Trong Quân Ðội có rất nhiều ngành nghề, đó là một sự phân công, mỗi người một việc để cùng nhau chống Cộng một cách hữu hiệu. Riêng tôi được phân công lái trực thăng, tôi rất thích nghề của tôi, nhiều người chê UH1 bay chậm và thấp nên dễ ăn đạn của VC. Tôi lại thích bay chậm và thấp vì đó là điều kiện tốt nhất để thấy rõ hơn vẻ đẹp của quê hương.
Mỗi địa phương có một nét độc đáo riêng, tôi ở vùng 2, những ngày trời tốt tôi chẳng cần bản đồ cũng bay đến ngay chóc chỗ mình muốn đến. Quê hương ta rừng vàng, biển bạc đất phì nhiêu chỗ nào cũng đẹp cả. Nhất là sáng sớm từ Nha Trang bay theo bờ biển về hướng bắc: bên tay trái là những thôn xóm chen lẫn với đồng ruộng xanh tươi. Bên phải thì biển rộng đến hết tầm mắt, rải rác những chiếc thuyền đánh cá nhỏ, xa hơn là các tàu buôn vào nam ra bắc. Mặt trời từ từ lên ở đường chân trời như một cái đĩa khổng lồ màu đỏ tươi, chiếu ánh nắng hồng xuống mặt biển lăn tăn sóng. Khung cảnh hùng vĩ đẹp ơi là đẹp...
Tuy nhiên lái trực thăng không phải lúc nào cũng ngắm trời trăng mây nước như thế. Có lúc tải thương tiếp tế, có lúc đổ rước toán vào cứ điểm của VC làm bia cho tụi nó bắn, có lúc chở xác tử sĩ đã thối rửa hơn nửa tháng rồi. Phi vụ nào cũng có niềm vui riêng. Phi vụ nầy tiếp theo phi vụ kia cho đến ngày 1/4/75 thì tôi nhận phi vụ cuối cùng, xin kể lại để các bạn nghe chơi
Ngày 1/4/75 tôi lái chiếc gunship số 1 dẫn theo chiếc gunship số 2 và 3 chiếc slick. Chúng tôi làm việc cho Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù đóng ở Dục Mỹ. Trên phi vụ lệnh ghi 7h30 cất cánh. Khoảng 6h15 tôi tà tà vô tới phi đoàn, tưởng là sớm lắm rồi. Nào dè vừa đút đầu vô phòng hành quân, thấy ông trưởng phòng, tôi chưa kịp đưa tay chào thì ổng hối như lửa đốt đít:
- Chú đưa họp đoàn cất cánh lẹ lên. Phi Vân (Phòng Hành Quân Chiến Cuộc của Không Ðoàn) ra lệnh cho chú phải cất cánh lúc 6h30.
Tôi không lạ gì cái lệnh kiểu này. Lúc này Cộng quân đánh dữ quá. Quân ta thất thủ liên tiếp. Từ Quảng Ngãi trở ra Cộng Sản nuốt rồi. Ban Mê Thuộc vừa mất kéo theo gần 1/5 Phi Ðoàn của tôi vừa chết vừa bị thương. Trong tình hình như thế, chuyện cất cánh sớm hơn một giờ đâu có gì là lạ.
Sau khi cả 5 chiếc lấy xăng đầy đủ, sắp hàng dọc trên phi đạo 90, sẵn sàng cất cánh, tôi gọi cho Phi Vân báo cáo cất cánh lúc 6h40 đủ 2 gunship và 3 slick.
Vừa đáp xuống Phi trường Dục Mỹ, tôi thấy ngay có chuyện khác thường: Mới hơn 7 giờ sáng mà lính tráng nhộn nhịp thế nầy! Vào đến phòng họp dã chiến của Lữ Ðoàn 3 Dù tôi thấy không khí thật nghiêm trọng. Ðầy đủ cả Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn. Ngay sau đó một Thiếu tá Dù lên cho biết: Ðêm qua Cộng quân đã tràn ngập Tiểu Ðoàn 2 Dù. Toàn Tiểu Ðoàn 2 đã phải phân tán làm thành từng toán nhỏ tản lạc trong rừng. Ông yêu cầu họp đoàn trực thăng tìm mọi cách đưa các toán chạy lạc trong rừng về sân bay Dục Mỹ. Tôi nhận lệnh, lấy các tần số liên lạc rồi trở ra tàu. Tôi thấy rõ tình hình bi đát quá...
Sau khi Ban Mê Thuộc thất thủ, Lữ Ðoàn 3 Dù được điều động về trấn đóng ở đèo Phượng Hoàng. Tiểu đoàn 2 đóng ở đầu đèo hướng Ninh Hòa, tiếp theo Tiểu đoàn 5 và 6 rải quân dài về hướng Khánh Dương. Cả Lữ Ðoàn đóng quân dọc theo con đường dài hơn 14 cây số. Dù không phải là sĩ quan chỉ huy bộ binh tôi cũng hiểu đóng quân kiểu nầy rất bất lợi, cộng quân đánh khúc sau thì khúc trước bị bao vây cô lập ngay.
Nhảy Dù không hổ danh là các chiến sĩ thiện chiến nhất của QLVNCH. Ðóng quân xong chưa được mấy ngày thì Lữ Ðoàn 3 Dù lập được một chiến công rất oanh liệt. Sau khi nuốt gọn Ban Mê Thuột và quận Khánh Dương, Cộng quân thừa thắng xông lên, đưa một đoàn xe hơn 40 chiếc có cả xe tăng nối đuôi nhau đi vào đèo Phượng Hoàng để xuống miền duyên hải Ninh Hòa. Các chiến sĩ Dù bình tĩnh để đoàn xe địch lọt hẳn vào tầm hoả lực cuả quân ta rồi mới khai hoả. Kết quả là nguyên đoàn xe của Cộng quân nằm tại chỗ, chỉ có một số rất ít VC lủi vào rừng trốn thoát. Bị cú đánh dập đầu, sứt trán nầy Cộng quân khựng lại mấy ngày. Sau đó thấy được yếu điểm quân ta nên điều quân bọc hậu, bất ngờ tràn ngập Tiểu đoàn 2 Dù đêm 30/3 rạng sáng 1/4/75. Vậy là Tiểu đoàn 5 và 6 Dù bị VC bao vây trước sau và hai bên là núi dốc dựng đứng.
