chỉ làm một vài dân địa phương hoảng sợ, rất nhanh giống như lần xâm nhập bên Miên trước đây một tháng mà tôi và Bubba rất thích. Khi nhìn từ không trung, đám cỏ voi dầy và cao hơn. Nó cao cả 10 feet. Đáng lẽ chúng tôi di chuyển ngay khi vừa xuống bãi, nhưng chúng tôi ngồi lại đấy. Tôi hỏi Black rằng anh có nghĩ dân địa phương sẽ giúp bọn Bắc Việt hay không. Anh hỏi tôi có khùng không. Dân địa phương đâu có được sự lựa chọn. Câu hỏi chính là chúng tôi có thể rời khỏi bãi đ áp, và rời xa khỏi chỗ này mà tránh khỏi được bọn truy lung, và đám đặc công Bắc Việt đang quan sát, tìm kiếm chúng tôi. Thêm một chuyện làm tôi khó chịu là cái đồi đầy cỏ voi chỗ chúng tôi vừa xuống lại quá xa đầu ngọn núi, xa hơn là tôi đã mường tượng trong lúc nghe thuyết trình. Chúng tôi phải đến chỗ đất cao trước khi trời tối, sự an toàn của toán đang bị nguy hiểm. Vài phút sau, chúng tôi rời bãi, di chuyển về hướng đông tiến về khu rừng dầy đặt. Tôi rất ghét cỏ voi, vì di chuyển trong bãi cỏ voi làm chúng tôi mất nhiều sức lực, và những cái lá của nó làm rát mắt tôi. Chúng tôi gây nhiều tiếng động khi di chuyển trong đám cỏ này. Tiếng động gây trở ngại trong khi chúng tôi cố gắng di chuyển nhẹ nhàng, lén lút, điều rất quan trọng cho sự sống còn trong rừng.

Tôi gọi máy cho Spider và hỏi anh có thể cho tôi hơn mười phút, coi như ngoại lệ trong thủ tục thường lệ. Tôi nói cho anh biết chúng tôi không có sự lựa chọn và đã phải bay qua một cái chòi nhỏ xây sâu vào trong vách núi. Spider ngạc nhiên về cái tin đó. Anh và viên phi công trên chiếc Covey đã không nhìn thấy cái chòi trước đó. Tôi giải thích rằng không ai có thể thấy nó khi nhìn từ trên không trung bởi vì khu rừng dầy với những tầng cây mọc bao phủ quanh bên trên. Trong khi tôi báo cáo với Spider thì Black tiếp tục cho toán di chuyển về hướng đông.Anh đi sau Phước và Tuấn và tôi thì đi đoạn hậu. Di chuyển qua đám cỏ voi đã lấy hết thời gian của chúng tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy nôn nao trong bao tử. Cái đám cỏ voi này gợi nhớ tới Echo Four hai tháng trước đây, và nó làm cho chúng tôi đi rất chậm. Khi nhìn lên bầu trời màu xám, t ôi đoán có vẻ như cơn giông bão đang kéo đến. Trong chuyến công tác này, tôi mang dư thêm một cái áo lạnh trong ba lô nhưng không có áo đi mưa. Spider gọi hỏi xem anh ta có thể rời khỏi vùng hay không. Tôi bấm vào máy báo hiệu trả lời được, để cho chiếc Covey rời khỏi vùng.

Chúng tôi di chuyển gần đến khu rừng ba tầng tuy vẫn còn trong khu cỏ voi, cái khu rừng này nhìn cao hơn cả tòa nhà Empire State Building. Rồi Phước nổ súng bắn nguyên cả tràng. Có thể có một hay hai tiếng súng nổ bắn trả lại của quân địch. Từ cái vị trí ở đằng sau toán, tôi có thể đang ở Broadway bởi vì tôi không thể trông thấy Phước, Black, Hiệp hay Bubba. Tôi liền gọi cho Spider và báo cho anh biết chúng tôi chạm nhẹ với địch và khẩn xin được “bốc”.
“Tilt, tôi không chấp nhận,” Spider nói. Tôi biết anh đang nói đùa.
“Cảm ơn Thượng Đế, tên trung úy trẻ ngồi bàn giấy đã không đi bay trên chiếc Covey hôm nay.” Tôi nói với chính mình. Không còn súng nổ nữa khi toán di chuyển trở ngược lại phía sau tôi. Trong khi chờ đợi, tôi cảm thấy một con đỉa trong ống quần. Nó đang bò vào cái chỗ riêng tư của tôi để được hưởng nhàn. Chả cần biết đến quân Bắc Việt, đám mây, mưa và lạnh lẽo! Nếu con đỉa cắn tôi…! Tôi giũ chân thật mạnh và thọc tay vào quần. Đúng phải là con đỉa của tụi lính Bắc Việt, nó vẫn còn di chuyển lên trên đùi tôi. Tôi búng cho nó rơi xuống ống quần, cởi giày và thảy cái thằng cộng sản đó xuống đất. Rồi tôi đạp lên nó, và giữ chặt nó trong nhiều giây.

