Tuesday, July 2, 2024

Thế Chiến Quốc, Thế Xuân Thu (Tiếp theo phần 3)

Tây Sơn hàng Trịnh; Thắng Chúa Nguyễn; diệt Chúa Trịnh:

Nguyễn Nhạc nhân khi chúa Nguyễn bỏ chạy vào Quảng Nam bèn mang quân hai đường thủy bộ ra đánh. Nguyễn Phúc Thuần vội bỏ Quảng Nam cùng người cháu là Nguyễn Phúc Ánh theo đường biển trốn vào Gia Định, chỉ để lại một mình Đông Cung Nguyễn Phúc Dương trấn thủ đất Quảng Nam.
Tháng 2 năm 1775, Trịnh Sâm từ Hà Trung trở về kinh, hạ lệnh cho quận Việp đánh Quảng Nam. Quân Tây Sơn cũng tiến ra, lùng bắt được Phúc Dương. Tháng 4, quân Trịnh vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, sai Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng Cơ đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn.
Nhân lúc Nguyễn Nhạc thua trận, tướng Nguyễn là Tống Phúc Hiệp từ Bình Khang đánh ra Phú Yên, quân Tây Sơn lại thua phải rút về Quy Nhơn. Tình thế của Nguyễn Nhạc rất nguy ngập, bèn sai người đến chỗ Hoàng Ngũ Phúc xin đầu hàng và làm tiên phong cho chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn. Quân Trịnh đi xa bấy giờ đã mệt mỏi, quân sĩ nhớ nhà, Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn mượn sức Tây Sơn diệt họ Nguyễn nên nhân danh chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc hàng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem sắc, ấn, cờ đến phong Nguyễn Nhạc làm “Tây Sơn trưởng hiệu tráng tiết tướng quân”.
Dù thế, quận Việp lão luyện vẫn không lui quân, đóng sát địa giới Quảng Ngãi, định chờ nếu Tây Sơn bại trận sẽ tiến vào chiếm Quảng Ngãi và Quy Nhơn. Nhân lúc Tây Sơn mang quân vào đánh Phú Yên, quận Việp liền lấn tới đóng quân ở Châu Ổ thuộc Quảng Ngãi.
Tháng 7 năm 1775, nghe tin Nguyễn Huệ thắng quân Nguyễn chiếm lại Phú Yên, quận Việp án binh lại. Theo yêu cầu của Nguyễn Nhạc, quận Việp phong chức cho Nguyễn Huệ làm “Tây Sơn hiệu tiền tướng quân”. Ít lâu sau, quân Trịnh bị bệnh dịch chết khá nhiều, quận Việp tuổi già sức yếu bèn bỏ Quảng Nam lui về Phú Xuân, sau đó giao lại thành này cho Bùi Thế Đạt, còn mình dẫn đại quân về Bắc. Tháng 10 năm đó, quận Việp bị bệnh chết trên đường về.

Lần đầu tiên sau 150 năm Nam chinh, họ Trịnh tiến tới Quảng Nam, mở cương thổ cho vua Lê thời trung hưng tới gần được như thời Lê Thánh Tông thời Lê sơ trước đây. Cũng lần đầu tiên họ Nguyễn mất toàn bộ đất căn bản Thuận - Quảng, bị dồn vào Nam Bộ, mảnh đất vừa đặt bộ máy hành chính của mình chưa đầy 100 năm.
Cuộc Nam tiến lần thứ 8 năm 1774 – 1775 của quân Trịnh cũng là trận chiến Trịnh - Nguyễn cuối cùng. Từ đây hai bên bị lảnh địa của Tây Sơn ngăn cách và không còn tái chiến. Sau 8 cuộc chiến vẫn không bên nào diệt được bên nào nhưng không lâu sau đó cả Trịnh và Nguyễn đều bại dưới tay Tây Sơn.

Ngô Thời Nhiệm:

Tên thật là Ngô Thì Nhậm ( ; 1746–1803) nhưng vì trùng với tên húy vua Tự Đức (Hồng Nhậm, Nguyễn Phúc Thì) nên phải đọc và viết thành Ngô Thời Nhiệm; là danh sĩ, nhà văn đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh. Ngô Thì Nhậm xuất thân gia đình vọng tộc chốn Bắc Hà, là con Ngô Thì Sĩ, người làng Tả Thanh Oai (huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây), ngày nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội. Tự là Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên.
Sự nghiệp: Ngô Thì Nhậm thông minh, học giỏi, sớm có những công trình về lịch sử. Ông thi đỗ giải nguyên năm 1768, rồi tiến sĩ tam giáp năm 1775. Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan ở bộ Hộ dưới triều Lê–Trịnh, được chúa Trịnh Sâm rất quý mến. Năm 1778 làm Đốc Đồng Kinh Bắc và Thái Nguyên. Khi đó cha ông làm Đốc Đồng Lạng Sơn. Cha con đồng triều, nổi tiếng văn chương trong thiên hạ. Sau Vụ án năm Canh Tý (1780), ông bị nghi ngờ là người tố giác Trịnh Khải nên phải bỏ trốn về quê vợ ở Thái Bình lánh nạn.
Vụ án năm Canh Tý: Vụ án xảy ra vào tháng 9 năm Canh Tý (1780). Nguyên nhân vụ án, theo Việt Nam sử lược là vì chúa Trịnh Sâm say đắm nàng Đặng Thị Huệ, bỏ con trưởng là Trịnh Khải mà lập Trịnh Cán (con của Đặng Thị Huệ) lên làm thế tử. Từ đó người thì theo Đặng Thị, người thì phò Trịnh Khải, trong phủ chúa chia ra bè đảng.
Tháng Chín năm Nhâm Dần (1782) Trịnh Sâm mất để di chiếu lập Trịnh Cán làm chúa và Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo (gọi tắt là Quận Huy) làm phụ chính. Trịnh Cán còn ít tuổi mà lại lắm bệnh, không mấy người chịu phục, bởi vậy cho nên thành sự biến loạn.
( Đọc tiếp phần 4 )


Thế Chiến Quốc, Thế Xuân Thu (Tiếp theo phần 4)

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục kể: Khi chúa Trịnh Sâm bị bệnh nặng, Trịnh Khải bèn bàn mưu với gia thần là Đàm Xuân Thụ, Thế Thọ, Thẩm Thọ và Vĩnh Vũ bí mật sắm sửa vũ khí, chiêu tập dũng sĩ, để chờ thời cơ giết chết Đặng Thị Huệ và Hoàng Đình Bảo. Trịnh Khải còn ngầm liên kết với Trấn thủ Sơn Tây là Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản, Trấn thủ Kinh Bắc là Tuân sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân để sẵn sàng hỗ trợ việc tranh ngôi Thái tử của mình.
Quan Đốc Đồng Kinh Bắc là Ngô Thì Nhậm từng giữ việc giảng sách cho Trịnh Khải, cũng rất được Khải thân yêu. Tên đầy tớ, cũng là học trò của Nhậm lúc này đang giữ sách cho Khải là Hà Như Sơn biết được cơ mưu trên, bèn nói với Nhậm.
Bấy giờ có viên Cấp sự trung là Nguyễn Huy Bá, vốn tính ưa giảo hoạt, từng vì tội tham ô mà bị bãi chức. Bá cho con dâu vào làm thị tì, hầu hạ Đặng Thị Huệ, lại còn sai người thân tín vào cầu cạnh để làm môn hạ của Nguyễn Khắc Tuân (là kẻ đối nghịch với phe Đặng Thị Huệ. Nhờ kẻ thân tín này, mà Bá dò biết được cơ mưu, liền tố cáo ngay với Đặng Thị Huệ. Ngô Thì Nhậm cũng phụ họa với Đặng Thị, bèn cùng với Bá hợp mưu tố cáo rằng Khải đã lén liên hệ với hai viên trấn thủ Sơn Tây & Kinh Bắc để làm chuyện phản nghịch.
Trịnh Sâm giân lắm, cho triệu Hoàng Đình Bảo vào phủ bàn việc này. Trịnh Sâm muốn trị tội ngay, song Hoàng Đình Bảo can rằng: "Sở dĩ Trịnh Khải dám làm chuyện ghê gớm này, chung quy cũng vì có hai viên trấn thủ Sơn Tây & Kinh Bắc chủ mưu. Nay, cả hai người này đang cầm quân ở ngoài, nếu vội vàng trị tội thì sợ là sẽ có biến cố khác. Vậy chi bằng hãy triệu hết hai viên trấn thủ ấy về triều rồi hãy trị tội cũng không muộn".
Nghe theo lời bàn của Hoàng Đình Bảo, chúa Trịnh Sâm bèn hạ lệnh triệu hồi Nguyễn Khản về kinh, rồi cho bí mật bắt hết bè đảng của viên trấn thủ này. Đồng thời, chúa cũng cho triệu Nguyễn Khắc Tuân về triều. Sau khi giam tất cả lại, chúa sai Ngô Thì Nhậm cùng viên hoạn quan là Phạm Huy Thức cùng lo việc tra khảo. Bất ngờ, cha Ngô Thì Nhậm là Ngô Thì Sĩ mất, nên ông phải về chịu tang, nên chúa dùng Lê Quý Đôn thay Ngô Thì Nhậm thụ lý vụ án.

