Thật là vui mừng khi gặp lại Nam, người bạn phế binh đồng thời cũng là bạn học cũ năm xưa. Lúc này gương mặt của Nam sạm nắng đầy vẻ phong trần, tóc của Nam cũng đã bạc màu, ngả sang màu trắng. Cách ăn mặc của Nam cũng đã thay đổi, tươm tất hơn và không còn luộm thuộm như xưa. Đêm nay khí trời mát mẻ, biết Nam thích uống trà tôi đã pha trà đặc biệt mời Nam uống. Hai chúng tôi ngồi trước hàng hiên nhà miên man nói chuyện, nói đến quá nửa khuya vẫn chưa ai cảm thấy buồn ngủ. Nam kể lại những chuyện trong hiện tại, tôi nhắc đến những chuyện ngày xưa, chuyện mấy chục năm về trước mà hai chúng tôi đã trải qua.
* * *
Vào giữa thập niên 60, chiến tranh lan rộng khắp lãnh thổ. Báo chí loan tin quân cộng sản miền Bắc đã xâm nhập vào Nam càng ngày càng nhiều, nhiều trận đánh lớn đã xảy ra ác liệt từ các vùng đồi núi trên cao nguyên xuống tận các tỉnh duyên hải và đồng bằng sông Cửu Long. Thành thị và nông thôn không còn nơi nào yên bình được nữa. Lúc đó Nam và tôi đang còn là học sinh trường trung học công lập, hai chúng tôi học chung lớp với nhau từ năm đệ thất. Bạn học của tôi nhiều đứa đã nhận được lệnh động viên lên đường nhập ngũ, riêng Nam cùng với Minh Tề và Vượng thì làm đơn tình nguyện.
Chỉ còn vài ngày nữa là Nam lên đường và cho chúng tôi biết sẽ vào Trại Nhập Ngũ số 3. Tôi cùng vài bạn thân tiễn Nam bằng một chầu cà phê ở quán Năm Dưỡng. Mấy tháng sau tôi nhận được thơ của Nam cho hay đã được đổi về miền giới tuyến Quảng Trị. Năm sau, tôi cũng nối tiếp bước chân Nam vào Trại Nhập Ngũ số 3. Ra trường, tôi được thuyên chuyển về vùng Bạc Liêu. Ở đó hơn một tháng, tôi được lệnh hoán chuyển về bộ tư lệnh sư đoàn đóng quân tại Cà Mau. Từ ấy chúng tôi không còn liên lạc với nhau nữa vì mỗi đứa ở một nơi, xa cách ngàn trùng.
Theo lời Nam kể lại, vào xế chiều ngày 1-5-1975, sau khi những người cuối cùng trong trại thu xếp đồ đạc chuẩn bị về nhà, một tiếng nổ vang ầm từ ngoài sân vọng vào, ai nấy đều giật mình. Một phế binh mếu máo chạy vào báo tin hai anh bạn cụt hai chân ngồi chung trong chiếc xe lăn đã ôm một trái lựu đạn tự sát. Lúc đó Nam có nghe người bạn phế binh nhắc đến tên hai anh đó nhưng vì tâm thần bất an nên đã quên tên. Có người nghe lời trăn trối cuối cùng của hai anh trước khi tự sát kể lại rằng các anh quá thất vọng và chán chường vì đã mất tất cả, các anh không muốn sống chung với cộng sản nên đã quyết định bung chốt lựu đạn cùng nhau đi vào cõi chết. Nam nói họ đúng là những con người đầy nghĩa khí, bất khuất không muốn đầu hàng quân địch. Toán bộ đội gác cửa chạy vào, mắng chửi những anh em còn lại và xô đẩy tất cả mọi người ra ngoài để lục soát, truy tìm vũ khí. Từ đó phòng nào cũng có một bộ đội đứng gác và thúc dục những người còn lại thu dọn đồ ra đi.
Nam cũng cho tôi biết ca sĩ Vân Sơn đã tự sát. Trước đó tôi đã có nghe nhiều tin đồn về anh, mỗi người thêu dệt một cách, có người nói lộn cả tên anh. Thực là ca sĩ Vân Sơn trong ban nhạc AVT đã nhảy xuống sông Thị Nghè tự vẫn. Ban nhạc AVT gồm có ba người là Vân Sơn, Tuấn Đăng, Lữ Liên, đó là ban tam ca nổi tiếng về những ca khúc châm biếm sâu sắc nhẹ nhàng.
Sau vài ngày ở chơi với tôi, Nam và đứa con trai giã từ tôi về lại quê cũ sống nhờ người chị thứ ba chờ thời. Đời sống vùng quê Nam lúc ấy còn thấp kém lắm. Tất cả ruộng rẫy đều phải vào hợp tác xã, làm ăn tập thể chứ không được làm cá nhân. Gia đình chị Ba của Nam cũng như bao gia đình nghèo khó khác lâm vào hoàn cảnh khó khăn, phải ăn độn. Cả nhà làm quần quật suốt ngày mới có miếng ăn. Nam cảm thấy không khí ở đây ngột ngất khó chịu vô cùng. Mặc dù là người tàn tật, Nam vẫn không được chính quyền cho mua gạo giá chính thức, phải mua gạo giá chợ đen. Biết ở nơi này khó sống, không thích hợp với hoàn cảnh của mình, Nam xin phép chị dẫn con trở về thành phố sinh sống.
Ban đầu Nam có ý định đi lậu vé để đỡ tốn tiền, bớt đồng nào hay đồng nấy. Trong túi Nam chỉ còn chút ít tiền, không đủ chi dụng khi vào đến Sài Gòn. Hàng ngày, thằng con nhỏ dẫn Năm đi xin ăn từ làng này sang làng nọ dọc theo quốc lộ. Cứ như thế, ban ngày đi ăn xin, chiều về hai cha con kiếm các sạp chợ, hoặc các hàng hiên tạm ngủ qua đêm. Đi đường mệt nhọc, Nam dừng lại ở một vùng nào đó để nghỉ ngơi, có khi kéo dài khoảng một tuần lễ, vì vậy ròng rã hơn cả hai tháng Nam cùng con mới về đến Sài Gòn.
Trở về căn nhà cũ ở làng phế binh, bộ đội gác cửa đuổi hai cha con đi. Nam sực nhớ tới một người bạn ở một xóm nhỏ trong khu ổ chuột gần cầu Chữ Y, quận 8. Gặp lại bạn cũ, gia đình anh vui vẻ chia sẻ với Nam căn nhà chật hẹp. Đời sống dân chúng ngày càng khó khăn, một số dân trong xóm đã đi vùng kinh tế mới, những người còn lại sống khắc khoải trong cảnh nghèo khó, ngày hai bữa ăn độn bobo. Mặc dù thiếu thốn, tinh thần đùm bọc chòm xóm vẫn mặn mà.
Với thân phận mù lòa và con còn nhỏ dại, Nam phải làm nghề gì đây để mưu cầu cuộc sống, trong khi đó ngoài xã hội biết bao nhiêu người lành lặn kiếm việc không ra. Tiền cấp dưỡng phế binh đã bị cúp từ lâu, Nam đành chấp nhận số kiếp ăn xin. Mỗi lần đi xin là mỗi lần tủi hổ, sáng sáng hai cha con lê lết từ quận này sang quận nọ, từ ngày này sang tháng nọ, van xin người dưng bố thí. Ròng rã hơn mười năm đi ăn xin cùng với cha, vui buồn lẫn lộn có nhau, thằng con Nam nay đã lớn. Tội nghiệp cho nó, vừa mới ra đời chưa được bao lâu thì bị mẹ bỏ rơi, cha thì tàn phế. Đáng lẽ nó phải được hưởng sự hồn nhiên, vô tư của tuổi học trò, hăng hái chạy nhảy tung tăng vui đùa cùng chúng bạn bè đồng trang lứa, nhưng nó không có may mắn đó. Tuổi thơ của nó chỉ biết nghèo hèn và tủi nhục, cuộc đời trẻ thơ đã sớm trải qua gió bụi phong trần, chưa bao giờ biết đến mộng mơ. Cũng chính nhờ đó đứa con của Nam đã hiểu cuộc đời sớm hơn những đứa trẻ cùng trang lứa.