“Cái đám cỏ voi mất dạy,” Black nguyền rủa. “Bọn chúng có thể nghe chúng ta xa từ Hà Nội!” Với sự thông dịch của Hiệp, Phước nói anh đã nghe được tiếng người nào đó trong rừng, khi mà anh vừa rời khỏi đám cỏ voi từ góc phía đông. Anh bắn vào họ và họ cũng nổ súng bắn trả lại một hay hai tiếng nổ. Phước cho biết không phải là súng AK-47. Khi nói chuyện thầm thì với nhau, chúng tôi nghe tiếng chuyển động từ phía đông nam. Họ ở xa vừa phải để chúng tôi không thể trông thấy. Tuy vậy, họ ở dưới đồi, và quá gần đến nỗi tôi phải thảy trái lựu đạn xuống hướng đó. Quân địch không phản ứng.

Đám cỏ voi nhìn cao hơn và làm cho chúng tôi bực mình hơn. Mỗi lần di chuyển, chúng tôi gây nhiều tiếng động. Lúc quan sát về phía đông nam, muốn biết chuyện gì đang xảy ra bên đó, chúng tôi nghe tiếng chuyển động bên hướng đông bắc. Lần nữa, không có nhiều di chuyển nhưng bọn chúng đang cố gắng bọc ngang sườn chúng tôi. Shore ra dấu cho biết anh muốn thảy trái lựu đạn M-26 vào hướng đông bắc. Anh nhẹ tay bật cái chốt, quăng cái thìa đi, đếm hai tiếng rồi thảy nó vào ngay chổ có tiếng động. Giữ thêm hai giây và thảy vòng cầu, trái lựu đạn nổ trên không trung, làm tăng thêm miểng chết người hơn, với hy vọng rơi ngay trên đầu quân địch. Chúng tôi đổ đầy mồ hôi. Không nghe tiếng động cơ phi cơ, nhưng chúng tôi vẫn nghe tiếng di chuyển ở hướng đông nam.

Spider gọi tôi trên máy truyền tin. Giọng nói của anh nghe như có vẻ khẩn thiết khi anh ra lệnh cho chúng tôi không được đi về hướng đông bắc.
“Tôi lặp lại, không di chuyển toán về hướng đông bắc!” Anh hỏi gặng lại để chắc chắn tôi hiểu rõ tin anh vừa nói.
“Nhận rõ. Không mang toán về hướng đông bắc!” Tôi rất ngạc nhiên bởi cái giọng khẩn nài của anh. Tôi báo cho Black biết. Hướng đông bắc là con đường có vẻ ít gặp sự kháng cự nhất và là cơ hội để chúng tôi tiếp tục công tác. Lời thông báo ngắn và những tiếng động ở hướng đông bắc phủ nhận việc đó. Anh nói anh nhận được tin tình báo hỗ trợ cho lệnh của anh bắt chúng tôi không được đi về hướng đông bắc. Như vậy, chúng tôi phải lo cho sự sống còn của toán. Tôi tò mò muốn biết tin tình báo như thế nào mà làm cho anh chắc chắn vậy. Rồi tôi ngưng không suy nghĩ về cái giả thiết và trở về với tình hình chiến trận ngay dưới đất.

