PCK (Thần Chùy - Long
Mã)
Một giấc mơ hãi hùng đến với tôi trong đêm...
Một giấc mơ hãi hùng đến với tôi trong đêm...
Tôi đi lạc giữa rừng núi cao nguyên, sương lạnh
và giá rét, người bạn bên cạnh tôi rên xiết vì những vết thương đang hành, anh
níu lấy cánh tay tôi và lê từng bước một cách khó khăn. Tôi cũng bị thương nhưng
có lẽ nhẹ hơn. Hai người chúng tôi cùng dìu nhau đi trong bóng đêm, cố tìm lối
thoát và lẩn tránh kẻ thù...
Một tiếng sấm ngoài trời làm tôi giật mình thức
giấc. Bừng mắt dậy, tôi biết đó không phải là một giấc mơ - hay nói một cách
chính xác hơn, giấc mơ ấy chính là những gì đã xảy ra trong đời binh nghiệp của
tôi 35 năm về trước.
Không hiểu người bạn Lý Thường K. đã cùng đi với
tôi trong khu rừng năm ấy, giờ phiêu bạc nơi đâu? Còn hay mất? Sáng hôm sau, tôi
vội vàng lên "net" gửi đi khắp nơi với hy vọng mong manh sẽ nhận được vài tin
tức về anh...
Câu chuyện ấy đã được nhà báo Anh Tử thuật lại
trên nhật báo Chính Luận trong vòng một tuần lễ với tựa đề: "36 giờ trong rừng
Bảo Lộc".
Hôm nay, đúng 35 năm sau, tôi cũng thuật lại
chuyện này, nhưng dài hơn: "54 giờ trong rừng Bảo
Lộc".
* *
*
Sau khi mãn khóa trực thăng H-34 tại Fort
Rucker, Hoa Kỳ, tháng 6 năm 1966, bốn hoa tiêu trực thăng về trình diện Bộ Tư
Lệnh Không Quân. Nguyễn Chính T. và tôi PCK bốc thăm về Phi đoàn 211 (Thần Chùy)
- Không Ðoàn 33 Chiến Thuật, thời gian này Phi đoàn trưởng là Ðại Úy Nguyễn Hữu
Hậu và Phi đoàn phó là Ðại Úy Nguyễn Kim Bông.
Sau một thời gian bay bổng, hành quân đổ bộ,
trực tải thương đêm, tôi đã có một số kinh nghiệm chiến
trường...
Hôm đó, cũng như mọi ngày, trước khi rời phần
sở, tôi lên Phòng hành quân để nhận công tác cho ngày hôm sau, và được biết là
phải có mặt sớm để thi hành phi vụ VIP đi Bảo Lộc. Trung Úy L.T.K là trưởng phi
cơ, tôi hoa tiêu phó, cùng với Trung Sĩ Lê Ngọc Hồ cơ khí viên phi hành, chở
phái đoàn Bộ Xã Hội đi khánh thành Ðại Học Nông Lâm Súc tại Bảo
Lộc.
Sau khi nhét hai gói Lucky Strike trong túi theo
thói quen, tôi tới đúng giờ để nhận công tác. "Check weather" chúng tôi được
biết thời tiết tại Bảo Lộc không được tốt lắm. Tiền phi xong, chúng tôi mang phi
cơ sang sân VIP nằm bên phi cảng dân sự để đón phái đoàn của Bộ Xã Hội do Ông
Nguyễn Văn Học (Bộ trưởng) hướng dẫn. Cùng đi còn có một Bác sĩ cố vấn người
Thụy Ðiển, phóng viên Anh Tử của báo Chính Luận, ngoài ra còn có con trai Ông Bộ
trưởng, một sinh viên cũng đi theo. Phi hành đoàn và phái đoàn tổng cộng 13
người!
8 giờ 30 sáng, phi cơ cất cánh, lấy cao độ, trực
chỉ Bảo Lộc, qua khỏi Ðịnh Quán, lờ mờ bên dưới (đó là điểm check point) trời
bắt đầu có sương mù, mây bắt đầu dầy, được báo ở Bảo Lộc thời tiết khả quan hơn,
tơi nơi chúng tôi sẽ kiếm "lỗ" chui xuống. Bay trên mây, gió lạnh cao nguyên
luồn vào buồng lái, tôi đốt điếu thuốc Lucky, kéo một hơi dài và cảm thấy rất ấm
áp, phấn khởi với dự tính một chuyến đi lý thú tại Bảo Lộc, khác với những phi
vụ hành quân, tản thương hay bay đêm...