Thấy con nhiều lần biết ngập ngừng trong lời ăn tiếng nói khi gặp người quen thấy nó dẫn cha đi ăn xin, Nam biết con mình đã lớn. Không thể dẫn con đi theo mình như vậy được nữa, chỉ làm cho nó thêm mặc cảm, Nam gởi con vào nhà người anh họ, nhờ giúp tìm cho nó học một nghề để tự lập tiến thân. Hàng ngày Nam rong ruổi một mình, cầm gậy đi qua các đường phố rao bán vé số để dành tiền cho con học nghề. Nam chỉ mong sao cho tương lai của con được tốt đẹp vinh hiển để bù đắp những ngày thơ ấu, xa mẹ, thiếu thốn và khổ nhọc, và nhất là không phải sống tủi nhục như cha nó.
Về phần tôi, hơn hai năm qua vì mãi bận rộn với miếng cơm manh áo, tôi chưa có dịp vào thăm anh Nhứt Mù, nhà ở Thủ Đức cách nơi tôi ở không xa. Một ngày nọ nắng trời dịu xuống, tôi rủ thằng bạn cùng vào thăm anh Nhứt Mù. Anh Nhứt là bạn thân của Nam cùng nằm chung phòng trong bệnh viện ở miền Trung và cũng là thân quen với tôi từ nhiều năm qua. Trong lần từ giã trước biến cố 30-4-1975, Nam chí tình dặn bảo tôi thỉnh thoảng phải tới thăm anh Nhứt cùng gia đình, nếu giúp được gì thì cứ giúp, đời sống gia đình anh rất khó khăn. Đón xe Lam tới nhà anh, chúng tôi mất hơn nửa tiếng. Tới đầu con xóm nhỏ hỏi thăm gia đình anh Nhứt Mù ai cũng biết. Nhà của anh cách nghĩa địa không xa bao nhiêu, đứng ngoài đường cái nhìn vào những chòm mả thấy được căn nhà của anh thấp thoáng sau mấy hàng cây khuynh diệp.
Đường đi vào nhà anh Nhứt Mù quanh co, gập ghềnh mô đất và ổ gà. Vào những ngày trời mưa, đường đi càng trơn trợt, lầy lội và bùn sình. Chúng tôi đi lần vào tới trước nhà, cỏ mọc hoang dại, tràn lan ở phía ngoài sân vì không có ai phát cỏ. Căn nhà của anh Nhứt từ lâu lắm rồi không được tu sửa nên có phần xiêu vẹo. Vách nhà bằng lá đã mục nát, mấy miếng nẹp cây cột bị lệch lạc vì sút dây kẽm. Mái nhà lợp bằng tôn thiếc, nhiều tấm đã rỉ sét, có tấm lủng lỗ chỗ. Mỗi khi trời mưa, căn nhà bị ngập ướt nước. Nhà anh Nhứt bây giờ trống trước trống sau, không có tủ thờ, bàn ghế và bộ ván ngựa như năm xưa. Anh đã bán lần hồi những đồ đạc có giá để lấy tiền mua gạo nuôi đàn con thơ dại. Hai ba chiếc ghế sút gọng, gãy chân được chấp vá bằng mảnh cây tạp nhạp, đặt dựa vách nhà. Một cái giường cũ kỹ, giát giường kêu cọt kẹt lúc lắc mỗi khi ngồi lên, được để nằm sát cửa sổ, đây là nơi duy nhất để đón tiếp khách, bè bạn. Ngoài ra căn nhà không còn một vật dụng gì nữa. Đỡ một chút là nền nhà được tô láng bằng xi-măng, tối đến cả nhà trải chiếu trên nền nằm lăn ra ngủ.
Anh Nhứt là lính Sư Đoàn 25 Bộ Binh, bị mù hai mắt vì mảnh đạn B40. Sau khi giải ngũ, anh được chính phủ cấp dưỡng chu đáo, về sau có người bà con cảm thương tình cảnh bảo anh về đây cất nhà mà ở thay vì vào làng phế binh. Từ đó gia đình anh về trong căn nhà vách lá, mái tôn trong mảnh đất đầy ao vũng. Dân cư trong xóm lúc đó còn thưa thớt, nhà ở cách khoảng, mọi người đều thương mến gia đình anh vì anh ăn ở hết lòng với họ. Anh Nhứt trước khi bị trọng thương có ba đứa con được sinh ra trong một trại gia binh, khi giải ngũ về xóm này ở thì sinh thêm ba đứa khác, như vậy anh có cả thảy sáu đứa con.
Nghe tiếng tôi gọi oang oang ngoài cửa, anh Nhứt lăng xăng bước ra ngoài cửa mà không cần ai dẫn dắt, y như một người sáng mắt. Anh mừng rỡ, nói năng liền miệng, tay dẫn tôi vào nhà, sai con nấu nước rồi tự tay pha trà, rót ra chén một cách thành thạo, vừa đủ không tràn nước. Bạn tôi khẽ mỉm cười rồi ngó tôi gật đầu tỏ ý phục. Anh Nhứt nói từ lâu không có ai vô thăm nên có hơi buồn, nay có chúng tôi đến lòng anh vui lắm, quyết giữ chúng tôi ở lại chơi thật lâu không cho về sớm. Nét mặt anh rạng rỡ, cười nói nhiều hơn mọi ngày.
Mái tóc anh Nhứt Mù đã trở màu muối tiêu, gương mặt anh sạm đen vì nắng gió, vầng trán in hằn nhiều nếp nhăn, cuộc đời khổ cực lam lũ đã làm anh già trước tuổi. Từ bao năm qua anh không đầu hàng hoàn cảnh, đã làm đủ mọi việc để có tiền nuôi sống vợ con, mặc dù bản thân bị mù lòa. Anh với lấy cái túi để sẵn trên đầu giường, bóc mở mấy lớp bao ny lông, đưa cho tôi cuộn giấy mà anh cất giữ. Anh cầm khoe với tôi xấp giấy màu trắng đục bằng giọng tự hào: "Nè, coi đi. Giấy tờ chứng thương của tui vẫn còn nguyên đây nè". Anh kể có lần chính quyền xã bảo anh là lính chế độ ngụy phải nộp tất cả giấy tờ liên hệ, anh khước từ khéo léo và lờ đi nên bây giờ mới còn đầy đủ giấy tờ: nào là giấy giải ngũ, giấy cáo tri, giấy khen thưởng, bằng Anh Dũng Bội Tinh ngôi sao đồng, anh còn giữ cả sổ cấp dưỡng phế binh nữa. Tôi có biết một số anh ở những vùng xa đã bị bắt buộc nộp các loại giấy tờ lính tráng, phế binh ngày xưa và tất cả đã bị thiêu hủy.
Anh Nhứt bùi ngùi kể lại cuộc đời của anh, về những năm tháng nhọc nhằn lao khổ trong chế độ mới cho chúng tôi nghe. Vào những ngày mùng một và ngày rằm, anh được một anh bạn tốt bụng hướng dẫn anh cùng thằng con nhỏ đến trước các cổng chùa, cổng đình bày nhang đèn để bán cho khách thập phương vào chiêm bái. Những ngày còn lại thì anh đi tha phương cầu thực, hay cùng một số anh em mang bao nhang đèn trên vai đến từng nhà ở các làng, các quận mời mọc người mua ủng hộ. Đi như vậy chừng vài ba hôm anh mới về nhà. Có những hôm đi mỏi cả chân, bán chưa được đồng nào, bụng thì đói các anh đánh liều vào chùa xin cơm lạt mà ăn. Anh Nhứt đi bán nhang như vậy đã hơn ba năm.