Chúng tôi biết chắc chắn có bao nhiêu quân địch đang tiến đến bởi vì chúng tôi gây nhiều tiếng động trong cái đám cỏ voi, và cỏ voi cũng làm cho chúng tôi khó nghe được những tiếng động khác. Có phải là bọn đặc công mà chúng tôi đã nghe lúc thuyết trình? Nếu là chúng, bọn chúng cũng phải di chuyển qua cái đám cỏ voi kinh tởm kia, nơi mà chúng tôi đã bị giữ chân. Những báo cáo tình báo trước kia cho biết đám đặc công chỉ bận khăn quấn ngang thắc lưng, mang áo giáp và cầm súng AK-47 loại mới với báng xếp, mà nhiều người gọi là AK-50. Bọn chúng phải mang dao, nhưng ở đâu? Những tiếng động từ phía đông bắc làm tôi ngưng nghĩ về những câu hỏi không thực tế về bọn đặc công. Black thảy trái lựu đạn thẳng về tiếng động ngay nơi đó.
Black nói, “Tôi ngửi mùi khói. Hoặc là từ mấy trái lựu đạn của chúng ta hay là từ bọn lính Bắc Việt đã đốt lửa.”

“Bây giờ, đúng là mọi chuyện đang sôi động nơi bãi đáp.” Tôi gọi cho Spider. Tôi cho anh biết chúng tôi bị bao vây và có lửa cháy hai bên sườn của vị trí phòng tuyến. Vì vị trí của cái đồi nhỏ bên hẻm núi, với ngọn núi nhô cao hai hướng đông và tây, việc dùng phi cơ phản lực coi như không thể được. Dùng trực thăng hỏa lực cũng sẽ gặp nhiều khó khăn vì địa thế và từ nơi mà quân địch đang ở. Trong vòng ít phút, chúng tôi ngửi được mùi khói. Tiếng nổ lách tách trở nên nhiều và ầm ỉ hơn. Black tiến đến phía tây để tìm một con đường thoát. Nếu chúng tôi thử đào thoát bằng con đường đó, đám cỏ voi sẽ làm cho chúng tôi bị nguy hiểm. Chung quanh lại không có các cây cao để chúng tôi có thể trèo lên quan sát tốt hơn.


Bây giờ thì chẳng còn phải lo tiếng động gì cả. Black đẩy đám cỏ voi rạp xuống. Tôi cố gắng tiến lên hướng bắc, nhưng đám cỏ voi vẫn còn cao và dầy. Quân Bắc Việt tiến về phía bắc chúng tôi. Chúng tôi bị bao vây cả ba mặt. Vì chúng tôi ở trên cao hơn nên chúng tôi cố gắng làm thành một phòng tuyến trong đám cỏ voi bằng cách làm cho chúng ngã rạp xuống. Nhưng đây không phải là chuyện dễ dàng. Tôi và Bubba chặt đứt cái đám cỏ voi bằng con dao đi rừng. Black nhảy thẳng vào chúng, dùng sức nặng của thân hình cộng thêm các dụng cụ mang trên người cố gắng làm cho chúng ngã rạp xuống. Tôi và Black biết nếu chúng tôi có thể chặt ngã đám cỏ voi xuống thấp, chúng tôi có thể trông thấy được quân địch tiến ra từ đám cỏ voi thẳng đến vị trí chúng tôi. Spider gọi máy cho biết chiếc Kingbee còn cách bãi đáp hai phút. Rồi anh hỏi cuộc chiến đang diễn ra như thế nào vì anh nghe tiếng nổ lách tách chung quanh mà anh nghĩ là tiếng súng của quân địch. Tôi nói với anh nếu chiếc Kingbee không tới nơi được sớm, toán Idaho sẽ chạm trán với địch và với các đám lửa cháy. Gió thổi mạnh trong hẻm núi từ hướng nam. Lửa càng ngày càng cháy dữ dội hơn khi khói bay phất phới lên ngọn đồi và xuyên qua phòng tuyến. Tiếng nổ lách tách của đám cỏ voi cháy khét lớn đến độ có nhiều tiếng nghe như tiếng súng nổ.