Kết cục thì: Đàm Xuân Thụ, Thế Thọ, Thẩm Thọ và Vĩnh Vũ đều bị giết. Nguyễn Khản, Nguyễn Khắc Tuân đều bị giam vào ngục, còn Nguyễn Phương Đính bị kết tội nuôi dưỡng Trịnh Khải không nên người, bị lột hết chức tước và đuổi về làng. Sau, Nguyễn Khắc Tuân và Chu Xuân Hán đều uống thuốc độc mà chết. Riêng Trịnh Khải bị phế, và bị quản thúc, mọi sự đi lại đều có người giám sát.
Sau đó, mặc dù Trịnh Cán chỉ mới 4 tuổi vẫn được lập làm Thế tử, và Quận Huy được cử làm A phó để phò tá.
Chỉ 2 năm sau, Trịnh Sâm chết, phe Trịnh Tông lại trỗi dậy, xảy ra loạn kiêu binh giết quận Huy và lật đổ Trịnh Cán, sau đó còn làm hỗn loạn và khổ sở cho rất nhiều người trong suốt mấy năm liền, khiến Bắc Hà thêm suy yếu.
Đốc Đồng trấn Kinh Bắc Ngô Thì Nhậm có phải là người đồng tố giác việc mưu sự của phe Trịnh Khải hay không, vẫn còn là một nghi vấn.

Theo sách Hoàng Lê nhất thống chí thì chỉ có một mình Nguyễn Huy Bá đứng ra tố giác. Ngô Thì Nhậm đã có lời khuyên Nguyễn Khắc Tuân phải hỏa tốc về kinh can ngăn Trịnh Khải dừng lại cơ mưu, nhưng không được nghe. Đến khi ông Tuân bị bắt giam, ông Nhậm định tìm cách gỡ tội, nhưng vì việc tang nên phải về.
Năm Nhâm Dần (1782), quân ưu binh giết Hoàng Đình Bảo, phế Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa. Bị cho là người có liên quan đến vụ án Canh Tý, Ngô Thì Nhậm phải trốn về quê vợ ở Thái Bình lánh nạn năm năm, rồi theo giúp nhà Tây Sơn.

Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống lệnh "cầu hiền" tìm kiếm quan lại của triều cũ. Danh sĩ Bắc Hà đã đầu quân cho nhà Tây Sơn từ trước đó mới chỉ có Trần Văn Kỷ, Ngô Văn Sở và Đặng Tiến Đông. Tuy vậy, tới thời điểm này thì cả vua Lê lẫn chúa Trịnh đều đã đổ. Ngô Thì Nhậm và một số nhân sĩ Bắc Hà khác như Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch; các tiến sĩ Ninh Tốn, Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan; Ðoàn Nguyễn Tuấn(anh rể Nguyễn Du); Phạm Huy Lượng (tác giả "Tụng tây Hồ phú" )... lần lượt ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Sử cũ viết khi tuyển được Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Huệ mừng mà rằng: "Thật là trời để dành ông cho ta vậy", và phong cho ông chức Tả thị lang bộ Lại, sau lại thăng làm thượng thư bộ Lại-chức vụ cao cấp nhất trong Lục bộ.
Cuối năm Mậu Thân (1788) do vua Lê Chiêu Thống cầu viện, 29 vạn quân Thanh kéo sang Đại Việt, với chiêu bài diệt Tây Sơn dựng lại nhà Lê. Ngô Thì Nhậm đã có kế lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình) góp phần làm nên chiến thắng của nhà Tây Sơn.
Năm 1790, vua Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh Bộ thượng thư. Tuy làm ở bộ Binh, nhưng Thì Nhậm chính là người chủ trì về các chính sách và giao dịch ngoại giao với Trung Hoa. Ông là người đứng đầu một trong những sứ bộ ngoại giao sang Trung Hoa.
Sau khi Quang Trung mất, ông không còn được tin dùng, quay về nghiên cứu Phật học. Sau khi Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số viên quan triều Tây Sơn thì bị đánh bằng roi tại Văn Miếu năm 1803. Ngô Thì Nhậm sau trận đánh đòn, về nhà thì chết.
( Đọc tiếp phần 5 )


Thế Chiến Quốc, Thế Xuân Thu (Tiếp theo phần 5)

Đặng Trần Thường: Đặng Trần Thường (1759-1813) là công thần khai quốc nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người huyện Chương Đức (nay là huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Đặng Trần Thường đậu sinh đồ về cuối đời nhà Lê. Sau khi nhà Lê mất, ông không chịu ra làm quan với nhà Tây Sơn mà vào Gia Định, theo giúp Nguyễn Ánh lập nhiều công trạng làm đến chức Tán lý. Bình định xong, lĩnh chức Binh bộ Bắc thành, rồi được triệu về kinh làm Binh bộ Thượng thư. Sau vì có lỗi, phải bắt giam trong ngục, làm bài phú Hàn Vương Tôn phú; sau bị tội giảo.
Trả thù Ngô Thì Nhậm: Đặng Trần Thường có tài văn học, lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Ngô Thì Nhậm thét bảo Thường:
- Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác.
Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi mang khăn gói vào Nam, phụng sự Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long), làm đến Bình Lộ Thượng Thư.
Khi thay đổi triều đại, Đặng Trần Thường vì mối tư thù cá nhân trước đó với Ngô Thì Nhậm nên đã cho tẩm thuốc độc vào roi mà đánh Ngô Thì Nhậm. (Theo VN sử lược và Quốc Triều Chính Biên).