Vợ anh Nhứt cũng bận rộn suốt ngày, buổi chiều lội xuống ao cắt rau muống mướn để sáng sớm hôm sau chị gánh rau muống đi bán dạo dọc đường. Vợ chồng anh cần cù bận rộn suốt ngày mới đủ tiền nuôi đàn con còn thơ dại. Con cái anh Nhứt chẳng có đứa nào được đi đến trường, đến lớp học hành như con người khác. Hai đứa lớn chỉ cắp sách đến lớp hai thì đã ngưng học ở nhà phụ giúp mẹ cha. Vợ chồng anh bận suốt ngày nên giao cho đứa con gái kế trông chừng các em nhỏ. Mải mê lo chụm lửa nấu cơm, nó quên phứt đứa em út. Thằng nhỏ này chạy ra nhà sân để lén chị đi chơi, chẳng may té nhào xuống ao mà không ai hay biết. Đến lúc chợt nhớ đến em, đứa con gái chạy đi tìm khắp nơi không thấy, mới tri hô lên cho mọi người hàng xóm biết. Được tin, có vài người vội vàng lội xuống ao gần nhà, mò một hồi mới vớt được đứa nhỏ đem lên bờ, mặt mày nhợt nhạt, nó đã tắt thở từ lâu. Buồn vì đứa con trai ba tuổi mà anh thương nhất đã chết, anh Nhứt nghỉ ở nhà cả tuần lễ, suốt ngày thơ thẩn buồn nhớ đứa con. Thấy vậy bạn bè rủ anh đi buôn củi.
Lúc đó thành phố đang khan hiếm củi, than, chất đốt, đi buôn củi dễ kiếm lời. Thế là anh đi buôn củi. Sáng sớm anh đi cùng thằng con lớn đi ra ga xe lửa Thủ Đức chờ đón chuyến xe lửa địa phương và không quên mang theo hai bình dầu hôi khoảng ba, bốn chục lít làm hàng trao đổi. Từng bó củi, từng thước củi được bày bán khắp nơi dọc các ga xe lửa. Đến các ga Xuân Lộc và Trảng Bom, hai cha con xuống xe đi dọ hỏi, ngã giá củi xong, cha con anh bỏ củi vào bao bố rồi vác ra ngồi chờ cách ga xe lửa độ vài trăm mét, khi xe lửa bắt đầu khởi hành hai cha con cùng nhiều người khác vội vàng quăng hàng và nhảy lên toa xe. Lượt đi đem bán dầu hôi, lượt về đem củi bán cho bọn đầu mối, như vậy lợi cả hai đầu. Bảy tám tháng trời đi buôn củi kiếm được chút đỉnh tiền, anh Nhứt được hai người bạn rủ đi buôn khô mực, cá khô ở Bình Tuy. Khô mực, cá khô bán có lời nhiều hơn củi, nhưng cũng đòi hỏi một số vốn lớn. Thấy có lời nhiều, anh Nhứt cũng ham nhưng anh không có vốn nhiều nên đóng vai người chở hàng. Bạn anh đi xuống tận chợ La Gì, lựa mua khô mực, cá khô, bỏ vô túi xách, hoặc bao cát nhỏ, cột chặt cẩn thận để đeo trên vai. Bận về bạn anh luồn lách tránh né, đi theo con đường tắt để tránh kiểm soát kinh tế, công an. Khi ấy khô mực, cá khô còn là mặt hàng quốc cấm, nên bị bắt hàng sẽ bị tịch thâu tức khắc và còn bị làm khó dễ. Tránh được các chốt kiểm tra, bạn anh đi về phía nhà dân cạnh sân ga, nơi đã có anh Nhứt chực sẵn trong nhà một người quen. Sau đó hai người men theo con đường tắt vào sân ga, mua vé chợ đen của một viên kiểm soát xe lửa rồi lên toa.
Khi xe lửa chạy chầm chậm về gần tới ga Sóng Thần, Thủ Đức, đây là thời điểm để những người đi buôn tuông hàng xuống. Sau khi quăng xong các bao khô mực, cá khô xuống đường, bạn anh ôm xốc một bên vai anh Nhứt rồi cả hai cùng nhảy một lượt xuống bãi cỏ ở đường rày trong lúc xe vẫn còn chạy thật chậm. Có lần cả hai nhảy xuống xe an toàn êm thấm, cũng có lúc lật đật nhảy xuống đụng nhầm đá xanh làm hai anh bị bong gân, trầy xước cả chân tay và mặt mũi.
Ba chuyến trôi qua êm thấm, kiếm lời cũng khá, hai anh hăng hái tính làm một chuyến nữa rồi nghỉ xả hơi. Chuyến đi lần sau cũng là chuyến đi cuối cùng của cuộc đời đi buôn nhảy xe lửa của anh Nhứt Mù. Hôm đó, xe lửa đang từ hướng Dầu Giây chạy về Sài Gòn, bạn anh Nhứt được tin báo cho biết ga Sóng Thần bị động, công an lập nút chặn kiểm soát một số nơi. Liền tức thì một số tay buôn ôm hàng nhảy xuống ga Trảng Bom trốn tránh. Anh Nhứt cùng bạn bàn tán và quyết định sẽ nhảy xuống ga Dĩ An. Nhưng xui cho hai anh, ga Dĩ An cũng đang bị công an bao vây kiểm soát, một chốt phục kích được thành lập vài trăm thước trước khi đoàn xe vào bến. Đoàn xe chạy chậm lại, anh Nhứt và bạn cùng một số con buôn còn lại nhảy xuống bãi cỏ nhưng… lại rơi đúng ngay vào chốt phục kích. Tiếng hô "Đứng lại!" của toán công an phục kích làm mọi người chạy tán loạn, các bao hàng hóa bị vứt bỏ lung tung. Công an rượt nã, anh Nhứt cùng anh bạn bỏ hàng chạy thoát thân, cả hai hớt ha hớt hãi chạy vào những lùm cây hai bên đường trốn. Thế là mất hết cả chài lẫn chì, hai anh về lại Thủ Đức, hai bàn tay trắng.
Anh Nhứt buồn quá định nghỉ ở nhà chừng năm, mười ngày rồi tìm việc mới. Vợ anh Nhứt, người bạn đường chung thủy đã theo anh trong suốt tháng năm, chịu bao nỗi đắng cay nhọc nhằn, đã tắt thở trên tay anh Nhứt. Suốt cuộc đời, chị vợ anh Nhứt đã dày nắng dầm sương lo cho chồng, cho con có cơm ăn, áo mặc mà không một lời than van hay nghĩ đến thân mình. Chị đã chết có lẽ do suy dinh dưỡng và không có thuốc men chữa trị. Chị đã ngã bệnh trong lúc anh Nhứt chưa có việc làm, anh phải đi vay mượn tiền bạc khắp nơi, chạy chữa thuốc men cho chị nhưng cũng đành bất lực. Đau buồn tột độ, anh Nhứt như kẻ mất hồn, tối ngày cứ ngồi thơ thẩn than thân trách phận, làm sao nuôi năm đứa con còn nhỏ dại. Anh cứ bán lần hồi những đồ đạc có giá trong nhà. Giờ đây căn nhà của anh Nhứt Mù trống trơn. Mấy đứa con trai lớn ngày ngày đón xe lửa vào Sài Gòn lượm rác, bao ny lông giặt rửa lại cho sạch bán lại cho các vựa ve chai. Những đứa con gái vừa mới phải đi ở đợ cho những nhà khác để được nuôi ăn. Mỗi khi nghĩ tới số phận bạc bẽo của mình, anh Nhứt buồn muốn đứt ruột, anh không còn nước mắt để khóc nữa.