Tôi rất khâm phục tinh thần kỷ luật của các chiến sĩ Dù. Thất tán trong rừng nhưng tất cả các toán đều có kỷ luật nên chúng tôi gặp toán nào là nhanh chóng bốc ra ngay. Tôi đang bay gunship, tàu rất nặng, khi gặp các toán nhỏ 5 người trở lại, tôi cũng đáp xuống để đưa họ về sân bay Dục Mỹ. Ðến hơn 9 giờ sáng thì nhận lệnh của Lữ Ðoàn: Chỉ để lại 2 chiếc slick tiếp tục tìm các toán lạc trong rừng, còn 2 gunship và 1 slick thì chuyển Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn về đèo Ruột Tượng phía bắc Nha Trang. Biết là sai nguyên tắc nhưng trong tình thế cấp bách tôi cũng dùng gunship tải người, được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Ðến hơn 11 giờ sáng tôi được lệnh của Phi Vân bảo dùng 2 gunship và một slick ra Tuy Hoà rước Tướng Cẩm. Phi Vân đọc tần số liên lạc với Tuy Hòa ngay trên UHF. Tôi rủa thầm mấy cha ở Phi Vân, hôm nay sao các cha không có ý thức phòng gian bảo mật gì ráo. Chuyện bí mật mà đọc luôn bạch văn trên tần số quen thuộc như là vào quán gọi phở. Nhận lệnh là thi hành ngay. Trên đường bay ra Tuy Hoà tôi chửi thầm Phi Vân : Trong tình thế dầu sôi lửa bỏng đến nơi như thế nầy đi rước một ông tướng mà điều tới 2 gunship và 1 slick. Nhưng vừa qua khỏi đèo Cả tôi thấy ngay Phi Vân có lý hơn tôi. Từ xa tôi thấy thị xã Tuy Hoà chìm trong khói lửa, hàng ngàn dân lẫn lính bồng bế, dắt díu nhau đi đến bờ biển. Tôi dò tất cả các tần số liên lạc nhưng chẳng có ai trả lời tôi. Gần đến sân bay Tuy Hoà tôi thấy thị xã như một thành phố chết. Có lẽ tất cả dân đã đổ ra bờ biển cả rồi. Rất nhiều đám cháy đang bùng lên khắp thị xã. Tôi biết ngay Tuy Hoà đã lọt vào tay VC rồi. Thật là đáng tiếc, đáng thương cho một thành phố thân yêu. Một thành phố không quá lớn như Ðà Nẵng, không đẹp đẽ như Nha Trang, không ăn chơi bất cần đời như Pleiku. Một thành phố nhỏ mang dáng dấp nửa chợ nửa quê , thành phố đáng yêu, trong đó tôi yêu nhất hai nơi:
Một là quán cà phê Diễm, quán cà phê nhỏ có cô chủ quán với đôi chân mài đẹp nhất thế gian. Ðôi chân mày không đậm lắm không nhạt lắm, không cao lắm không thấp lắm, không cần cắt gọt tỉa trim gì vẫn là đôi chân mài đẹp nhất. Tôi không phải là văn sĩ nên không tả hết nét đẹp của đôi chân mài này. Tôi không phải là hoạ sĩ vẽ lại cho các bạn chiêm ngưỡng. Nhưng tôi có thể nói chắc đây là đôi chân mài quá đẹp. Tôi không mê làn da cô trắng, eo cô thon, vú cô to, mông cô tròn, tôi chỉ mê đôi chân mài đẹp không thể tả. Thôi từ nay vĩnh biệt cô rồi. Tiếc thay!.
Hai là quán thịt chó ở cuối phố. Quán thịt cầy thì đâu cũng có, nhưng không đâu có món thịt luộc ngon như ở đây. Ðúng hơn là thịt hấp chớ không phải luộc. Thịt được ướp gia vị trước, kỹ thuật ướp thật độc đáo, vừa ăn lắm. (Vì là độc đáo nên tôi không biết họ làm sao để phổ biến cho các bạn làm thử). Sau khi ướp xong cục thịt được bó lại bằng dây như đòn bánh tét, xỏ dọc một cây theo chiều dài cục thịt rồi gác lên chảo dầu phọng đang sôi. Cục thịt chín là nhờ hơi nóng từ chảo dầu xông lên. Xắc một lát thịt, đừng dầy quá làm bạn ngán, đừng mỏng quá không đã, chấm vào chén mắm tôm thật cay. Vừa nuốt xong miếng thịt phải chiêu ngay nửa cái xây chừng rượu đế. Trời ơi, đã ơi là đã! Cái nồng của đế, cay của ớt, ngọt thơm béo và hơi dòn của thịt cầy, tất cả hòa tan trong nỗi sướng cực kỳ. Không sướng nhất thì cũng nhì chớ không thể là hạng ba được.
Các bạn chớ trách sao phi vụ rước tướng không lo mà chỉ nhớ gái với thịt cầy. Thật ra nhưng ý nghĩ lòng thòng ở trên chỉ thoáng qua trong vài giây mà thôi. Tại tôi không phải là văn sĩ nên viết dài mà ý chẳng bao nhiêu. Làm sao bì được với Cậu Ba Nguyễn Lập Ðông chỉ cần một câu :"Bạn về như ánh kiếm Kinh Kha" : có 7 chữ mà gồm cả ý nghĩa cổ kim, làm ta hình dung ngay được người anh hùng với chuyến đi hiểm nguy vạn dậm.