Ðang miên man với những ý nghĩ yên lành, bỗng
nhiên tiếng động cơ của trực thăng "ho" lên vài tiếng, đánh thức sự cảnh giác
của chúng tôi. Ðẩy cần "mixture" lên "full", check kỹ lại những đồng hồ phi cụ,
máy bay vẫn tiếp tục "ho". Vòng quay của máy (RPM) không được bình thường và phi
cơ mất cao độ từ từ...
Chúng tôi lọt vào đám mây, Trung Sĩ Hồ bấm
intercom báo cáo tình trạng hành khách đã tỏ ra hơi mất bình tĩnh. Anh L.T.K.
bay instrument quẹo lại. lấy hướng trở lại Ðịnh Quán, tôi cố theo dõi các đồng
hồ và nhìn một màu mây mù xám đặc vây quanh. Lúc đó chúng tôi rất bình tĩnh,
nhìn nhau với đôi mắt sáng quắc, sẵn sàng đối phó với mọi bất trắc... Cao độ vẫn
mất từ từ, có những lúc tôi cảm thấy tiếng động cơ im lặng hẳn rồi lại nổ trở
lại rất nhanh.
Bỗng nhiên một màu xanh thẫm như một tấm màn bao
phủ trước mũi phi cơ tới rất gần. Có lẽ lúc đó anh K. không nhìn thấy vì còn
đang cặm cụi với những đồng hồ phi cụ. Tôi vội chụp vào cần lái, ấn intercom và
hét to lên cho anh K. biết là "NÚI" và dùng động tác "Emergency: Force landing - "Flare" để "Touch down" (một
phản xạ chớp nhoáng tự nhiên trong nghề).
Một tiếng ầm dữ dội pha lẫn với tiếng la hét của
13 người cùng với tiếng đổ ngã của cây
cối, tiếng gãy nát của 3 cánh quạt và thân phi cơ, xẩy ra trong tích tắc.
Lúc đó lồng ngực tôi như bị tức nghẹn vì sức va chạm quá mạnh, chân tay rã rời,
ngồi trong tư thế nằm ngang, đầu chúi xuống những ngọn
cỏ...
Tôi hít một hơi thật dài để trấn tĩnh. Tiếng
người rên xiết, tiếng xăng chảy róc rách và mùi xăng nồng nặc khiến tôi trở nên
sáng suốt hơn. Nhìn phía trên bên phải, tôi thấy L.T.K. còn đang kinh hoàng mở
mắt nhìn tôi. Tôi quyết định phải rời phi cơ ngay vì sợ phi cơ phát hỏa. Trong
vị thế buồng lái nằm ngang về phía bên trái, đầu cắm xuống đất, anh K. nằm trên,
thì chỉ còn một lối thoát duy nhất là cửa sổ phía bên phải của Anh K.. Tôi cố
gắng lắm mới gỡ được chân của Anh K. bị đè dưới ghế ngồi, sau khi mở seat belt
của anh, tôi dùng hết sức đẩy Anh K. chui ra khỏi buồng lái và tôi bò ra
sau.
Tôi quan sát thấy một phần đuôi của phi cơ bị
treo tòng teng trên một cây cổ thụ. Tôi tiến lại cabin hành khách leo vào thì
thấy Trung sĩ Hồ đã tử thương, đầu anh dù đội nón bay nhưng bị sức ép của ghế
pilot từ trên dộng xuống, khiến đầu anh bị tụt hẳn vào trong thân người. Tôi còn
đang bàng hoàng thương tiếc người đồng đội cùng phi hành đoàn thì tiếng rên xiết
đau đớn cùng với giọng nói Tây phương "Au secour" đã khiến tôi sực tỉnh, đó là
Ông Bác sĩ người Thụy Ðiển.
Tôi quay đầu lại, một cảnh tượng thật hãi hùng,
máu đỏ lênh láng trên sàn phi cơ, tôi tiến lại từng người để coi sóc họ, thấy
tất cả bị thương rất nặng và đang rên xiết. Bỗng anh phóng viên Anh Tử chợt ngồi
dậy, hoảng hốt nắm lấy tay tôi rồi dáo dác tìm kiếm máy ảnh và đồ nghề của anh
nhưng không thấy. Tôi nhủ thầm: thật may mắn, còn một người không bị
thương!