“Kingbee sắp đến chưa?” Hiệp hỏi. Tôi cho anh biết trực thăng của Đại Uý Tường cách xa khoảng một phút bay.
“Tụi nó đốt thêm nhiều đám cháy nữa,” Bubba cho biết. Bây giờ, tiếng động từ đám cháy làm cho chúng tôi phải nói lớn tiếng với nhau. Khói trở nên dầy hơn làm tôi đổ thêm nhiều mồ hôi. Chúng tôi thảy thêm nhiều lựu đạn xuống dưới đồi để làm cho bọn chúng phải cúi đầu xuống. Tiếng động từ hai đám cháy quá lớn tới nổi nếu bọn lính Bắc Việt mở cuộc tấn công thì chúng tôi cũng không nghe. Lúc đó, con đường mà bọn chúng tấn công sẽ phải là con đường ngoằn ngoèo từ hướng tây ngọn đồi tới bãi đáp. Bubba nói anh đã trải mìn claymore ngay đó. Black cho biết đám lửa đang cháy qua bãi cỏ voi ở sườn tây chúng tôi, ngay chỗ sườn dốc của bãi đáp xuống dưới hẻm núi.

Đám cháy phía nam trở nên ác liệt thêm từng giây và tiếp tục di chuyển lên dọc theo sườn ngọn đồi, tiến thẳng đến chúng tôi và bao quanh hướng đông. Thêm một hay nhiều đám cháy ở hướng bắc và đông bắc, nhưng chúng không tiến nhanh đến chúng tôi như đám cháy ở hướng nam. Black và Shore lấy nhiều cục thuốc nổ C-4, cắt chúng ra làm hai và đắp ngòi nổ lên. Vì cái đám cháy từ hướng nam tiến quá nhanh, chúng tôi đặt C-4 ngay đầu đám cháy, cho nổ tung. Chính là làm cho đám cháy chạy trở ngược xuống đồi. Bây giờ thì khói quá dầy, tôi lấy cái khăn xanh che mũi lại. Những cục than hồng bay cao lên trên đầu khu vực phòng tuyến nhỏ lởm chởm, mang theo bụi, và những mảnh lửa nhỏ và tàn lửa bay xuống đám cỏ voi và ngay vào cả chúng tôi. Chỉ có Hiệp và Tuấn là đội nón, chúng tôi, đám còn lại, tóc bị ướt sũng.

Hơi nóng từ các đám cháy trở nên dữ dội hơn tới độ Black và Shore bị phỏng khi cố gắng chặn đứng ngọn lửa đang tiến. Tất cả chúng tôi phải búng tro hay tàn lửa khỏi quần áo hay da. Black nói với tôi bọn lính Bắc Việt ở phía sau, không xa đám lửa mấy. Tuấn đã báo cho biết anh thấy những cái bóng phía sau đám lửa ở hướng nam và đông nam. Black cũng quan sát những cái bóng như vậy, anh không chắc là thật, hay hiện tượng gây ra bởi đám lửa, hay do cơn gió nóng càng lúc càng dữ dội hơn. Rồi Bubba cũng báo thấy giống như vậy. Bọn lính Bắc Việt không để súng vào vị thế khai hỏa, trông chúng rất thanh thản. Black và Phước đặt thêm mìn claymore ngay sườn đồi hướng nam, và đông nam.

Khi Spider cho biết Kingbee sẽ đến trong vòng ba mươi giây, tôi ra hiệu cho Tuấn, Black, Phước và Shore cho nổ mìn claymore. Cuối cùng chúng tôi đã nghe được tiếng Kingbee. Bởi vì có nhiều hoạt động của quân địch ở hướng nam và đông nam, tôi bảo Spider cho Đại Uý Tường mang chiếc Kingbee vào từ hướng bắc, sẽ dễ dàng đáp xuống thấp khu hẻm núi hơn. Khói trở nên ngột ngạt làm chúng tôi bị ngộp thở khi một đám khói đen và xám khổng lổ thổi vào vị trí chúng tôi. Black chỉ cho thấy đám lửa cháy đã lâu ngay hướng đông nam, rằng bọn Bắc Việt có thể dùng cái khu vực đã cháy đó để tấn. Tôi, Black, Shore và Tuấn bắn đạn M-79 vào hướng nam và đông nam. Tôi lo chú ý đến chiếc Kingbee trong khi Black và Bubba cho nổ thêm hai cục C-4 để giữ đám cháy lại. Tiếng nổ làm chậm đám lửa lại và những tiếng chuyển động của quân Bắc Việt đang ở phía sau. Black, Bubba và Tuấn bắn M-79 theo lối cầu vồng vào hướng nam.