* * *
– Chán quá, cuộc đời này ôi thật là đáng chán! – Nam ngẫn mặt lên trời thở dài. Cuộc đời của anh chỉ toàn màu đen tối.
– Thôi, tụi mình đi nghỉ đi Nam – tôi nhìn bạn lòng đầy phiền muộn.
Đêm đã gần tàn, tiếng gà xóm trên đang rộn tiếng gáy. Hai chúng tôi đi vào nhà trong cảnh tối tăm. Ngày hôm đó tôi mơ thấy một bình minh tươi sáng cho mọi người, trong đó có chúng tôi. Chúng tôi muốn thấy cuộc đời không còn những người phải sống trong nỗi đau thương chồng chất.
Viết lại theo lời kể của Bùi Anh Sáu
Vào một ngày âm u của tháng bảy năm 1962 ở miền cực Nam, trời mưa lất phất khí trời se lạnh, đại đội chúng tôi được lệnh hành quân tảo trừ cộng quân trong rừng U Minh. Tin tức tình báo cho biết Tiểu Đoàn U Minh 1 của cộng quân đang hoạt động ráo riết tại đây. Đơn vị chúng tôi được chia ra làm hai cánh, mỗi cánh đi về một hướng và sẽ gặp nhau tại tiểu khu Năm Căn năm ngày sau đó. Tiểu đội của tôi vượt qua mấy cánh đồng mênh mông nước, lội qua mương rạch tiến vào một xóm nhỏ lác đác vài căn nhà lá. Nơi đây vắng bóng đàn ông, chỉ thấy toàn ông già bà cả, đàn bà và con nít ngồi đứng trước nhà, ngoài sân hay trên bờ ruộng. Chúng tôi hỏi đàn ông đi đâu hết rồi, họ chỉ về phía bàn thờ trong nhà rồi im lặng.
Trời vẫn mưa lất phất, mọi người chúng tôi ai nấy đều ướt sũng. Tiểu đội của tôi dừng chân được một lúc đã nhận lệnh của đại đội trưởng tiếp tục hành quân, có người chỉ kịp ngồi uống một ngụm nước, người khác đốt một điếu thuốc đã vội vã đeo ba lô lên vai cầm súng đi tiếp. Chúng tôi rời thôn xóm nhỏ tiếp tục lên đường truy lùng địch vì cách đây vài hôm một chiếc xe đò bị giựt mìn trên con lộ dẫn về Năm Căn, làm nhiều thường dân bị thiệt mạng và bị thương. Chúng tôi đi hàng một, mon theo con đường mòn nhỏ dẫn vào khu rừng tràm gần đó, cò súng lúc nào cũng sẵn sàng. Tôi đi giữa đoàn người và bám sát gót người đi trước. Thật là an toàn, tôi thầm nghĩ. Kinh nghiệm này tôi học ở những đàn anh đi trước. Mắt tôi chỉ nhìn một phía bên đường và các lùm cây ở phía xa xa, phía bên kia thì có đồng đội khác nhìn.
Chúng tôi đi như vậy gần hai tiếng đồng hồ liền, chỉ thấy hai bên bờ ruộng cỏ mọc vô tri và những đám mạ xanh chạy dài trước mắt. Thình lình, từ trong các bụi rậm phía trước có tiếng súng nổ, đạn bay cheo chéo ngang tai. Những người đi đầu tức tốc nhảy xuống núp hai bên bờ ruộng bắn trả lại. Tôi cũng vội vàng nhảy đại xuống ruộng thì… "Ình" một tiếng, tôi bị hất tung lên khỏi mặt đất rồi rớt xuống một cái "chạch" trong vũng nước. Tôi vừa đạp phải mìn. Trái mìn định mạng được ngụy trang kín đáo dưới bờ ruộng xé nát đôi chân của tôi. Hai tai bị ù, thân mình ê ẩm. Phản ứng đầu tiên của tôi là quơ tìm cây súng định bắn trả lại nhưng… ôi, sao đau buốt quá ở hai chân!
Tinh thần tôi dao động, hoang mang. Thân thể tôi lem luốt bùn sình, cái ba lô nặng nề trên vai càng làm tôi khó chịu, tôi muốn cởi nó ra nhưng không còn sức. Một anh bạn bò tới chích cho tôi một mũi thuốc cầm máu, rửa ráy qua loa và băng bó hai khúc chân của tôi. Tôi còn nghe loáng thoáng tiếng tiểu đội trưởng gọi pháo binh và trực thăng đến tiếp viện. Vài phút sau đó, tiếng đạn pháo từ tiểu khu Cà Mau tới tấp rót xuống bìa rừng và tiếng súng của đồng đội tôi bắn về phía các bụi cây đằng trước làm tôi hồi tỉnh trở lại. Độ mười lăm phút sau, trực thăng bay tới và hạ xuống một bãi đáp nhỏ cạnh bờ ruộng. Hai thằng bạn phụ khiêng tôi lên băng ca do hai y tá từ trực thăng mang tới. Tôi còn tỉnh táo trăn trối cùng thằng em kết nghĩa khi nó dìu tôi đến bãi đáp an toàn. Trực thăng tải thương chuyển tôi về Quân Y Viện Cần Thơ. Từ đó tôi bị bất tỉnh nhân sự, không còn biết gì nữa.
Tôi tỉnh dậy trong phòng hồi sức, tinh thần còn bàng hoàng ngơ ngác trước quang cảnh khác lạ. Mùi ê te nồng nặc quanh phòng làm tôi lo sợ. Nhớ lại chuyện vừa xảy ra, tôi liền nhìn xuống phía dưới thì… trời ơi, hai khúc chân của tôi đâu mất rồi. Người ta đã cưa mất hai chân của tôi lên tới gối. Tôi buồn tủi khóc thầm trong dạ, cha mẹ đã sinh ra, nuôi nấng cho con nên vóc nên người và ngày hôm nay thân hình không còn trọn vẹn. Phải nói gì đây với người thân về nỗi bất hạnh này. Trái mìn ác nghiệt kia đã hủy hoại thân thể tôi, biến tôi thành kẻ tật nguyền. Tôi căm thù nó, thù những người đã dùng nó để hãm hại tôi. Lúc đó tôi chỉ thấy hận thù và căm ghét tất cả mọi người, ghét luôn những ông bác sĩ, bà y tá đến chăm sóc cho tôi, và cũng sẵn sàng thù ghét những người nào tỏ ra ghê sợ hay tránh né tôi. Cuộc đời tôi từ nay sang một ngã rẽ mới, ngã rẽ của thua thiệt và mặc cảm. Buồn nhất là thua kém với chính những người mình từng quen biết, gia đình, bạn bè và nhất là với những bạn gái. Một thử thách đầy cay nghiệt mới trong đó tôi phải làm nhiều cố gắng để ít chịu phần thua thiệt nhất. Cơn khát nước dữ dội làm tôi khó chịu vô cùng. Tôi bị mất quá nhiều máu nên thiêm thiếp mê đi.
Vài ngày sau, tình trạng hiểm nguy thực sự qua đi, người ta chuyển tôi lên Trại 1 điều trị. Thấy tôi thương tích quá nặng, thường vụ đại đội cử anh Nhàn binh nhất ở luôn trong trại để săn sóc tôi. Anh Nhàn mỗi ngày giúp tôi đi tiểu tiện và lo cơm nước, tôi cũng viết thư báo tin cho gia đình. Lần hồi nỗi sầu của tôi cũng nguôi ngoa vì chung quanh nhiều người còn khổ sở hơn tôi, có người chỉ còn khúc thân, tất cả đều bị mất. Tôi tự an ủi dầu sao mình vẫn còn hai tay và mắt mũi. Tôi bán sợi dây chuyền đeo ở cổ để tiêu xài vì tiền lương chưa chuyển tới và gia đình chưa ai hay biết.