Nghỉ gì thì nghỉ, tay tôi vẫn còn trên cần lái, mắt quan sát khắp thàng phố, tai nghe ngóng tiếng súng AK. Thằng copil tiếp tục gọi hết tần số này đến tần số khác. Vòng vòng mãi phát chán mà chẳng liên lạc được với ai, lấy ai mà rước đây ! Phải chi VC bắn lên thì tôi có chỗ xả đạn và rocket xuống cho nhẹ bớt tàu. Ðàng nầy nó im re, không có bóng dáng, tăm hơi gì Cộng sản cả thì lấy gì làm đích để bắn.
Bỗng tôi nghe tiếng thằng gun 2 eo eó trong earphone :
- 1 đây 2 gọi.
- Gì đó mậy?
- 2 còn 300lbs xăng .
Tôi liếc mắt thấy tàu tôi cũng còn cỡ đó . Ðủ để về Nha Trang . Tôi gọi :
- Phi Vân đây Long Mã.
- Phi Vân nghe
- Tôi rà đủ các tần số bạn cho và các số nhà quen thuộc khi tôi làm việc tại đây mà không liên lạc được với ai cả. Thành phố và tiểu khu đang cháy. Xăng tôi còn 300lbs.
- OK, Long Mã về Nha Trang đổ xăng chờ lệnh.
- Ðổ xăng xong cho tàu phải đổ đầy cơm cho tôi mới chờ lệnh được.
- Nghe năm.
Tôi quay trở lại Nha Trang mà trong lòng thấy mất mát nhiều quá. Tôi như con cá nằm trên thớt, lưỡi dao Cộng Sản sắp bập xuống rồi mà tôi không xoay sở được gì cả . ÐM mấy thằng VC có bao nhiêu món ngon vật lạ nó đều dành cả rồi. Ðầu tiên là Ban Mê Thuộc nơi đất lành chim đậu, có cà phê ngon nhất nước, thịt rừng đủ loại lúc nào cũng có với giá rẻ rề. Tiếp đến là Kontum, nơi có giàn bầu nổi tiếng lúc nào cũng có trái non thơm phức chớ không có trái sồn sồn bao giờ.... Pleiku với nguyên một dãy phố cà phê đèn mờ, nhạc xập xình suốt đêm, mặt trời lên thì đi ngủ. Rồi đến Huế có sông Hương với một bầy đò nhỏ lắc lư chèo tới chèo lui suốt ngày lẫn đêm. Quán cơm ở Ðập Ðá có món tôm chua ăn với rau và thịt luộc tụi nó cũng dành mất rồi. Ðà nẳng có món tré không nơi nào bắt chước được 100% và một dãy bê thui ở chợ Cồn, VC gặm mất cuối tháng ba. Hôm nay tụi nó xơi tái đôi chân mài của cô bán cà phê, thiếm xực luôn quán thịt cầy ngon số một. Tiếc quá.
Ðến Nha Trang tôi gọi đài xin đáp, đổ đầy xăng và đem tàu về ụ đậu, quay đầu về hướng biển tức runway ở sau đuôi. Tôi tắt máy và phân vân không biết phải chọn một đĩa bò kho bánh mì ở câu lạc bộ 215 hay là tô hủ tiếu ở quán Thùy Dương. Tôi không thể ra cổng ăn cơm được vì mấy ngày nay dân và đủ mọi sắc lính tập trung ngoài cổng sân bay nhiều quá, quân cảnh kiểm soát rất gắt, ra vô khó khăn lắm. Tôi đang cân nhắc lợi hại giữa đĩa bò kho và tô hủ tiếu thì bỗng nghe tiếng súng nổ vang. Tôi giật mình nhảy xuống khỏi tàu. Thằng cơ phi chụp cây M16 cùng tôi chạy đến cuối ụ để nhìn về hướng Không Ðoàn. Hàng trăm người , áo màu của dân lẫn áo xanh, áo rằn ri của lính đang chạy uà về dãy trực thăng mà tôi đang đậu. Thằng cơ phi hạ khẩu M16 xuống định bắn. Tôi đỡ nòng súng lên và la : Mày bắn chết dân làm sao, lại tàu mau lên. Tôi phóng lên ghế lái và quay máy, chưa tới một phút là tôi đã đủ RPM để cất cánh. Quay lại phía sau tôi thấy trên tàu đầy nhóc lính phe ta có đến mười mấy tên. Nặng quá! làm sao lên nổi! Tôi bấm nút release hai bó rocket rớt cạch cạch xuống đường. Nhìn ra ngoài tôi thấy hai thằng lính có lẽ là lính phi đạo, đang cầm hai cây M16 chắc là tụi nó thấy tàu gun mà chở đông quá nên không dám lên. Tôi bấm máy gọi thằng cơ phi : Mày nắm đầu hai thằng đó kéo lên tàu, không thì mình lên nó sẽ bắn đó!. Thằng cơ phi lại nắm cổ hai ông con kéo lên tàu. Tôi kéo collective lên, tàu nặng quá tuột tua, tôi phải nhồi mấy cái nó mới lên được khỏi ụ. Vừa trống tầm mắt tôi thấy một chiếc UH-1(hướng 4 giờ của tôi ) nhào đầu vô ụ gãy làm đôi. Xa hơn một chút, gần runway, một chiếc UH khác lăn tròn trên mặt đường như con cá lóc bị đập đầu bốc khói bụi mịt mù. Tôi đẩy tàu tới bay ngang qua ụ đậu về hướng biển. Ðược khoảng 70 mét thì trước mặt tôi một đường 3 giây điện cao thế chắn ngang cao quá . Tôi không còn kịp suy nghĩ gì cả, bởi vì nếu suy nghĩ chần chờ thì chiếc tàu nhào vô đường giây điện rớt cháy chết hết cả tàu rồi. Phản xạ tự nhiên, chắc là các bài học ở trường bay đã nhập tâm bây giờ tự động phát ra. Tôi đạp mạnh pedal phải. Tàu mất đi lực cản của cánh đuôi nên quay đầu về phải song song với đường giây điện, đồng thời cánh quạt chính có thêm được sức nâng bốc lên được một chút vừa đủ lướt ngang qua đường giây điện như một lực sĩ nhảy cao. Chờ cho có khoảng cách clear cái đuôi tôi đạp mạnh pedal trái, tàu quay đầu trở lại, chìm xuống một chút rồi tà tà bay tới. Thế là nguyên một hàng dương từ đó ra tới biển bị cánh quạt của tôi chém bay hết ngọn. Ra tới gần bờ biển, lại thêm một đường giây điện cao thế khác. Lúc nầy tàu tôi được 60 knots rồi. Tôi không dám kéo thêm collective, tàu nặng quá kéo nữa sẽ bị tuột tua. Tôi bình tĩnh gò nhẹ cyclic về phía sau : giảm tốc độ để lấy cao dộ đó mà. Thế là tôi qua khỏi đường giây điện ngon hơ. (Tôi kể đoạn này chắc chỉ có mấy thầy trực thăng như Phong bụng, Hưng vệ sinh, Thụy mụn, Danh sữa, Luật cọp. Tòng vịt bông v.v.. hiểu ra ngay là tôi muốn nói cái gì . Còn quí ông anh khác chắc là rủa rằng : thằng này xạo ke ..).