Hai chúng tôi kiểm lại số người: chỉ có 12,
thiếu mất anh sinh viên con Ông Bộ Trưởng, có lẽ anh đã bị văng đi xa. Tôi và
Anh tử chia nhau đi tìm kiếm nhưng không thấy. Trở lại thì chân Anh K. đã sưng
phù lên, có lẽ bị gãy xương. Chúng tôi và Anh Tử bàn tính, mở bản đồ cố gắng
chấm tọa độ và phương hướng.
Tôi quyết định đi một mình xuống sườn núi, theo
con suối nhỏ dẫn tới quốc lộ 20 (Sàigòn -Bảo Lộc - Ðà Lạt) trên đèo Blao, vùng
Maragui, tìm phương tiện thông báo xin cứu cấp và chỉ định Anh Tử ở lại để coi
sóc anh L.T.K. và những người bị thương. Nhưng cuối cùng Anh K. và Anh Tử nhất
định đòi đi theo tôi.
Tôi trở lại băng bó cho các vị trong phái đoàn
và căn dặn ở yên tại chỗ, tôi sẽ cố gắng đi kiếm cách liên lạc thật nhanh với
các toán cấp cứu.
Lúc 3 chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình là vào
khoảng 11 giờ trưa cùng ngày. Xuống hết sườn núi quả nhiên chúng tôi gặp con
suối nhỏ, liền đi theo với hy vọng sẽ sớm ra đường lộ. Ði theo con suối còn có
những lợi điểm, thứ nhất có nước uống (vì thiếu ăn không sao nhưng thiếu nước là
cả một vấn đề); thứ nhì đi dưới suối sẽ không để lại dấu vết
gì.
Chúng tôi di chuyển rất chậm chạp vì Anh K. bị
thương chân, đi rất khó khăn. Theo phương thức cứ một người đi nhanh mở đường,
khoảng 20 phút thì dừng lại, ngồi đợi người kia dìu hoặc cõng Anh K. tới. Cứ như
thế thay phiên nhau, nếu gặp trở ngại thì quay lại thông báo kịp
thời.
Trên đường di chuyển, khoảng 4 giờ chiều cùng
ngày, chúng tôi nhìn thấy vài lon "Ration C" đã khui, không biết của toán quân
bạn hành quân hay của du kích Việt cộng?
Anh Tử thận trọng đưa ra ý
kiến:
-Các anh nên lột bỏ lon là đi thì hơn. Nếu không
Việt cộng mà thấy thì ăn nói làm sao?
Nghe câu nói của anh ta trong lòng tôi vừa thấy
khôi hài vừa đáng buồn!
Tôi và Anh K. chỉ cười rồi tiếp tục đi. Cắm cúi
đi cả tiếng đồng hồ, khi trời nhá nhem tối, chúng tôi không thấy Anh Tử đâu nữa.
Tôi hoang mang lo ngại, không biết anh có lọt vào tay địch hay làm mồi cho thú
dữ không? Hay là anh tự ý tách riêng vì sợ đi chung với hai thằng phi công sẽ bị
liên lụy?!
Nhưng dù là thế nào đi nữa, chúng tôi cũng phải
cẩn thận hơn. Tôi không dám đi dưới suối nữa mà cõng Anh K. lên triền núi, đi
dọc theo bờ suối khoảng 50 mét. Lúc này thì chân Anh K. đã sưng to, anh không đi
được nữa, chỉ còn cách là tôi phải cõng anh mà
thôi.
Trời tối đen như mực, giá lạnh của vùng núi xoáy
vào người. Tôi tìm một nơi tương đối an toàn trong bụi rậm. Thời tiết núi rừng
cao nguyên càng về đêm càng lạnh, hai hàm răng chúng tôi đánh vào nhau lạch cạch
không ngừng. Tôi xé tấm nylon bọc bản đồ, tuy không được lớn cho lắm nhưng cũng
đủ cho hai cái đầu chui vào. Với mục đích tiết kiệm, tôi chỉ đốt một điếu Lucky
Strike cho cả hai hút chung. Khói thuốc đi sâu vào lồng ngực và tỏa ra trong thể
tích bé nhỏ của bao nylon với hai cái đầu
đã sưởi ấm chúng tôi phần nào.
Trong cơn đau, Anh K. "nghiến" (anh có biệt danh
là "Nghiến" trong khoá 62KQ) ôm lấy tôi
thều thào:
-Ðừng bỏ tôi K. nhé, con trai tôi mới đầy tháng
hôm qua, nó cần phải có cha!...
