18/08/2024
Theo một số nhà nghiên cứu tại Mỹ, hiểu biết của đa số người Việt Nam
về cuộc di cư năm 1954 và cải cách ruộng đất miền Bắc chỉ dừng lại ở
cái tên của nó và một vài câu chuyện truyền miệng, trong khi quy mô, tác
động và hệ luỵ của những sự kiện này đã kéo dài suốt 70 năm qua và vẫn ảnh hưởng đến những chính sách hiện tại và lợi ích của người dân.
Nguyên nhân dẫn đến lỗ hổng này là do phần lịch sử đen tối đã bị cố
tình che giấu, trong khi những nhân chứng sống, thế hệ trực tiếp trải
qua hai sự kiện trên gần như không còn nữa.
“Đây là hai sự kiện quan trọng của lịch sử Việt Nam và nó ảnh hưởng
đến gia đình, cuộc sống của rất nhiều người Việt Nam và cả những người
sau này đi qua Mỹ nữa, trong số họ có nhiều gia đình
đã từng di cư từ
Bắc vào Nam hoặc chịu cải cách ruộng đất”, Giáo sư Vũ Tường, Trưởng khoa
Chính trị - Giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Việt-Mỹ của Đại học Oregon,
nói với VOA.
“Nó quan trọng như vậy nhưng lịch sử trong nước họ không dạy hoặc họ
bỏ qua vì rõ ràng nó phô bày tính bạo lực, xấu xa của đảng Cộng sản,
thành ra họ muốn che giấu, trong khi bên này thì những người lớn tuổi
dần dần mất đi nên mới có nhu cầu cần phải giáo dục cho cộng đồng biết
về những sự kiện này”, GS. Vũ Tường cho biết thêm về lý do trường đại
học của ông cộng tác với Đại học Kỹ
thuật Texas và Viện Bảo Tàng Di Sản
Người Việt tổ chức cuộc triển lãm - thảo luận về “Cuộc di cư năm 1954”
và “Cải cách ruộng đất miền bắc Việt Nam” vào hai ngày 17-18/8 tại
Bowers Museum,
thành phố Santa Ana, bang California, Hoa Kỳ, nhân dịp 70
năm kỷ niệm các sự kiện lịch sử này.
Triển lãm giới thiệu với công chúng hàng trăm tài liệu, hình ảnh, văn
bản… của nhà nước Cộng sản về cuộc cải cách ruộng đất đã khiến hàng
trăm ngàn người đổ máu oan uổng, cũng như những tài liệu của chính phủ
Việt Nam Cộng Hoà cho thấy việc tiếp nhận, sắp xếp cuộc sống cho gần một triệu người di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 như thế nào.
Phát Biểu của Nhà Văn Quân Đội
Đại Úy Phan Nhật Nam
“Đây là một chương trình mà 70 năm qua chưa có một tổ chức nào làm.
Viện Bảo Tàng muốn dùng cơ hội này để đưa ra ánh sáng những tài liệu mà
trước giờ đã không được nhiều chú ý.
Thành ra ngày hôm đó có một vở kịch
ngắn của những nạn nhân là con của những ông bà, cha mẹ bị giết trong
cuộc cải cách, và những người đó họ viết lại vở kịch bằng những tài liệu
thật và họ đóng lại, ngay cả diễn viên là những người đã từng đóng phim
cho Hollywood cũng đóng trong vở kịch”, Hoạ sĩ Châu Thuỵ, Giám đốc Viện
Bảo Tàng Di Sản Người Việt, giới thiệu thêm về nội dung của hai ngày
triển lãm.
Cuộc cải cách khốc liệt và hành trình di cư của những người tìm tự do
Cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam tổng cộng có 5 đợt, được
tiến hành từ năm 1953 -1956 tại 3.314 xã, khiến hàng trăm ngàn người bị
đấu tố, bị kết án oan sai. Theo thống kê chính thức của Việt Nam, tổng
số người đã bị quy là địa chủ trong cuộc cải cách này là 172.008 người.