Vừa qua khỏi đường giây điện tôi cắm đầu tàu xuống để lấy nhanh tốc độ, đồng thời quẹo qua phải dọc theo bờ biển. Trước mặt tôi khoảng 300 mét là hai chiếc Chinook. Tôi thấy từ hai chiếc Chinook thỉnh thoảng có một chấm đen đen rớt xuống biển. Tôi rủa thầm 2 thằng Chinook quăng đồ gì kỳ quá. Quan sát kỹ tôi thấy không phải đồ mà là người ta, vừa rớt tay chân vừa quơ loạn lên trong không khí . Chinook bay càng nhanh người ta rớt xuống càng nhiều . Bổng tôi nghe trong earphone tiếng khóc than : Trời ơi, con vợ tôi kẹt lại Nha Trang rồi, Ông cho tôi xuống đi. Tôi biết ngay là thằng cơ phi, nãy giờ qua mấy cú thoát chết trong đường tơ kẽ tóc nó điếng quá nên khóc không nổi. Bây giờ cơn nguy đã qua, nó nhớ vợ bỏ tiếc quá nên bật ra tiếng khóc than. Tôi bấm máy : ÐM mày có im không. Vợ mày mai mốt mày về, mất màu đi đâu mà sợ. Coi người ta rớt chết như sung kia kià. Nãy giờ bị đám khách lấn ra sau nên nó không thấy gì phía trước. Nghe tôi nói nó ngoái cổ nhìn, thấy kinh khủng quá nên im luôn. Hai chiếc Chinook bay càng lúc càng nhanh, bao nhiêu người bám chung quanh chịu không nổi sức gió đẩy nên đều rớt hết xuống biển. Tụi nó vẫn bình thản lấy cao độ bay thẳng về phiá nam mất dạng. Trong đời sao có những thằng tàn nhẫn như vậy!. Trong lúc cấp bách người ta đeo theo tàu, ra khỏi sân bay tức là hết nguy hiểm rồi, tại sao không đáp xuống bãi biển hay bãi đất trống nào đó cho người ta xuống hoặc vô bên trong. Nỡ lòng nào bay luôn cho bao nhiêu sinh mang con người làm mồi cho cá. Hai chiếc Chinook nầy chắc chắn không có ông anh Dương Thành của tôi vì anh hiền lành đức độ dễ gì chuyện ác vậy mà anh làm (kỳ tới gặp lại nhớ cho tụi nầy chai rượu nghe cha, mới nâng bi ông một phát đó, đã không ?).
Tôi bỏ hai chiếc Chinook, vòng qua phía tây của sân bay Nha Trang . Tôi nhìn xuống sân bay thì thấy một cảnh rất là hỗn loạn. Vừa dân vừa lính chạy loạn cào cào như một lũ điên. Giống như ta cầm cây quơ trong ổ kiến, tụi nó chạy lung tung không phương hướng gì cả. Trứơc trạm Hàng Không Quân Sư một chiếc C130 đậu mà người ta bu quanh đến cả ngàn người. Chiếc C130 này dù có nhúc nhích cũng khó, nói gì đến cất cánh. Tôi gọi Phi Vân khản cả cổ mà chẳng ai lên tiếng . Tôi chửi luôn cũng không ai trả lời , trả vốn gì cả. Bỗng tôi nghe tiếng ông Thiếu tá Phi đoàn phó trong tần số nội bộ UHF :
- Hoành, mầy nghe tao không ?
- Tôi đang nghe đây, Thiếu tá.
- Hợp đoàn mầy đâu rồi ?
- Hợp đoàn gì nữa! Hai thằng slick còn làm ngoài Dục Mỹ. Hai gun và một slick về đây lấy xăng , gặp loạn tôi bay lên chút nữa chết rồi đó ông ơi. Thằng gun 2 và slick lên chưa tôi không nghe được tụi nó.
Thằng gun 2 lên tiếng : Tụi tôi đang đổ xăng thì súng nổ, tôi bốc lên liền vậy mà 5 thằng nhảy lên hồi nào không hay.