Khi Đại Uý Tường bay chiếc trực thăng xuống vách núi, thẳng về phía chúng tôi, ông đã biết rõ chúng tôi đang ở đâu. Khói quá dầy làm cho ông khó trông thấy được bãi đáp. Trông giống như chúng tôi đang bị nhốt kín trong một đoạn của Twilight Zone, với khói lửa đang tràn nhanh lên núi, cùng với quân địch bắn vào chúng tôi, và thấy được sự cứu giúp gần kề, nhưng lại quá tầm tay, không nắm bắt được. Khi chiếc trực thăng cũ kỹ Sikorsky còn cách bãi đáp khoảng 75 feet và đang tiến thẳng xuống chúng tôi, theo tôi, hình như cánh quạt trực thăng quay quá chậm. Trong một phút ngắn, tôi nghĩ chiếc trực thăng sẽ rời khỏi bãi đáp vì khói bao phủ dầy quanh bãi đáp. Tim tôi ngừng đập. Nếu ông rời bỏ chúng tôi, chúng tôi chết chắc. Một vài phút nay trở thành một vài giờ. Tầm nhìn của tôi trở nên rõ ràng hơn bất cứ lúc nào, tôi thấy rõ khói, lửa, tiếng nổ lách tách và tiếng súng nổ của quân địch. Tôi đứng ngay sát phía tây phòng tuyến, vẫy tấm panel màu lên bầu trời, cố gắng cho phi công thấy nó.

Chiếc H-34 vẫn tiếp tục xuống thấp, và bay rất chậm. Tôi chỉ nhìn thấy bụng của chiếc trực thăng, với cái đầu khệnh khạng đưa qua phải rồi qua trái, tiếp tục xuống thấp trông giống như con bọ ngựa khổng lồ. Cánh quạt trực thăng xoay quanh thổi gió ào vào chúng tôi. Cuối cùng, mũi trực thăng hướng về phía trái và tôi có thể nhìn thấy Đại Uý Tường. Nhìn thấy mặt ông, nhìn thấy ông ngồi điềm tĩnh trong chiếc ghế phi công, làm cho lòng tự tin của tôi dâng lên cao hơn. Chúng tôi chắc chắn thoát nạn.

Thêm một lợi ích nữa từ cánh quạt trực thăng: nó đẩy khói và lửa bay trở ngược xuống đồi. Thông thường, khi “bốc”, cánh quạt gây nhiều trở ngại cho toán vì nó mang bụi, đất, lá cây, những cành cây nhỏ, và những hòn đá, trong khi tiếng động làm khó nói chuyện được với nhau và gió xoáy làm đau mắt. Nhưng, vào cái ngày Giáng Sinh của năm 1968, cánh quạt trực thăng mạnh mẽ đó là vị cứu tinh cho toán Idaho. Nó đẩy lùi lửa và khói trong lúc toán Idaho nhảy vào trực thăng. Cánh quạt quay thật mạnh đẩy đám lửa xa xuống đồi, làm cho quân Bắc Việt phải rút lui hay sẽ bị cháy phỏng bởi chính đám lửa của chúng. Là người cuối cùng lên trực thăng, tôi ra hiệu cho viên xạ thủ đại liên rời khỏi vùng. Tôi ngồi ngay cửa khi Đại Úy Tường điều khiển trực thăng lên cao vài feet trước khi ông bay về hướng nam. Khi chúng tôi rời khỏi ngọn đồi, lửa cháy lan lên đỉnh đồi và nhận chìm, bao trùm lên khu vực chúng tôi đứng trên đó vài phút trước.

Đại Uý Tường tống ga bay nhanh trong hẻm núi nơi mà chúng tôi đã bay ngang. Tôi gọi máy báo cho Spider rằng toán bình an. Thêm một lần nữa, toán ST Idaho tạo được phép màu kỳ diệu, sau lần công tác. Adrenaline vẫn chạy nhanh, chúng tôi vừa thoát nạn thêm lần nữa. Thật là sướng khi được hít thở không khí. Chúng tôi không nghĩ gì đến lễ Giáng Sinh, mẹ hiền hay những món quà. Quà của chúng tôi là còn được sống. Tôi nhìn Black và Bubba. Họ bị cháy lông mi, lông tay. Nhọ, bụi đen bám đầy trên gương mặt đầy mồ hôi của họ. Tôi bắt đầu bị run khi chiếc Kingbee bay về hướng đông nam, hướng về Quảng Trị. Tôi bị run vì nhiều lý do: cơn gió lạnh thổi vào người đầy mồ hôi cuả tôi, và sự sợ hãi. Trực thăng bay trên cao nên lạnh hơn dưới bãi đáp nhiều. Tôi nhận thức được, thêm một lần nữa, toán Idaho suýt bị xoá sổ. Là One-Zero, trưởng toán của cái nhóm nhỏ anh em thám sát dũng cảm này, tôi cảm thấy run sợ hơn.