Trong đó, số người bị quy sai là 123.266 người, chiếm tỷ lệ 71,66%.
Giáo sư Alex Thái, thuộc Trung tâm Việt Nam học của Đại học Kỹ thuật
Texas, nói nếu chỉ tính trên con số mà chính quyền ở Việt Nam công bố
(mà thực tế có thể nhiều hơn), thì số người chịu ảnh hưởng của cuộc cải
cách ruộng đất phải gấp 4, 5 lần hoặc hơn vì mỗi gia đình thời đó đều có
ít nhất 4, 5 con.
“Trong phần cải cách ruộng đất, chúng tôi trưng bày những văn bản của
nhà nước cũng như những tư liệu liên quan để chứng mình cuộc cải cách
ruộng đất này không phải là một cuộc nổi dậy bình thường do người dân
uất ức, nghèo đói quá mà họ đứng dậy, mà nó là một sự phát động từ trong
chính quyền nhà nước Việt Nam để gây sự hận thù giữa người dân với
nhau, để rồi sách động cuộc cách mạng ruộng đất”, GS. Alex Thái nói về
nội dung cuộc triển lãm.
Để thực hiện công tác gây sự căm hận này, theo những nghiên cứu của
GS. Alex Thái, nhà nước Cộng sản Việt Nam đã dùng cách thức được gọi tên
là “phát động quần chúng”.
Ông giải thích: “Để phát động quần chúng, chính phủ phải in ấn rất
nhiều tư liệu để làm sao cổ vũ người dân. Mà người dân Việt Nam vào thời
kỳ đó rất thiếu học, đa phần vào thời gian đó chỉ mới học lớp 3, lớp 4
thôi, thì để cho họ có được sự căm thù đối với tầng lớp giàu có hơn, tức tầng lớp trí thức, địa chủ, phú nông, để rồi họ đứng lên, lấy số đông
người dân nghèo đó để đả phá, chỉ trích, đấu tố những người thuộc tầng
lớp giàu. Chúng tôi sẽ trưng bày những văn bản đó, trong đó có những văn
bản nói rằng cứ mỗi 1.000 người thì phải xử tử 1 người. Xưa nay người ta hay nói cải cách ruộng đất giết chóc nhiều lắm nhưng không mấy ai
hiểu cụ thể nó có những con số như vậy. Nó là một quota, và sau này có
một quota nữa là mỗi xã thì phải có 5% địa chủ”.
Theo nhà nghiên cứu lịch sử của Đại học Kỹ thuật Texas, chính những
quota mà các cán bộ xã huyện phải nằm lòng để thực hiện theo chỉ thị đã
dẫn đến biết bao người dân và gia đình họ bị vu oan để đáp ứng những
“chỉ tiêu” này.
Với chủ đề di cư, GS. Alex Thái cho biết cuộc triển lãm sẽ trưng bày
những văn bản của hai nhà nước: Dân chủ Việt Nam Cộng hoà, tức nhà nước
Cộng sản, và Việt Nam Cộng Hoà.
“Một số người Bắc ra đi năm 1975 hoặc đi vượt biên sau năm 1976 thì
họ cũng là những người đã di cư từ Bắc vào Nam (năm 1954) cho nên nó có
sự móc nối về lịch sử. Thứ hai, nó giúp định nghĩa chữ tự do trong lịch
sử Việt Nam như thế nào”, Giáo sư Hoàng Anh Tuấn, giảng dạy về Lịch sử
tại Đại học Pepperdine, Mỹ, một trong những diễn giả khách mời của hội
thảo, nói về nội dung mà ông tham gia trình bày.
Đến xem triển lãm, người xem có dịp để tìm hiểu và hình dung việc
chính phủ miền Nam tiếp nhận và quản trị gần một triệu người miền Bắc di
cư vào Nam như thế nào. Họ đã phải phân chia người dân ra sao, lập ra
các trại tiếp thu người, chi tiền như thế nào cho các gia đình, chia máy
may, dụng cụ làm nông… ra sao để các gia đình ổn định cuộc sống ở vùng
đất mới, thậm chí họ có thể dò tìm cả tên người thân nếu có trong danh
sách hàng ngàn cái tên của những người di cư năm1954 đã được chính
quyền Việt Nam Cộng Hoà phân bổ về các địa phương.