Ông Phi đoàn phó : Hoành mầy dẫn tụi nó về Phan Rang, tao ở lại cố liên lạc với Không Ðoàn rồi xuống đó sau.
Tôi gọi gun 2 hẹn gặp nhau trên quán số 1 để cùng nhau xuống Phan Rang.
Tôi bay về đầu tây bắc của Phi trường. Nhìn xuống khu Trung Tâm Huấn Luyện thấy vắng lắm không có vẻ gì đánh đấm cả. Kià là mấy dãy nhà cây hai tầng mà lúc còn khoá sinh 69A tôi đã ở. Kià là hàng dương lúc tôi còn huấn nhục mới cao ngang ngực mà bây giờ cao tới nóc nhà rồi. Kìa là phạn xá lợp tôn, nơi tôi muốn vô phải chào kính, xưng tên rồi đi cơ bản thao diển đến chỗ ngồi. Suất ăn chủ yếu là cơm, thịt cá chỉ là hoa hoè trang trí thôi, đôi khi ăn cơm với nước trà vậy mà ai cũng mập mạnh lắm. Hôm nay khu ở của khoá sinh vắng vẻ quá , bình thường phải có người đi tới đi lui còn bây giờ chẳng có ma nào cả.
Qua khỏi TTHLKQ là khu nhà lụp xụp rồi tới phố . Kià Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Khánh Hoà còn nguyên. Trên cột cờ vẫn còn phất phới lá cờ vàng ba sọc đỏ. Tôi không thể lầm Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Khánh Hoà được vì ngay bên cạnh là quán gỏi lòng bò quen thuộc có hũ rượu thuốc uống không bao giờ cạn.
Phố Nha Trang người ta đi lai nhộn nhip , hoàn toàn không thấy dấu hiệu gì VC đang tấn công cả.
Ðến trên quán số 1 thì tôi thấy gun 2 và slick xa xa ngoài biển . Tôi bấm máy nói với copil: Hai thằng đó bay chắc cú quá, ngoài biển đâu có VC bắn tụi nó. Tôi gọi hai ông con bay vô rồi cùng nhau lấy hướng nam về Phan Rang. Ngang qua sân bay Nha Trang tôi chợt nhớ tài sản tôi còn để nguyên trong tủ sắt ở Phi Ðoàn, luôn cả chiếc Honda làm chân để ở nhà xe nữa. Thế là tôi mất tất cả. Lâu nay tôi đã nghèo, bây giờ càng mạt rệp, sạch sành sanh cả rồi. Vừa buồn vì mất của, vừa mệt, đói và khát, tôi giao tay lái cho copil rồi ngã lưng vào ghế lái, tôi thấy rã rời chán nản tột cùng. Tôi xuống tới Phan Rang thì cả chục ông anh lanh tay lẹ chân hơn tôi đã ở đó lúc nào không rỏ.
Ðài kiểm soát Phan Rang rất ác, nhất định không cho tụi tôi đáp ở phía tây phi đạo, tức là khu có quán ăn uống, bắt chúng tôi phải đậu ở phía đông toàn là sân xi măng, cỏ và kẽm gai , chẳng có gì lót dạ cả. Ðường qua phía tây xa quá, có đi bộ chắc là xỉu dọc đường. Chẳng biết liên lạc với ai để xin tiếp tế. Tội nghiệp cho thằng tôi đã làm hàng ngàn chuyến tiếp tế mà bây giờ xin một bịch gạo sấy, môt gói mì, một ca nước cũng không có.
Tôi đi vòng vòng cả chục chiếc tàu mà không ai có gì xin đỡ cho qua cơn đói khát. Tôi quay trở lại tàu. Ðám khách không mời ngồi lì trên tàu không thèm xuống, chắc họ sợ rời tàu, tôi quay máy bay đi họ leo lên không kịp. Giữa đám Không Quân có một anh Thiếu uý Bộ Binh. Tôi hỏi anh ta: Anh ở đơn vị nào mà ở đây? Một Trung sĩ già Không Quân trả lời thay: Dạ em tôi đó Ðại uý xin ông cho nó quá giang.
- Quá giang gì mà quá giang , anh biết tôi đi đâu không mà quá giang?
Cả đám nhao nhao: Ðại uý đi đâu tụi em theo đó!
Tôi nhận ra đám nầy đã tiên đoán tình hình từ trước. Có chuẩn bị cả rồi nên vừa có động là phóng lên chiếc tàu nào gần nhất. Tôi thấy mình ngu quá. Ngày này qua ngày khác bị thằng Phi Vân quay như chong chóng, hết lên rồi xuống, hết xuống lại lên không tiên liệu điều gì hết nên đến lúc động thì mất sạch.
Ông Phi đoàn phó đáp, tiếp theo là hai thằng đi cho Lữ đoàn 3 Dù. Ông Phi đoàn phó nói: Tao liên lạc được với Ðại tá Không Ðoàn Trưởng rồi, chút nửa ổng sẽ qua đây.
Tôi hỏi: Thiếu tá có xin được chút gì cho anh em ăn đỡ không ? Hay là mượn một chiếc xe tụi tôi đi ăn cũng được.
- Tụi mầy chờ đó, chút nữa ổng qua rồi tính.
Cả tiếng sau ông Ðại tá tới. Tội nghiệp nước da ổng ngâm đen bây giờ đen thui rồi chớ ngâm gì nữa. Giữa trời nắng gắt mà ổng không có cái nón để che cái trán hói.
Xe jeep vừa đậu thì cả đám bu lại. Ổng bảo :
- Tôi đã liên lạc về Nha Trang rồi , bây giờ sân bay lập lại trật tự được rời. Một số đông anh em KQ thuộc Sư Ðoàn và TTHLKQ đang tập trung tại sân cờ của Không đoàn.