Những ngày đầu ở Trại 1 thật là khủng khiếp. Hai chân tôi bị nhiễm trùng nặng vì dính bùn sình và sắt rỉ sét của trái mìn nên da thịt hai đùi tôi có mủ và bốc mùi hôi thối. Mỗi lần y tá đến rửa vết thương là mỗi lần kinh khiếp, tim tôi co thắt lại. Tôi không đủ can đảm nhìn anh y tá thay từng miếng băng ở hai đùi, anh có hơi mạnh tay vì máu khô và mủ bám chặt vào các miếng băng côm prết mặc dù đã xịt rất nhiều nước ốc xi. Mỗi lần như thế tôi chỉ biết nắm chặt hai tay vào song giường, hơi thở khó khăn và cắn răng lại chịu đựng. Tôi cố đè nén cơn đau để tiếng rên không vuột ra khỏi miệng nhưng nước mắt và nước mũi cứ chảy ra dầm dề. Tôi ít biết chửi thề, văng tục nhưng nhiều lúc đau quá cũng thốt lên vài tiếng, sau đó lại mắc cở với chính mình. Cực hình đã xong, tôi xót xa nhìn xuống từng mảng da thịt của tôi dính đầy các băng trắng lạnh lùng nằm trong cái xô hôi hám phía dưới chân giường.
Hơn một tuần sau, cô chú tôi, mẹ tôi, chị hai tôi từ Chợ Lớn xuống Cần Thơ vào trại thăm tôi. Lòng tôi buồn bã khi gặp lại người thân. Cả nhà chỉ biết ôm tôi vào lòng rồi khóc nức nỡ. Tôi chỉ im lặng khóc và không nói lời nào, dòng lệ tôi cứ tuôn trào khi cô chú, mẹ, chị hỏi thăm. Được gia đình vào thăm lòng được an ủi nhưng tâm trạng luôn cảm thấy có lỗi với người thân, tôi đã không giữ được thân hình được toàn vẹn như mọi người khác. Tôi không còn bình thường nữa!
Bất hạnh lớn nhất của đời lính là bị cụt chân, cụt tay nên không ai muốn nghĩ đến. Chẳng thà chết trên chiến trường hay trong quân y viện, gia đình thân nhân có buồn nhưng rồi cũng qua đi, nhưng phải kéo dài tấm thân tàn phế suốt những ngày còn lại không gì khùổ sở cho bằng. Nếu được chết ngay lúc này có lẽ tôi rất lấy làm mãn nguyện vì dầu sao cũng đã gặp lại tất cả mọi người thân trong gia đình. Nhưng tôi đã không chết.
Mặc dù không muốn nghĩ đến sự tật nguyền nhưng cái rủi không ai tránh được. Điều trớ trêu là cái rủi đó đã xảy đến với tôi, thật là buồn. Mấy ngày qua tôi cứ trông ngóng, lòng dạ xốn xang chờ đợi người thân, nay gặp được lòng dạ hả hê. Tôi cứ sợ gia đình tôi trách móc nhưng không, mọi người đều tỏ ra thương yêu tôi hơn bao giờ hết. Tôi không những được an ủi mà còn được cho tiền, quà cáp và sách báo để đọc.
Gần một tháng sau tôi được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hòa bằng trực thăng và được phân phối về Trại Ngoại Thương 4. Gia đình, bà con, bạn bè khắp nơi nghe tin tôi được chuyển về Tổng Y Viện đến thăm tôi đều đặn, do đó cũng cảm thấy đôi phần an ủi, nỗi đau buồn dần dà vơi đi. Với thời gian nhịp độ đến thăm không đều như trước, có lẽ mọi người bị bận rộn công việc làm ăn. Thời buổi này rất khó khăn nên tôi cũng thông cảm. Mặc dầu vậy cứ mỗi buổi chiều, tại khu Ngoại Thương 4 bà con thân nhân thương bệnh binh đến thăm nuôi đông đảo, ăn nói ồn ào, tôi ngồi trên chiếc xe lăn nhìn thiên hạ mà không khỏi buồn lòng. Tôi thường tìm một góc hành lang đầu trại lặng nhìn người qua kẻ lại, không muốn làm quen với ai. Tôi là kẻ cô đơn, lòng đầy mặc cảm. Nếu giờ này tôi còn đủ hai chân có lẽ tôi còn đang hành quân đâu đó hay về phép dạo phố như mọi người.
Trong Quân Y Viện Cộng Hòa, những thương binh được chia ra điều trị tại nhiều khu vực khác nhau, chúng tôi những người bị cụt hai chân ở khu ngoại thương 4, những khu khác dành cho người bị cụt hai tay, cụt một chân, cụt một tay, mù mắt… Những người bị mất cả tứ chi hay bị liệt thì ở chung một khu, nơi đây họ được chăm sóc tận tình và chu đáo hơn. Ơ? trại 4, tôi có thêm hai thằng bạn mới. Thấy tôi ngồi ủ rũ một mình, thằng Quí thường đến an ủi tôi, còn thằng Lô thì hay kéo tôi nhập vào những cuộc vui do anh em phế binh trong trại tổ chức để quên ưu phiền. Cả hai thằng Quí và Lô đó đều bị cụt hai chân như tôi. Những cuộc vui thường là những buổi họp mặt cùng nhau ca hát tân nhạc hay cải lương, nhiều thằng kể chuyện tiếu lâm để cùng nhau cười. Những anh em nào được gia đình đến thăm nuôi thường kêu các bạn bè ngồi lại ăn uống, nhậu nhẹt cho hết ngày giờ. Vui nhất là được các phái đoàn đến thăm, chúng tôi thường được tặng quà và còn được những cô học sinh sinh viên xinh đẹp đến ho?i han an u?i.
Tháng ngày cứ thầm lặng trôi qua, tâm hồn tôi cũng bớt phần cay đắng. Tôi không còn nghĩ nhiều đến sự tàn phế của mình và cũng không còn thu mình trong vỏ ốc cô đơn, mặc cảm. Tôi hòa nhập vào cuộc sống với anh em trong trại. Thời gian sau đó, tôi và Lô cùng ngồi trên chiếc xe lăn, vui vẻ dạo phố Sài Gòn. Chúng tôi làm ngơ không để ý đến những cái nhìn tò mò của nhiều người khác. Nhiều lúc bất mãn, anh em chúng tôi vào một vài quán nước bày tỏ sự bất bình về sự đối đãi không lịch sự của các nhân viên phục vụ, đó là vào thời điểm đầu thập niên 70. Sau này chính phủ có ra nhiều biện pháp nâng đỡ phế binh nên anh em chúng tôi vui vẻ trở về đời sống bình thường trong những khu vực định sẵn.
Riêng tôi thì trở về nhà sống với mẹ và với chị hai tại Chợ Lớn. Ở được hơn nửa năm trong tình gia đình đầm ấm, tôi vẫn thấy nỗi buồn xâm chiếm. Tôi xin phép gia đình cho vào an dưỡng tại Trung Tâm Hồi Lực vì chỉ ở nơi đây tôi mới thực sự tìm được chỗ đứng của mình. Tại đây, thật là bất ngờ. Tôi gặp lại Nam, người bạn học năm xưa, sau bao năm xa cách không đứa nào thư từ cho nhau, định mệnh đã run rủi cho hai đứa tôi gặp lại nơi đây.