Đại Uý Tường bay về Quảng Trị trước vì trực thăng gần hết xăng. Chúng tôi trở về Phú Bài khi bóng đêm sắp sửa tràn về. Cũng giống như trước đây, Đại Uý Tường cho phép tôi ngồi trên ghế của phi công phụ khi gần hết chuyến bay. Tôi hỏi Đại Uý Tường xem ông có mệt mỏi lắm không khi phải kéo toán Idaho ra khỏi những nơi luôn luôn “nóng”. “Không hề chi,” ông nói. “Quá nhiều khói, nhưng không nhằm nhò gì. Bây giờ Kingbee bay về nhà. Ngày mai, chúng ta bay tiếp?” Tôi nói cho ông biết tôi có thể nghỉ ngày mai. Ông nói Kingbee sẽ bay, chắc chắn vậy. Kingbee không bao giờ nghỉ ngơi. Khi chúng tôi đáp xuống Phú Bài, ông chúc tôi Giáng Sinh an lành nhưng từ chối việc tôi mời ông uống với tôi ly nước trong câu lạc bộ. Gia đình ông đang chờ ông ở Đà Nẵng, chỗ thường trú của Phi Đoàn 219 Kingbee, nằm trong phi trường Đà Nẵng.



Black và Shore đi lấy thức ăn và nước uống cho toán trong khi tôi bước vào Phòng Ba báo cáo sơ khởi về chuyến công tác. Sau đó, tôi đi tắm nước lạnh ở Phú Bài. Lúc ấy, tôi đã quen với nước lạnh, và thấy thật là thoải mái. Sau chuyến công tác, tắm rửa thật đặt biệt. Vừa quét gội đi những bụi bậm và mồ hôi vì ở dưới đất đầy bụi cát, vừa luôn chắc chắn rằng tôi vừa sống sót thêm một ngày nữa ở cái vùng công tác Prairie Fire đó. Trong lúc bước trở về phòng, tôi nghe bài nhạc Silent Night phát ra từ cái ra-đi-ô nhỏ, rè và nhiễu sóng. Bài hát cổ xưa của dân Đức mừng lễ Giáng Sinh làm tôi phải dừng chân lại. Đúng ngay giờ Noel.

Giáng Sinh là ngày lễ tôi thích nhất, thích nhiều hơn sinh nhật, bởi vì ông nội Meyer, bà nội Stryker và chú Rob luôn có mặt trong buổi tối tiệc lễ Giáng Sinh với chúng tôi, và còn mở quà nữa. Hai năm trước, ngay ngày Giáng Sinh, cơn bảo tuyết đổ ập xuống Trenton, lúc tôi được đi phép ở trại huấn luyện Ft. Dix. Tôi nghĩ tới tuyết, món khoai tây nghiền và nước xốt của mẹ tôi, và căn nhà ấm cúng trong mùa đông lạnh lẽo. Nó như có vẻ quá xa vời. Nhưng, đứng ngay ở đấy, nghe bài nhạc Silent Night ở nơi an toàn và trong bóng đêm của trại FOB 1, tôi cảm như có được một đêm Giáng Sinh thực sự. Tôi cảm thấy rất thú vị, bởi vì trước đó vài giờ đồng hồ, tôi đã lo sợ điều xấu nhất sẽ xảy ra. Tôi cũng cảm thấy mệt mỏi và nghĩ mình già đi. Tôi trở về phòng, nơi tôi ở chung với Spider và Don Wolken.