Tất cả anh em phải bay về NhaTrang rước đồng đội của chúng ta về đây. Tàu gun thì bỏ đạn và rocket cho nhẹ mà chở người , tần số liên lạc là đài kiểm soát Phan Rang, tôi sẽ ở đó.
Nói xong ông rồ máy chạy thẳng , không kịp cho đám lính đói xin ăn.
Ông Phi đòan phó ngoắc tôi lại ra lịnh:
- Tụi mình sẽ đáp một hàng dọc cùng một lúc , đáp từng chiếc tụi nó ùa lên sẽ không cất cánh nổi . Ðáp xa đám đông để có thì giờ xoay sở . Không được bắn . Nếu có súng bắn trúng bất cứ chiếc nào trong hợp đoàn thì quay trở lại Phan Rang không đi nữa . Thằng T mày đi chót lãnh nhiệm vụ rescue , chở 4,5 người thôi để chiếc nào gặp nạn thì mày xuống cứu . Xong, tất cả về tàu chuẩn bị đi.
Năn nỉ mãi đám khách của tôi mới chịu rời tàu và phụ đẩy mấy thùng đạn xuống đất. Thằng xạ thủ của tôi để lại mỗi cây minigun một dây đạn chừng sải tay. Tôi bảo nó: súng nầy mà mầy để bao nhiêu đạn nó chỉ ho một cái là hết. Mày bỏ đi, để nó tòng teng gió đánh văng trúng cánh đuôi thì tụi mình đi đái hết. Tàu của mình không có cửa nên tụi nó dễ ùa lên lắm.Mày nhắm chừng khoảng 12,13 người lên tàu rồi thì đừng cho lên nữa. Bất cứ tình huống nào mầy cũng ngồi trên tàu, mày xuống đất tao hốt lên bất tử, mày kẹt lại tao sẽ bỏ luôn đó. Nhớ nghe.
Thế là cả hợp đoàn mười mấy chiếc trở về Nha Trang để đón lính di tản. Công việc tương đối êm. Xong líp thứ ba thì tôi đói và khát quá, từ sáng tới giờ khoảng 5 giờ chiều mà trong bụng tôi có gì đâu. Tôi thấy Trung uý C. tàu của nó cột cánh lại chẳng đi rước ai cả nó đang ngồi nhìn trời hiu quạnh. Tôi bay rề lại, nó bắt buộc phải chú ý tới tôi vì bị gió và cát thổi tung vào mặt.
Tôi ngoắc nó lại hỏi : Ê, tàu của mầy sao vậy?
- Engine chip detector cháy.
- Tao mệt quá rồi, mày lên tàu nầy bay dùm tao, chắc một líp ni74a là xong. Làm ơn đi mày.
Nó không biết tôi nói dóc nên nhận lời . Nó vừa nhận lời là tôi lẹ làng tuột xuống khỏi ghế, sợ nó đổi ý. Tôi không biết nó làm mấy líp chỉ nhớ khi nó trả tàu cho tôi thì trời vừa tối.
Một chiếc xe jeep từ hướng tây chạy qua. Tôi rủa thầm: ÐM chuyến nầy mà không có đồ ăn, nước uống tao sẽ cướp xe. May quá, trên xe jeep có hàng trăm gói mì và gạo sấy. Một cái nồi nhôm to tuớng đựng nước uống, chắc là mới mượn của nhà bếp nào đây nên váng mỡ nổi đầy trên mặt nước. Kệ mẹ, có nước là quí rồi. Tôi chộp ngay hai gói mì, bỏ vào túi một gói, xé ngay một gói nhai rao ráo, chẳng cần đun nấu gì cả. Tôi nhớ có một quới nhơn nào đó đưa cho tôi một cái ca nhà binh. Tôi chen vào múc ngay một ca nước đầy uống một hơi hết ca, chơi thêm một ca nữa sơ cua rồi tà tà đi về tàu. Tôi xé luôn gói mì thứ hai tính làm luôn cho tiện việc sổ sách. Tôi mới nhai được nửa gói mì thì ơ kìa sao cái bụng nó râm râm đau. Tôi nghi là tại nước dơ? hay là tại gói mì khô mới vô gặp ca nước nên nở ra lẹ quá làm ngộp mấy con lãi. Tôi cất kỹ nửa gói mì còn lại, tìm chổ ngã lưng cái đã... Ðám khách của tôi vẫn kiên trì bám trụ đầy nhóc trên tàu. Tôi đành phải nằm trên nên xi măng, gác đầu trên càng tàu. Trên trời đã có mấy vì sao lấp lánh. Tôi không quen nằm trên nền xi măng nên lưng đau quá. Nhất là cái đầu gác trên càng UH không có tư thế nào êm cả. Tôi rút cái calô để gối đầu, cấn cái lon đại úy quá. Tôi nổi cáu gỡ 3 cái bông mai ném vào bụi cỏ gần đó. Thằng copil chọc quê:
- Ba cái bông mai mà chê sao quăng đi vậy ông.
- Ðại tá cũng chết cú nầy, đại úy nhằm nhò gì mậy. Ê mày còn thuốc không cho tao xin một điếu coi.
Nó rút ra một gói con mèo không đầu lọc, còn đúng hai điếu, nó chia cho tôi một điếu. Rít một hơi thuốc dài, tôi thấy đắng quá! Một bầu tâm sự não lòng, hay là mệt quá, hay là cái gì khác nữa.. sao hút thuốc con mèo đắng quá vậy! Tôi rít một hơi nữa xem sao, chẳng ngon hơn chút nào. Tôi thấy đám khách nhìn tôi có vẻ thèm. Tôi hỏi :
- Có anh nào hút thuốc không?
Cả đám nhao nhao: Dạ em, dạ em.