Buổi sáng hôm ấy, trong Trại B Hồi Lực anh em trong trại truyền tai nhau sẽ tiếp nhận hai bệnh nhân mới từ miền Trung chuyển vào, đặc biệt có một anh mù mắt dẫn theo một đứa con nhỏ. Vừa từ phòng bác sĩ về nghe nói có bạn mới, tôi đẩy lần xe lăn vào dãy có giường ở giữa trại, nơi hai người bạn mới vừa được chuyển tới nằm để xem có quen hay không? Thật ra thì ở trại hồi lực này, ngoài chuyện chờ đợi thân nhân tới thăm và đàm tiếu với nhau, chúng tôi không có việc gì khác để tiêu khiển ngày giờ là chờ có thêm thương binh mới để đến hỏi thăm. Người thì chỉ vẻ cách sống trong trại, người thì hỏi thăm thương tật, nói chung chỉ vẻ đủ thứ chuyện để thấy ngày tháng đỡ nhàm chán.
Một trong hai người mới tới ngồi trên giường, mặt quay vào phía trong. Tôi đẩy xe tới bên cạnh khẽ gọi: "Chào anh!". Người vừa mới tới quay về phía tôi, mặt ngước lên trời. Tôi giật mình kêu lên "Nam!".
Trời ơi, đúng là thằng Nam, bạn học cũ của tôi ngày nào đây mà. Gương mặt của Nam sao dị hợm quá, một bên mặt bị nám đen, con mắt trũng sâu trong vết sẹo đen thâm xì, con mắt còn lại chớp chớp nhưng tinh thể đã bị đục thũng.
Khuôn mặt tuy đã biến dạng nhưng tôi vẫn nhìn ra Nam, thằng bạn học cũ. Nam vẫn ngồi bất động. Tôi đẩy xe chồm người tới nắm lấy tay Nam, tiếng nấc mắc nghẹn ở trong họng. Nam cũng tò mò nắm lấy bàn tay tôi nhưng ngẩn ngơ không biết là ai. Tôi xưng tên thì Nam giật mình sờ soạng rờ vào đầu tôi, kéo tôi thật mạnh vào lòng. Hai đứa ôm nhau, thân hình Nam run run xúc động, còn tôi thì khóc nức nở như một trẻ thơ. Ôi, thằng bạn thân nhất thời xưa giờ đây còn tàn phế hơn tôi. Không những Nam bị mù hai mắt mà còn bị cụt mất một chân dưới gối. Sau giây phút xúc động, hai đứa tôi ngồi cạnh bên nhau nói chuyện thật lâu.
Cuộc đời thật trớ trêu, cả hai đứa năm xưa chơi thân với nhau, giờ đây mỗi đứa mang một thương tật nặng nề, hình hài không còn nguyên vẹn. Anh em trong trại tôn trọng sự xúc động của chúng tôi nên đã tự động tản đi nơi khác. Thế là Nam cùng đứa con trai trở thành những người bạn thân tình trong gia đình mới của chúng tôi.
Phía trước Trại B có một sân cỏ thật thoáng rộng. Những lúc trời chiều gió thoảng, anh em trong trại thường ra nơi đây tụm năm tụm ba ngồi hóng mát. Tôi cùng Nam thường ra ngồi trên đệm cỏ nói chuyện, thằng con nhỏ của Nam vần vô tư tung tăng chạy nhảy, hồn nhiên đi bắt cào cào rồi chạy đền khoe. Nam kể cho tôi nghe những năm tháng thăng trầm của đời lính chiến.
Sau khi mãn khóa huấn luyện quân sự, Nam được chuyển ra đơn vị mới, Sư Đoàn 1 ở Huế. Đời lính có lúc lên lúc xuống nhưng rồi cũng qua đi. Sau nhiều chiến công rực rỡ, Nam được thăng chức trung đội trưởng. Những lần về bộ tư lệnh họp, Nam có dịp làm quen với một người con gái xứ Huế học trường Đồng Khánh. Hai người qua lại thân mật với nhau và sau hơn một năm đã cùng nhau lập gia đình. Hai vợ chồng sống những ngày tháng thật êm đềm, đứa con đầu lòng được sinh ra trong tình yêu thương nồng cháy. Nam và vợ thuê một căn nhà nhỏ gần chợ Đông Ba, vợ Nam bán vải, cuộc sống tràn trề hạnh phúc.
Đầu năm 1970, chiến cuộc gia tăng cường độ, khu vực giới tuyến được giao cho các binh chủng tinh nhuệ trấn giữ, Sư Đoàn 1 rút về tăng cường các tỉnh phía Nam Quân Khu 1. Trong một cuộc hành quân tại khu vực đồi núi phía Tây tỉnh Quảng Ngãi, trung đoàn của Nam đụng mạnh với Lữ Đoàn 52 chủ lực của quân cộng sản từ miền Bắc xâm nhập vào vùng Ba Tơ – Minh Long. Không may trong một trận đánh cánh quân của Nam bị lọt vào ổ phục kích, đại đội của Nam bị thiệt hại nặng, hơn phân nửa binh sĩ bị thương hay bị thiệt mạng, trong đó có Nam.
Khi tiến vào khu vực Minh Long, nghe tiếng pháo lệnh của địch quân phía trước, đại đội của Nam phân tán ra hai bên nằm rạp xuống đám cỏ tranh trong rừng quan sát. Chỉ trong tích tắc sau đạn pháo và đạn cối của địch quân ào ạt rót xuống cánh quân của Nam đang nằm. Anh nào lanh chân thì nhảy vào các hố đạn pháo vừa nổ ẩn nấp, những anh em khác thì đành chịu trận. Khói bụi bay mù mịt, không ai thấy gì cả, mùi thuốc súng và mùi tanh của máu bốc lên khó chịu. Tiếng la ơi ới. Pháo kích xong vừa xong, cộng quân liền tổ chức xung phong, chúng la hét vang trời. Chốt kháng cự nơi Nam trú ẩn bị trúng một quả B40, hai đồng đội bị chết liền tại chỗ. Nam chỉ thấy một vệt lửa chóa lên trước mắt rồi nằm im bất động.
Khi tỉnh lại tại Quân Y Viện Qui Nhơn, Nam mới biết mình bị mù hai mắt và cụt một chân dưới gối. Những ngày đầu buồn bã vô hạn, ý định tự tử len lỏi vào đầu của Nam nhưng nghĩ đến vợ con, Nam hy vọng các bác sĩ sẽ chữa lành con mắt còn lại. Mỗi tuần vợ Nam đón xe từ Huế vào Qui Nhơn thăm anh một lần. Khi thì đi một mình, khi thì dẫn đứa con trai theo, Nam cũng cảm thấy đôi phần an ủi. Không lúc nào như lúc này, tình thương yêu của vợ con đối với Nam thật là cần thiết. Mỗi lần được vợ con đến thăm, Nam cứ muốn giữ lại bên mình vĩnh viễn. Nam chỉ tiếc là không còn nhìn được diện mạo của mình để biết mình bị thương phế đến mức nào, Nam chỉ biết mình bị mù cả hai và mất một chân.