Cơn ác mộng bắt đầu vào đêm ấy. Tự dưng, tôi thấy tôi trở lại ngay bãi đáp. Tôi cảm được cái nóng của đám lửa. Tôi có thể ngửi được mùi khói và tôi bị ho khan. Thêm một lần nữa, tôi đứng ngay góc đồi, vẫy tấm vải màu hồng và tím cố gắng làm cho viên phi công chiếc trực thăng đang xuống thấp về hướng chúng tôi, trông thấy tôi. Tôi hồi tưởng lại cảnh quay chậm lúc ban ngày với một điều ngoại lệ chính: Khi chiếc Kingbee vừa xuống thấp, tôi trông thấy viên trung uý phi công trẻ ngồi ở ghế bay chớ không phải là Đại Uý Tường. Đây là viên trung uý đã thất bại trong lúc cố gắng mang phân nửa toán thám sát khỏi thung lũng A Shau đầu năm, sau khi viên phi công kỳ cựu đã bốc được nửa toán trước đó. Viên phi công đàn anh đó chính là Đại Uý Thịnh, đã quay trở lại với những người lính thám sát còn lại sau khi viên trung uý đã hoảng sợ. Đại Uý Thịnh đã bốc họ ra được, một trong những hành động rút lui dũng cảm và gan dạ nhất trong lịch sử của C&C.

Trong giấc mơ, tôi thấy và biết viên trung uý đó bởi vì các phi công đàn anh Kingbee đã kiên nhẫn làm việc với anh ta. Thật lặng im, từ một nguồn tin, các trưởng toán trong trại đều biết, nếu anh ta bay và anh đang chạm địch, đúng là phải gập người lại, hôn mông giã từ. Anh ta đã không nhạy bén và dũng cảm như hai Đại Uý Thịnh, Tường; và hai Trung Uý Trung, Trọng, những người đã làm cho các quân nhân Lực Lượng Đặc Biệt trong trại FOB 1 kính nể. Trong cơn mơ, tôi hoảng sợ quá đỗi khi tôi trông thấy mặt viên trung uý đó. Tôi la vào máy truyền tin PRC-25 và nói với Spider, “Đại Uý Tường đâu? Đại Uý Tường đâu? Đồ chết tiệt!” Khi la hét, tôi trông thấy vẻ hoảng sợ chạy dài trên gương mặt tròn của viên phi công trẻ, và viên trung uý nhìn tôi với gương mặt tang tóc khi anh ta mang chiếc trực thăng lên cao khỏi bãi đáp, bỏ chúng tôi lại dưới đất. Tôi cảm được lửa, sức nóng, và khói đang đến gần. Cổ họng tôi bị siết chặt, mắt tôi đầy nước.

Tôi ngồi thẳng dậy, trên giường. Người tôi đầy mồ hôi, cổ họng khô khan, và mắt bị đau vì tưởng tượng về khói lửa. Sự kinh hãi giống như thật đến nỗi tôi đã không nhận biết một con chuột đang chạy lon ton khỏi giường cho đến khi tôi nghe nó chạm đất.
Hai ngày sau, tôi và Bubba ngồi nói chuyện với người bạn thân của Bubba, Doug “the Frenchman” Le Tourneau thuộc toán Virginia. The Frenchman và toán của anh đã được “bốc” trước, sau khi chạm địch vào ngày thứ năm của chuyến công tác.

The Frenchman hỏi có phải Bubba đi công tác trong ngày Giáng Sinh. Anh nói cho đến ngày thứ ba của chuyến công tác, không tìm thấy hoạt động của quân địch để báo cáo, và anh cũng quên hôm ấy là ngày lễ Giáng Sinh. Không có gì làm, anh dò tìm các tần số trên máy PRC-25. Sau một vài lần, anh tìm được một tần số nói tiếng Việt, nghe rất rõ, các tiếng nói nghe có vẻ khẩn cấp. Không hiểu được những người Việt đó đang nói gì và không rõ họ là ai, Doug hỏi Hoàng, người thông dịch viên của toán, nghe cuộc đàm thoại. Vài giây sau, Hoàng cau mày. Anh nói với Doug rằng anh đang nghe tụi lính Bắc Việt, và như là tụi nó đang mở một cuộc phục kích vào các người lính Hoa Kỳ. Anh đang bị trở ngại vì không thể hiểu được chắc chắn là tụi lính Bắc Việt đang nói gì với nhau vì tiếng địa phương của họ và anh không rõ tiếng lóng của họ.

Rồi Hoàng nhìn vào chiếc máy truyền tin PRC-25 với vẻ mặt kinh hoàng. Anh cho Doug biết tụi Bắc Việt đang cố gắng phục kích toán ST Idaho. Doug báo cho Mike Childress, trưởng toán Virginia biết Hoàng vừa nghe được những gì trên cái máy truyền tin và anh xin phép được vào ngay tần số khẩn cấp để báo động cho toán Idaho. Anh đã được chấp thuận.