Tôi đưa điếu thuốc cho bàn tay gần nhất. Nó run run đưa điếu thuốc lên môi rồi rít một hơi quá dài. Ðiếu thuốc ló ra một cục than đỏ rực. Nó tính tham lam làm tiếp hơi thứ hai nhưng không kịp nữa rồi, một bàn tay đưa ra kẹp lấy điếu thuốc trên môi tên đang hút. Chàng thứ hai làm một hơi dài không kém chàng thứ nhất. Ðến chàng thứ ba thì điếu thuốc gần hết rồi. Chàng thứ tư thì điếu thuốc không còn đủ dài để kẹp giữa hai ngón tay, nó cầm điếu thuốc bằng hai đầu ngón tay, cầm một chút xíu thôi vừa đủ cho khỏi rớt rồi đưa lên rít. Tôi thấy đầu than đỏ từ từ chạy đến tận môi anh ta phun phèo một cái rồi đưa tay quẹt mỏ lia lịa, chắc là nóng lắm. Tôi lấy làm lạ, chàng nầy nuốt khói hết sao mà không thấy phì ra. A ! kia rồi! Rất từ từ anh ta nhả khói bằng hai lỗ mũi, mắt lim dim lộ vẻ khoái lắm.
Tôi nằm xuống mà lòng buồn bực quá. Ðơn vị gần như tan rã cả rồi. Cuộc đời binh nghiệp tiêu tan. Tiếc cho cả chục can mồ hôi lúc còn ở quân trường khoá 69A.Những ngày trực gác, bay bổng ở phi đoàn, vào sanh ra tử rốt cuộc là công cốc. Cấp bực lên như diều gặp gió, lấy một mai, hai mai rồi ba mai dễ như khều mà bay giờ mất trắng. Ngoài bộ đồ bay đang mặc, hình như không có thứ gì đổi được một xị rượu thuốc! Trằn trọc một hồi tôi ngủ quên lúc nào không rõ.
Khi thức dậy thì đã hơn 4 giờ sáng. Ðám khách của tôi vẫn còn ngủ ngồi trên tàu. Nhìn qua các tàu khác tôi thấy từng nhóm tụ nhau đấu láo. Tôi đi vòng vòng nghe ngóng tình hình, không có tin tức gì lạc quan cả. Ðất nước càng ngày càng thu hẹp quá nhanh. Cộng quân chiếm lấy như vào chỗ không người. Quân ta chưa đánh đã thua.
Trời dần sáng. Tôi rủ thằng copil cầm theo cây M16 đi tìm coi có con nào nhúc nhích, chẳng hạn như thỏ, mèo, rắn rùa gì đó.. bắn đem về nướng lên làm bữa điểm tâm. Chẳng có con nào ngu như tụi tôi, tụi nó lủi về chốn an toàn từ lâu rồi.
Mặt trời đã lên khỏi ngọn cây. Ông Phi đoàn phó được một chiếc xe jeep chở qua. Tôi ngạc nhiên ông này qua phía tây lúc nào hay quá vậy.
Ông gom tụi tôi lại rồi nói:
- Mấy chú check tàu đi , chút nửa Không Ðoàn Trưởng sẽ có lịnh xuống.
Tôi hối copil và cơ phi check tàu. Tôi tự hỏi: Ði đâu đây? Ra hướng bắc thì Nha Trang mất rồi, vào nam bỏ vùng đất quê hương của tông tông sao được!
Ông Không Ðoàn Trưởng không qua bằng xe jeep mà ông bay qua bằng L19. Ông bay thấp rồi ra dấu mở máy nghe lịnh.
Tôi phóng lên ghế lái, đội nón và mở máy ra nghe. Ông KÐT ra lịnh tất cả về sân bay Tân Sơn Nhất, vùng nầy sẽ có đơn vị khác đến thay thế. Khá lắm, trong các hướng chỉ có hướng về Saì gòn là tạm được.
Tôi đi lại tàu thằng T. hỏi:
- Tàu mầy động cơ có mạt sắt, mầy có bay được về Saigon không?
- Chắc được , tao ráng.
Tôi rủa thầm : ÐM thằng này xạo, động cơ có mạt sắt mà ráng nỗi gì. Lúc hòa bình cho tiền mày cũng không dám bay, bây giờ về Saìgòn mầy nói ráng đươc, hôm qua mầy xạo để ngồi nghỉ, trong khi tao ôm bụng đói đi bay. Trong Quân Ðội tôi gặp nhiều thằng láu cá vặt mà thằng nầy là số một.
Tôi trở về tàu quay máy. Rồi từng chiếc cất cánh, gom lại thành từng toán 3 chiếc 1. Chúng tôi thẳng xuống Vủng Tàu rồi lấy hướng vô Sài gòn. Phải tránh khu Long Khánh đang đánh nhau dữ lắm.
Ðến Tân Sơn Nhất đã hơn 11 giờ trưa. Trực thăng đậu nhiều quá ở W6. Tàu của Sư Ðoàn 1, Sư Ðoàn 6 rồi bây giờ tới Sư Ðoàn 2. Tìm được môt chỗ đậu khá khó khăn. Ðậu được rồi tôi cúp ga, tắt máy và cảm thấy đây là lần cuối cùng tôi bay trên chiếc UH-1. Tôi ngồi trên ghế lái mà tiếc ngẩn, tiếc ngơ.
Em UH ơi từ nay chắc vĩnh biệt em rồi. Xa em anh đau như bị bồ đá. Buồn ơi là buồn. Gần ba ngàn giờ anh hủ hỉ với em. Lúc trời trong gió lặng, khi mưa to gió lớn, ngày cũng như đêm ta cùng vượt qua bao gian nan nguy hiểm. Có lúc anh bị thương ông Phi Ðoàn Trưởng cho anh đổi ghế qua chơi với chị nái xề Chinook. Anh thẳng thắn từ chối, một lòng một dạ ở lại với em. Thế mà bây giờ ta phải xa nhau vĩnh viễn, sự thực hay là giấc mộng đây. Anh thử kéo collective, quậy cyclic cánh em vẫn nhúc nhích kia mà mơ làm sao được. Sự thực quá phủ phàng.