Hơn một tháng nằm điều trị, vết thương trên người của Nam đã bình phục, người ta làm chân giả cho Nam tập đi và còn được hướng dẫn cách đi của người mù. Cuối cùng bác sĩ cho Nam xuất viện trở về Huế. Nam trở về đời sống thường dân với những bước chân chập chững của người tàn phế. Sau một thời gian, Nam không hòa nhập với cuộc sống mới, Nam bị mặc cảm và thường hay gắt gỏng với vợ với con vì những chuyện không đâu. Thêm vào đó, vì chuyện sinh kế vợ của Nam thỉnh thoảng phải đi vắng nhà mua hàng ở Đà Nẵng, giao con lại cho Nam chăm sóc. Vợ của Nam làm sẵn thức ăn sẵn, dặn Nam tắm rửa và cho con ăn cho đúng giờ đúng lúc. Cuộc sống càng lúc càng khó khăn, vợ của Nam vắng mặt luôn làm Nam ghen tức, hay nổi giận bất tử và có lúc đã vung vài cử chỉ thô bạo với vợ. Quan hệ vợ chồng từ đó trở nên lạnh nhạt, hai người không còn ngủ chung giường và không ai nói với ai lời nào. Giận vợ và bất mãn với chính mình, Nam không đi đâu hết, cứ ngồi lì ở nhà và cũng không muốn tiếp một ai, bạn bè họa hoằn lắm cũng chỉ một hai người đến thăm. Cảm thấy không thể hội nhập vào cuộc sống bình thường và không khí trong nhà khó thở, Nam xin vào trại hồi lực để tìm quên với những người bạn cùng cảnh ngộ.
Một buổi chiều kia, vợ Nam dẫn con vào Trung Tâm Hồi Lực 2 thăm Nam như thường lệ. Hôm đó Nam linh tính như có một chuyện gì xảy ra mà chưa đoán ra được. Vợ Nam ít nói hơn, không ở lâu như mọi khi và bảo đứa con ở chơi với cha để ra ngoài mua thuốc hút. Dạo sau này vợ Nam bắt đầu hút thuốc lá. Thấy lâu rồi mà vợ chưa trở lại, Nam dẫn con ra ngoài cổng hỏi thăm thì người lính gác cho biết thấy vợ của Nam vừa ra khỏi cổng liền đón chuyến xe đò vừa chạy tới. "Như vậy là vợ tôi đã bỏ cha con tôi rồi", Nam bần thần than thở với người lính gác và thầm trách người bạn đời. Nam dẫn con trở về phòng, ngôi yên thật lâu không nói lời nào. Thằng con chạy nhảy chung quanh một hồi rồi kêu đói, Nam tìm cho nó mấy miếng bánh bích qui cho nó ăn đỡ. Nam vẫn ngồi lặng thinh bất động hàng giờ trên giường, suy nghĩ cách nào nuôi con. Đứa trẻ ăn xong, chạy tới chạy lui khóc lóc tìm mẹ, sau cùng mệt quá nó ngủ vùi trong vòng tay của cha.
Từ đó hai cha con sống chung với nhau trong căn phòng nhỏ bé của trại hồi lực. Ban giám đốc trại hay biết chuyện này cũng làm ngơ để cho đứa bé ở lại với người cha tàn tật và còn cho tăng thêm phần ăn. Mỗi khi có phái đoàn nào đến thăm, đứa con của Nam được mọi người chiếu cố tặng cho nhiều bánh kẹo và áo quần mới. Hoàn cảnh của Nam được nhiều người thương cảm, anh em trong trại mỗi khi có thân nhân vào thăm đều dành một ít bánh quà tặng lại cho cha con.
Nam không còn tinh thần để trò chuyện với anh em trong trại như trước nữa. Mỗi khi chiều về, đứa con chạy về phòng ngủ, Nam ngồi lặng hằng giờ vuốt lưng cho con ngủ mà nước mắt cứ chảy dài trên gương mặt xấu xí. Cảm thấy không khí tại đây buồn bã, thương cho thằng con sớm bơ vơ vì không có mẹ cận kề chăm sóc, Nam xin chuyển về Trung Tâm 3 Hồi Lực ở Sài Gòn và tình cờ gặp lại tôi.
Năm 1972, chị Kiều Mỹ Duyên, phóng viên nhật báo Hòa Bình do một linh mục làm chủ nhiệm, đã viết nhiều bài phóng sự về cuộc đời của anh em thương bệnh binh ở Tổng Y Viện Cộng Hòa rất hay, trong đó có câu chuyện đầy thương tâm của Nam, để vận động sự giúp đỡ. Nam được chính phủ cấp cho một căn nhà trong Làng phế binh Thủ Đức, cạnh Nghĩa Trang Quân Đội. Hai cha con, nhờ tiền cấp dưỡng, tạm sống qua ngày. Tôi thì vẫn ở lại với anh em trong trung tâm vì vẫn còn độc thân.
Năm 1975, trời tháng tư trở nên nóng bức, không có gió. Ngày thì rực lửa, đêm thì khó chịu. Tin tức chiến cuộc ngày càng lo âu. Phan Thiết bị thất thủ, ông tướng này bị bắt, ông tá kia bị quản thúc. Quân cộng sản đã vào đến Long Khánh và Lái Thiêu nhưng bị chặn lại vì sự chống trả mãnh liệt của các Sư Đoàn 5, 18 và 25 bộ binh quyết giữ ải địa đầu của Sài Gòn. Nhưng rồi họ cũng tiến quân vào đến Biên Hòa, thủ đô Sài Gòn chỉ còn trong gang tấc, một sớm một chiều sẽ lọt vào tay quân cộng sản mà thôi. Tôi được một số bạn bè cho biết tình hình không còn sáng sủa chút nào, nhưng tất cả đều phó mặc cho số phận. Ý tưởng chính phủ Mỹ không bỏ rơi miền Nam vẫn còn được nhiều người hy vọng. Một số người khác còn nhắc đến những điều khoản vừa mới ký kết trong Hiệp Định Paris hồi đầu năm 1973, v.v…
Nhưng chế độ miền Nam đã bị lung lay nhưng không ai biết. Vài ba thằng bạn được gia đình tới rước về vội vã đến từ giã tôi. Mấy người hàng xóm gần quân y viện cũng lo thu xếp đồ đạc, giao nhà giao cửa cho người khác trông nom rồi dẫn cả gia đình ra phi trường chờ được di tản sang Mỹ. Nhiều người khác còn lưỡng lự giữa đi hay ở vì còn bận cha, vướng mẹ già, con dại không ai nuôi dưỡng. Hàng ngày, những chuyện này xảy ra trước mắt và nơi trang nhất báo chí đăng những tin tức và hình ảnh dòng người di tản trong hỗn loạn làm cho anh em trong trại càng thêm hoang mang.
Còn ba ngày nữa là hết tháng 4. Vào hồi giữa khuya, tiếng còi báo động của nhà máy xi-măng Hà Tiên phát ra liên hồi. Trong làng phế binh nơi Nam ở, mọi nhà đều thức dậy, nhốn nháo. Có nhà mở hé cửa ra nhìn ra đêm tối, có nhà bật đèn sáng trưng để xem động tỉnh thế nào. Tiếng còi báo hiệu trận đánh Sài Gòn bắt đầu. Từ trong đêm tối quân cộng sản dùng xe tăng và xe tải tiến sát vào các vùng ven đô. Tiếng đại pháo và tiếng súng nhỏ nổ lách tách suốt dọc xa lộ Biên Hòa và sông Sài Gòn. Một số anh em chạy ra ngoài lắng nghe và bình luận tiếng súng của hai bên, anh em phân biệt tiếng súng AK và M16, tiếng đạn phóng hỏa tiễn M72 và B40 để biết địch quân đang tiến tới đâu và phe ta đã kháng cự như thế nào. Từ xa vang rền tiếng nổ máy rầm rầm của các loại xe tăng, xe vận tải, cộng thêm tiếng "đề ba" đại pháo của hai bên, tiếp theo sau là những tiếng nổ ầm ầm, nhiều đốm sáng đỏ rực chiếu lên ở một góc trời. Phi trường Tân Sơn Nhứt và Bộ Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam đang bị pháo kích. Trên trời những tia lửa do trực thăng bắn rốc kết xẹt lên lia lịa, thêm vào đó là tiếng đạn đại liên như bò rống từ trực thăng bắn xuống những vùng địch đóng. Bầu trời cứ chiếu sáng liên hồi những đốm lửa rực đỏ. Chiến tranh đang về đến Sài Gòn, có lẽ lần này là lần quyết định.