Lúc Hoàng tiếp tục theo dõi qua máy PCR-25, Doug mở máy cấp cứu và cất giọng gọi Covey. Thời gian ấy, anh không biết được là Spider đang ở trên vùng công tác. Khi anh đang giải thích những gì Hoàng nghe được trong ra-đi-ô, viên thông dịch viên nắm lấy tay Doug và bảo anh nói với toán Idaho rằng tụi Bắc Việt đang phục kích chờ đợi ở hướng đông bắc vị trí của toán. Doug lập tức báo cho Spider biết. Thêm vài phút theo dõi tiếp ra-đi-ô của bọn Bắc Việt, tần số FM bổng nhiên tắt ngấm. Chiếc Covey chú tâm lo việc “bốc” chúng tôi và đã không trở lại tần số của toán Virginia. Bây giờ thì tôi biết từ đâu mà Sipder biết được tin tức và tại sao mà anh không muốn chúng tôi di chuyển lên hướng đông bắc.

Doug tiếp tục câu chuyện. Vào ngày thứ năm của chuyến công tác của toán Virginia, toán di chuyển đến một vị trí mới trên con đường mòn và anh ngồi ngay sau một khúc gỗ rất lớn, nơi anh vừa quan sát được con đường mòn và vừa có thể ra hiệu cho các toán viên. Khoảng hai giờ trưa, tên trinh sát của một đại đội lính Bắc Việt rời khỏi con đường mòn và ngừng ngay trước khúc gỗ lớn, nơi mà Doug đang ẩn núp. Tên trinh sát trẻ con này bước tới bước lui và dở môt chân lên, có vẻ như hắn sẽ bước lướt qua khúc gỗ. Trước khi cái chân tên này chạm đất, Doug đứng dậy ngang hông tên lính đang hoảng hốt này. Tên lính Bắc Việt nhìn vào mắt Doug trong vài giây, trông thấy cây súng CAR-15 của Doug đang chỉa lên thẳng vào người và biết được hắn vừa làm một lỗi thảm sầu. Đây là lần nhảy toán thứ hai của Doug với toán Virginia, anh mất bình tĩnh bắn hết cả băng đạn vào người tên lính Bắc Việt. Nguyên cả đại đội quân Bắc Việt rượt đuổi toán Virginia hơn một giờ đồng hồ. Cuối cùng, Doug gọi xin không yểm, và được một chiếc Kingbee “bốc” bằng thang dây.

Với riêng Doug, cuộc thám hiểm không dừng lại. Lúc chiếc trực thăng kéo a
nh lên khỏi mặt đất, cây súng CAR-15 của anh bị quấn vào thang dây bên trên anh, thân anh bị đảo ngược, đầu lộn xuống đất. “Đ.M. cái đai đeo hình chữ D!” Quân Bắc Việt vẫn còn đầy dẫy ở dưới đường mòn. Vậy là anh ta thảy lựu đạn xuống quân địch và còn tìm cách bắn được vài viên đạn M-79 khi anh được kéo vào trong trực thăng.
Tôi và Bubba nói thêm cho Doug biết những sự việc xảy ra vào ngay ngày Giáng Sinh và tụi tôi đã được may mắn như thế nào. Chúng tôi không muốn nghĩ thêm việc gì sẽ xảy ra nếu Doug không bắt được làn sóng ấy. Tôi và Bubba đều biết Doug đã cứu mạng chúng tôi. * * * Cái mà tôi không hề biết là cơn ác mộng của đêm Giáng Sinh năm 1968, lâu lâu lại ám ảnh tôi cho suốt hai mươi lăm năm. Một thời gian sau, tôi đã có thể ngồi thẳng lưng, ra mồ hôi với nỗi lo sợ khi cơn ác mộng đến. Cũng đã hơn mười năm sau c ơn ác mộng cuối. Nhưng mỗi khi Giáng Sinh đến, ác mộng hay không ác mộng, tôi luôn dành ít phút giây nghĩ đến lòng dũng cảm của Đại Uý Tường. “Không hề chi, Kingbee không bao giờ nghỉ ngơi.”

Sài Gòn nhỏ ngày 29 tháng Chín 2011

No comments:

Post a Comment