Nhớ ngày nào anh là SVSQ đi học lái làm quen với em. Anh thấy ngay em như cô gái ngoan hiền tuyệt vời. Ðến bây giờ anh là Ðại Úy bực thầy trong nghệ thuật đưa em lên xuống, đi khắp mọi nơi: trong góc rừng sâu, trên đỉnh núi cao chỗ nào anh cũng không ngại gì cả.Em mà có giở chứng, anh thừa sức bắt em phải ngoan đó là nhờ anh biết em rất rõ, từ đầu đến đuôi, từ trên xuống dưới, từ nước sơn đến bộ đồ lòng. Suốt mấy năm trời hủ hỉ với nhau em chỉ chứng có một lần, lần đó thằng Hiệp nó cháp đuôi em, em quăng anh xuống đất một cái quá nặng làm anh nằm nhà thương hết 6 tháng.
Xa em anh nhớ quá chừng, nhớ từng đặc tính và khả năng của em. Anh nhớ em có cái bình battery bằng nicken-cadium, 19cells, 24 volt dc, giá 480 đô. Khi anh bấm start máy thì em phải còn tối thiểu 12 volt nếu thấp hơn thì em không cầm hơi, phải nhờ đến APU. Nhớ đường kính cánh em là 57 feet có lẻ. Anh cưng em lắm nên lúc nào cũng tìm chỗ rộng cho em nghỉ. Về đến sân bay phải đưa em vô ụ đàng hoàng, sợ tụi VC pháo em sẽ bị sứt càng, gãy gọng. Anh nhớ em ưa xài loại dầu hydraulic 5808 và dùng nhớt loại 23669. Anh nhớ máy của em có sức đến 1250 mã lực, nhưng hộp số chỉ chịu được 1100 mã lực mà thôi. Cho nên khi bay làm việc chung với tụi Cobra thì em cho anh hửi khói tụi nó. Em bay được 120 knots, đó là lý thuyết nói nghe chơi chớ bay cỡ đó em run dữ lắm.
Em có tất cả 42 cái mặt (phi cụ) lớn nhỏ. Cái nào cũng có ích chớ chẳng có cái nào để làm duyên làm dáng. Bằng ấy thứ em đủ đưa anh đi mọi nơi. Ðêm hôm tăm tối hay mưa gió gì cũng không ngại. Tuy nhiên đi đêm với em thì anh đi chớ vô mây với em thì anh không thèm. Vô mây anh đâu còn thấy trời đất gì nửa, lúc đó em dở chứng nằm xấp thì chết anh rồi. Tạo hoá mủi lõ tạo ra em nằm ngửa thì cứ thế làm tới, em không có khả năng nằm xấp. Bởi vậy có lúc anh ghen với mấy thằng bay F-5, A-37. Tụi nó chơi đủ kiểu: xấp, ngửa, nghiêng ,dựng đứng gì đều được cả. Anh nhớ em có cái compass cho anh biết đông tây nam bắc. Có cái attitude cho anh biết đang ngẩng đầu lên hay cắm xuống, cho anh biết đang nghiêng em bao nhiêu độ. Anh không bao giờ nghiêng em đến 90 độ cả vì cỡ đó em sẽ nhào xuống đất, tụi mình sẽ nát như tương. Anh nhớ em có cái altitude cho anh biết đang cao bao nhiêu để tránh cái deadmanzone, an toàn hơn anh lên 2000 feet, thêm 1000 feet cho vợ anh là 3000 ngàn, 1000 feet cho con nữa là 4000 feet. Ði 4000 feet trở lên là tốt nhất an toàn mát mẻ. Em có cái kim nhỏ chỉ tốc độ em đi xuống. Thường em chỉ chịu 1500feet/phút mà thôi. Nhưng khi rước toán với tốc độ nầy dễ ăn đạn của VC lắm. Ðể xuống cho lẹ anh phải giảm tua em còn 5800, đạp cho em out of trim rồi cắm đầu em xuống. Kiểu nầy VC khó bắn lắm. Em có cái đồng hồ chỉ torque, cho anh biết đang xài em cỡ nào, thường thì chỉ 50psi mà thôi đến 65psi phải báo cho kỹ thuật coi lại bộ đồ lòng của em. Tuy nhiên khi vô vùng bị bắn rát quá, thì bằng mọi cách có khi rất hung bạo để đưa em về an toàn, có rảnh mắt đâu mà coi torque bao nhiêu. Bởi vậy có nhiều em coi tốt mã mà yếu xìu, bịnh hoạn hoài. Em có cái đồng hồ xăng cho anh biết em còn bao nhiêu trong bình.Khi gần hết em sẽ báo 20 phút. Nhưng anh không tin em đâu , em báo 20 phút mà mới có 5 phút em nghỉ chơi thì khổ anh lắm. Lúc em muốn bịnh thì báo đèn cho anh biết, nếu anh làm ngơ em sẻ ré lên như xe cứu hoả. Em còn nhiều và nhiều thứ khác nửa.
Vỉnh biệt em UH1 thân yêu. VC vào đây sẽ xài em. Còn anh khi xa em đời anh sẽ tuột dốc không phanh, tương lai đen như cái quần lãnh Tân Châu. Ơ kià, xe hậu trạm vào đưa người ra cổng chuyến chót, đến giờ anh phải đi rồi, một lần nữa vĩnh biệt em UH thân yêu.
Tôi rời khỏi ghế lái, đóng cửa lại, lầm lũi đi về xe hậu trạm mà không dám nhìn lại.
Phi vụ cuối cùng chấm dứt ở đây.
Pilot dỏm.
No comments:
Post a Comment