Tôi nhủ thầm trong bụng để tự trấn an mình:
Không thể có chuyện đó. Chúng ta nhất định sống để trở
về!
Thế rồi, dù lạnh buốt chúng tôi cũng ngủ thiếp
đi có lẽ vì quá mệt nhọc và vì đói. Rồi đêm hãi hùng cũng qua đi. Những tia sáng
bình minh và tiếng chim hót buổi sáng đã đánh thức chúng tôi dậy, bắt đầu cho
một ngày mới...
Sau khi đi lẫm lũi hàng giờ, chúng tôi tới một
rừng đầy chuối. Tôi ngước nhìn lương thực mà Thượng Ðế ban cho, đây rồi một
buồng chuối chín vàng óng ánh. Tôi vội đặt Anh K. nằm xuống vì cây cao quá, tay
không thể với tới được, tôi tìm một cục đá nhọn và ngồi đẽo vào thân cây. Tới
lúc chỉ cần xô nhẹ một cái là cây chuối ngã
xuống
thì một bầy khỉ không đông lắm, xuất hiện, và
chúng bu lại để cướp lấy các trái chuối chín vàng. Không biết là chúng "cướp"
của tôi hay chính tôi tới "cướp" của chúng, nhưng chúng còn để lại cho chúng tôi
một số trái còn xanh. Tôi vội bẻ lấy và nhét đầy vào hai túi dưới áo bay để làm
lương thực dự trữ. Tôi trở lại chỗ Anh K. nằm, chia nhau ăn. Những trái chuối
hột vị rất chát và nước suối không thể coi là bữa ăn thịnh soạn nhưng ít nhất
cũng giúp chúng tôi no nê và đủ sức tiếp tục lên
đường...
Rồi một ngày nữa qua đi, đêm tối lại đến, tôi
bắt đầu thấm mệt, lồng ngực tôi ê ẩm và da đã đổi thành màu tím đen. Ðêm thứ
hai, chúng tôi thiếp đi rất lâu, tới sáng thức dạy thì toàn thân rã rời, nhưng
vì sự sống còn, chúng tôi tiếp tục lên
đường.
Khoảng 10 giờ sáng, tôi chợt nghe thấy tiếng xe
hơi chạy trên sườn núi phía trên. Mừng quá, tôi nói với Anh K. là chúng mình
phải leo lên để ra quốc lộ 20. Tôi kiếm một khúc cây dài để leo lên trước và
thòng cây xuống để kéo Anh K. lên. Cứ như vậy, trên sườn núi lau sậy mọc cao hơn
2 thước, chúng tôi đã leo lên được một khoảng khá xa, tiếng xe nghe càng gần
hơn. Lúc đó mặt trời đã đứng bóng...
Tôi chợt nổi "da gà" vì nghe thấy tiếng động cơ
rất quen thuộc!
Ðúng rồi! tiếng động cơ H-34. Tôi hét to lên.
Chúng tôi nhìn nhau trong lòng đầy xúc động, cùng quay đầu tìm hướng máy bay.
Những chiếc trực thăng như những chấm nhỏ trên nền trời bắt đầu xuất hiện rồi từ
từ tới gần. Tôi đã có thể nhìn thấy phù hiệu "Thần Chùy" của Phi đoàn và màu cờ
của Không lực VNCH. Tôi vội đứng dậy, hăm hở dùng cây phang những ngọn lau chung
quanh để lộ ra một khoảng trống, trong khi Anh K. dùng bao nylon làm động tác
phản chiếu ánh sáng và phất lên để gây sự chú ý của máy bay (vì phi vụ VIP nên
chúng tôi đã xem thường không mang theo vũ khí cá nhân và những trang bị mưu
sinh thoát hiểm).
Các đồng đội từ trên cao đã nhìn thấy chúng tôi.
Một chiếc H-34 làm "low pass" ngang đầu và thả xuống một trái khói ngay gần chỗ
chúng tôi, sau đó lắc cánh hướng dẫn xuống dưới thung lũng cách đó không xa, hai
chúng tôi trườn lên trên bụi cỏ lau và lăn xuống ngay nơi chiếc H-34 đang
"hover" chờ đón.