Câu ứng đối nổi tiếng:
Sau khi nhà Tây Sơn mất, các võ tướng và một số quan văn bị giải về Hà Nội để bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu, trong số đó có Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm. Chủ trì cuộc phạt đánh đòn đó là Đặng Trần Thường.
Vốn có thù riêng, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm:
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Đặng Trần Thường có ý trách cứ Ngô Thì Nhậm không tiến cử ông ra làm quan, giờ đây ông được thăng quan tiến chức đâu cần nhờ ai.

Ngô Thì Nhậm khẳng khái đáp:
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.

Câu đối thật chuẩn cả ý lẫn từ, tỏ rõ khí phách hiên ngang của Ngô Thì Nhậm, chê bai Đặng Trần Thường chẳng qua chỉ là kẻ tiểu nhân đắc chí lợi dụng thời nhiểu nhương mà có bổng lộc chứ danh giá gì.
Đặng Trần Thường bắt ông phải sửa lại câu nói "thế đành theo thế " Ngô Thì Nhậm im lặng không trả lời. Thường tức giận sai người dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông.
Sau trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị đánh bằng thuốc độc nên còn sống. Còn Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào tạng phủ, biết mình không qua khỏi, trước khi qua đời ông có làm bài thơ gửi cho Đặng Trần Thường như sau:
Ai tai Đặng Trần Thường
Chân như yến xử đường
Vị Ương cung cố sự
Diệc nhĩ thị thu trường.

Việt dịch:
Thương thay Đặng Trần Thường
Tổ yến nhà xử đường
Vị Ương cung chuyện cũ
Tránh sao kiếp tai ương?

Nghĩa là: Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền thế lắm, nhưng khác nào như chim yến làm tổ trong nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao tổ, rồi bị Cao tổ giết ở cung Vị Ương. Kết cục của ngươi rồi cũng thế đó.
Khi Ngô Thì Nhậm biết mình sắp qua đời, không biết có sinh lòng oán hận hay không khi ông viết bài thơ gửi Đặng Trần Thường, nói rằng rồi sau này ông ta sẽ như Hàn Tín mà thôi.
Nếu là sân hận thì bài thơ trở thành lời nguyền rủa. Còn không, thì đó là lời cảnh giác đối với Đặng Trần Thường, biết thời thế thì hãy lui vể ở ẩn như Trương Lương (quân sư của Hán cao tổ, còn không thì sẽ bị giết như Hàn Tín mà thôi)
Quả nhiên sau này bài thơ ứng nghiệm, Thường bị vua Gia Long xử tử. Khi ở đỉnh cao danh vọng mà Đặng Trần Thường đã bị sa cơ bởi những lời xúc xiểm. Giữa ông và Lê Chất có điều hiềm khích. (Lê Chất 1769 – 1826- là danh tướng của triều Tây Sơn, sau theo về triều Nguyễn) Sau Lê Chất tố cáo ông đã khai gian sắc thần, đem những người không xứng đáng như Hoàng Ngũ Phúc, tướng của chúa Trịnh vào hàng phúc thần. Triều đình khép ông vào tội khinh người dối thần, tuyên án xử trảm giam hậu. Rồi sau đó được tha. Lê Chất lại dâng biểu tố cáo ông đã nhũng lạm khi ra coi tàu binh ở Bắc Thành, có giấu thuế đầm ao và dinh điền. Vì vậy Thường lại bị bắt giam. Trong ngục, Đặng Trần Thường tỏ ý mỉa mai, nên đến tai đình thần, do đó khi kết án, đình thần nghị án xử giảo (thắt cổ) năm 1816.
Tương truyền Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài Hàn Vương Tôn Phú bằng quốc âm ( gồm có 24 liên có thể chia thành 5 đoạn: 1- Lúc hàn vi 2- Lúc làm Tướng. 3- Công đánh dẹp. 4- Lòng trung thành. 5- Đoạn Kết) để ví mình như Hàn Tín đời nhà Hán (Có lẽ Đăng Trần Thường nhớ đến bài thơ của Ngô Thời Nhiệm trao cho mình trước khi chết chăng ?).

No comments:

Post a Comment