Theo Hoạ sĩ Châu Thuỵ, cuộc triển làm chính là cơ hội để mọi người
học hỏi để biết thêm “thế nào là chế độ Cộng sản”, mà ảnh hưởng của nó
có thể nhìn thấy đến tận ngày nay trong chính sách đất đai hay những vấn
đề tiêu cực về mặt xã hội.
Cho thế hệ trẻ và tương lai người Việt
Cuộc triển lãm và hội thảo có sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu về
Việt Nam, kèm theo chương trình chiếu phim, diễn kịch... được mở cửa
miễn phí cho công chúng.
Các nhà tổ chức cho biết cuộc triển lãm được thực hiện khi họ nhìn
thấy những góc khuất lịch sử và nhu cầu về việc trình bày lịch sử một
cách trung thực cho cộng đồng, đặc biệt cho thế hệ trẻ, nhưng người được
sinh ra sau khi chiến tranh Việt Nam đã kết thúc.
“Sau những buổi hội thảo và các cuộc triển lãm, có đến 80-90% các em
lớn lên ở đây không hề biết tại sao bố mẹ ra đi”, họa sĩ Châu Thuỵ chia
sẻ. “Cách đây mấy ngày, có một nhóm bạn trẻ tới đây và thú thật là bố mẹ
họ đi vượt biên nhưng hỏi thì không bao giờ nói. Có thể những người đi
vượt biên, đi tù cải tạo họ bị vấn đề về tâm lý nên không muốn kể lại
quá khứ đau thương của họ. Thành ra, Viện Bảo Tàng là câu trả lời cho
các em”. GS. Hoàng Anh Tuấn lưu ý thêm về vấn đề trình bày. Ông nói: “Người
Việt Nam khi gặp nhau bên Mỹ thường chú trọng nói tiếng Việt, nhưng hội
thảo này có tiếng Anh nữa, vừa tiếng Việt vừa tiếng Anh nên ngôn ngữ rất
thuận tiện cho các bạn trẻ. Ngoài ra, những bạn trẻ sinh ra và lớn lên
tại Việt Nam rồi qua đây du học, chính quyền đã không dạy họ về một số
vấn đề lịch sử như chống Cộng, Việt Nam Cộng Hoà… nên các em cũng nên
tham dự để hiểu thêm về lịch sử của mình”. Đối với hoạ sĩ Châu Thuỵ và Viện Bảo Tàng, việc tổ chức triển làm là
một cơ hội và cũng là trách nhiệm phải làm. Vì theo lời ông, “mình ở
nước tự do và mình có thể làm được những chuyện mà các bạn trẻ trong
nước không thể làm được, nên chúng ta làm cho họ”.
Vieo buổi Triển Lãm
Phim Di Cư 1954 Phim tài liệu di cư 1954 Video Video Video Video Video VideoVery little has been written about the U.S. Navy in Vietnam in the immediate post–Korean War era, nor has the magnitude of American participation in the resettlement of Vietnam refugees following the 1954 Geneva Conference been explored. Beginning in the fall of 1954, U.S. Navy ships, as a part of Task Force 90, helped to relocate thousands of displaced North Vietnamese to South Vietnam following the separation of the nation at the 17th parallel. What those sailors accomplished during the three hundred days of Operation Passage to Freedom forever changed the lives of more than 310,000 Vietnamese who traveled on their ships. In Operation Passage to Freedom Ronald B. Frankum, Jr. recounts the events surrounding this enormous humanitarian evacuation that was the American military’s first major involvement with the Vietnamese people. Based on archival research and interviews with more than forty sailors who participated in Task Force 90, Operation Passage to Freedom illuminates a mission that has been all but forgotten and also explores how the initial humanitarian involvement of the United States in Vietnam eventually led to massive military involvement in the 1960s and 1970s.
No comments:
Post a Comment