Ngước lên, tôi nhận ra Anh Hoan, tự Hoan "heo",
đang vẫy tay cười và kéo chúng tôi lên, và sau đó người y tá phi hành bắt đầu
nhiệm vụ...
Chúng tôi được đưa về Tổng Y Viện Cộng Hòa để
săn sóc kỹ lưỡng, Chuẩn Tướng Võ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó và Ðại Tá Lưu Kim Cương,
Tư Lệnh Không Ðoàn 33 Chiến Thuật, cùng gia đình, thân nhân, bạn bè trong phi
đoàn thay phiên nhau tới thăm hỏi.
Tôi tường thuật mọi diễn tiến xãy ra, chấm tọa
độ vị trí phi cơ bị rớt và đề nghị phải đi tiếp cứu gấp vì các hành khách bị
thương rất nặng. Tôi cũng tình nguyện xin đi theo để hướng dẫn vì cảm thấy đó là
trách nhiệm của mình và đã được chấp thuận.
Tờ mờ sáng hôm sau, tôi được khiêng ra phi cơ,
nằm trên "cáng", có một vị Bác sĩ phi hành đi theo săn sóc. Tới tọa độ phi cơ bị
rớt, sương mù vẫn phủ kín, không sao vào được, máy bay phải đáp và "stand by"
tại Bảo Lộc. Tới 1 giờ trưa, trời sáng sủa hơn, chúng tôi mới vào được. Ðáng
buồn thay, chỉ có hai người còn sống, 8 người kia đã
chết...
***
Hai người sống sót là Ông
Bác sĩ người Thụy Ðiển (bị gãy chân, tay) và anh sinh viên con trai Ông Bộ
Trưởng. Sau khi máy bay rớt, tôi kiểm soát số hành khách và thấy thiếu mất một
người, người ấy chính là anh. Anh bị bất tỉnh nhân sự, nằm lọt trong đuôi phi cơ
treo tòng teng trên ngọn cây. Anh sinh viên cho biết một số vị trong phái đoàn
chết ngay sau khi tai nạn xảy ra, một số chết vào ngày hôm sau, trong đó có cha
anh. Ông đã trối trăng với anh trước khi chết!.
Riêng phóng viên Anh Tử, sau khi tách rời chúng
tôi, đã đi dọc theo con suối và sau 36 giờ trong rừng Bảo Lộc, đã ra tới quốc lộ
và đón xe về nhà. Sau đó anh đã viết phóng sự :"36 giờ trong rừng Bảo Lộc" trên
báo Chính luận. Thú thực cho tới giờ này tôi cũng không hiểu tại sao Anh Tử lại
tách rời. Anh sợ đi chung với chúng tôi có thể liên lụy khi bị Việt cộng bắt,
hay muốn đi một mình cho nhanh hơn? Và vì phải cõng theo một người bị thương...
Nhưng dù sao tôi cũng không trách anh này vì anh không phải là đồng đội của
chúng tôi, không vướng mắc tâm nguyện "không bỏ anh em, không quên bạn bè" của
những người cùng chung màu áo, màu cờ và nghiệp bay
bổng.
Ðược biết, ngay sau khi máy bay chở VIP mất liên lạc, bị báo cáo mất tích, đích thân
Ðại Tá Lưu Kim Cương Tư Lệnh KÐ33CT đã tham gia tìm kiếm cấp cứu với Phi đoàn
211.
Sau khi tai nạn xảy ra - tai nạn đầu tiên trong
nghiệp bay bổng của mình - tôi cứ thắc mắc nếu hôm đó anh sinh viên không xin đi
theo, tức là tổng số người trên phi cơ chỉ có 12 chứ không phải con số 13 "xui
xẻo", thì sự việc có khác đi chăng?
Tháng 9 năm đó, tôi tình nguyện ra Phi đoàn 219
Long Mã ở ngoài Ðà Nẵng để thử "số mạng". Riêng Anh L.T.K. thì sau phi vụ nói
trên đã từ giã nghiệp bay và chuyển ngành.
Cuối cùng vào tháng 4 năm 2002, tôi đã liên lạc
được với anh. Hiện anh rất khoẻ mạnh (vẫn đi "cày"), gia đình hạnh phúc và các
con đều thành danh cả.
Hôm nay đúng 35 năm sau ngày xảy ra tai nạn đầu
đời lính, tôi viết bài này để tặng anh và để nhớ lại những kỷ niệm xưa của một
thời bay bổng.
P.C.K Melbourne, Australia
No comments:
Post a Comment