Tại Trung Tâm Hồi Lực 3, chúng tôi cũng rất hoang mang. Các dãy nhà đều tắt đèn. Nằm trên giường, tôi lắng tai nghe tiếng "đề ba" của pháo từ các tiểu khu Gò Vấp, Thủ Đức bắn yểm trợ các đơn vị bạn. Tiếng đạn đại pháo bay rít trong đêm tối nổ ầm ầm dọc theo sông Rạch Cát, Rạch Chiếc và xa lộ Biên Hòa. Lòng tôi lo lắng, tôi thao thức luôn đến sáng. Sáng sớm hôm đó, một vài người trong làng phế binh Thủ Đức chạy vào trại cho biết mọi người trong làng đều xôn xao, nhiều người đã chuẩn bị hành trang sẵn sàng ra đi nếu xảy ra trận chiến cận kề. Dân trong làng có những kẻ hiếu kỳ lấy xe đạp, xe Honda chạy vòng qua ngã chợ Thủ Đức để coi và quan sát tình hình như thế nào. Những tin tức sốt dẻo từ những người này mang lại càng cho dân làng thêm lo lắng. Đường xa lộ từ ngã tư Bình Thới hướng Sài Gòn đã bị cô lập, cấm đi từ rạng sáng. Một vài cây cầu bị giựt sập, nhiều đường khác bị tắt nghẽn vì bị xe tăng M40 và thiết giáp M113 cản đường. Chỉ tiếc là những người chạy vào trại báo tin không ai biết hiện giờ cha con của Nam ở nơi đâu và đang làm gì.
Nỗi bàng hoàng và thất vọng càng lớn khi sáng ngày 30-4-1975 nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh. Thu mình trên chiếc xe lăn, tôi ngồi bên cửa sổ ở hàng hiên, suy nghĩ miên man từ chuyện này sang chuyện nọ. Tôi không còn nước mắt để khóc cho quê hương và cho chính tôi. Mọi chuyện rồi cũng có ngày kết thúc, nhưng lần này chúng kết thúc trong bi thương. Anh em phế binh chỉ buồn cho thân phận không may của mình. Thôi, đã mất tất cả rồi. Quốc gia này còn mất sá gì thân phận hèn mọn của mình, tôi gượng gạo mỉm cười khi bất chợt gặp một vài người thân quen. Anh em trong trại không ai buồn nói với ai lời nào, mỗi người đều có những ưu tư riêng. Phải sống như thế nào đây trong những ngày sắp tới? Đó là câu hỏi mà mọi anh em chúng tôi đều đặt ra cho chính mình.
"Hòa bình" đã đến rồi. Thật là cay đắng. Ngoài đường, người ta qua lại bàn tán huyên thuyên không như những ngày bình thường khác. Tiếng xe cộ, tiếng cười, tiếng nói nổi lên ồn ào giữa những đoàn quân xa của bộ đội cộng sản. Tôi thấy cuộc chiến này sao thật vô nghĩa. Không biết bao nhiêu người đã ngã gục trên chiến trường, hy sinh xương máu cho chính nghĩa tự do bỗng chốc phải cúi đầu nhường chỗ cho quân địch bước qua. Sự thực đã rõ ràng, miền Nam đã mất và lịch sử đã sang trang. Thật là lạ khi gặp lại một số bạn bè thân quen đồng cảnh ngộ, họ vui mừng cười nói huyên thuyên vì cuộc chiến đã chấm dứt, họ tin rằng hòa bình sẽ trở lại vĩnh viễn và đất nước sẽ không còn những thảm cảnh đau buồn. Cho dù đó là sự thật đi, thân hình tàn phế của họ có gì khá hơn hay cũng chỉ là những kẻ thừa thãi đứng hờ bên lề cuộc sống.
Vui mừng chưa được bao lâu, một đoàn xe Molotova chạy thẳng vào trại. Viên sĩ quan chỉ huy bộ đội kêu gọi tất cả anh em trong trại ra trình diện. Anh em phế binh kẻ chống nạn, người đẩy xe lăn, người thì được thân nhân dìu ra bãi cỏ trước trại ngồi nghe "huấn lệnh". Viên sĩ quan này cho biết anh em chỉ có 24 giờ để rời khỏi nơi đây, ai ở quê nào thì trở về quê đó, ủy ban quân quản sẽ trưng dụng trung tâm này làm căn cứ quân sự. Nói xong, bộ đội miền Bắc chiếm đóng tất cả các ngõ ngách, kiểm soát mọi người. Thế là mạnh ai nấy tìm đường rời khỏi nơi đây. Tôi đón xe Honda ôm về làng phế binh cạnh cầu Rạch Chiếc ở tạm với gia đình thằng bạn thân. Tôi cứ thắc mắc là tại sao gia đình tôi không ai vào đây đón tôi về nhà và cũng rất buồn vì không có tin tức của Nam. Nhưng rồi những biến cố dồn dập vừa mới xảy ra làm tôi quên bẵng.
Ngày đầu tháng 5-1975, giông tố nổi lên dữ dội. Lợi dụng khí trời mát mẽ, tôi rủ thằng bạn thân lấy chiếc xe đạp chở tôi về Sài Gòn, trước hết là để xem sự tình, sau là tôi về thăm mẹ tôi. Chắc là mẹ tôi đang mong chờ tôi trở về lắm. Trước đó hơn hai tuần, mẹ tôi cho người nhắn bảo tôi về nhà ở lại với mẹ vìà không an lòng chút nào khi thấy tôi sống ở đây một mình. Nhưng lúc đó tôi hy vọng sẽ được chính phủ đưa đi nơi khá an toàn hơn vì chúng tôi là những người tàn phế phải được ưu tiên giúp đỡ. Tất cả chỉ là viễn mơ, trong lúc loạn lạc mạnh ai nấy lo, cụt què như chúng tôi chỉ có thua thiệt.
Thằng bạn bị cụt một tay, hai chân còn nguyên vẹn. Nó đạp, tôi lái. Xa lộ Biên Hòa giờ này không đông người qua lại. Tôi thấy rơi vãi đó đây những bộ quần áo lính đủ loại binh chủng. Những cái nón sắt, những cây súng, băng đạn cùng những quân trang, quân dụng, thuốc men và giấy tờ vung vãi trên đường. Những chiếc giày vải, giày bốt, ba lô, bao bị văng tứ tung trên mặt đất. Trong những giây phút hốt hoảng tinh thần khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh kêu gọi anh em binh sĩ buông súng, chắc những người này sợ bị bắt làm tù binh và sẽ chịu những cuộc trả thù đẫm máu nên đã vứt bỏ những vật dụng liên quan tới cuộc đời chiến binh. Tôi thấy từng đoàn người đàn ông ăn mặc lếch thếch đi dọc hai bên xa lộ, có người chỉ mặc chiếc áo bên dưới là quần thun ngắn, có người đi chân đất và nhiều người chỉ mặc cái quần dân sự đi mình trần. Có lẽ họ đã vào nhà dân xin đại một bộ áo quần nào đó để mặc rồi đi bộ về Sài Gòn. Thật là buồn, một quân đội hùng mạnh được xếp vào hàng thứ năm trên thế giới nay ra nông nỗi này. Thất bại nào nhục nhã hơn.
Đi lần về phía nhà máy xi-măng Hà Tiên, tôi thấy xác một chiến xa M48 bị bắn cháy đen thùi, hai khẩu pháo 105 ly nằm trước sân nhà máy, nòng súng hướng thẳng lên trời, vỏ đạn lăn lóc đầy mặt đất. Xác nhiều chiến sĩ Địa Phương Quân nằm rải rác đó đây, ruồi bu đen kịt. Bên kia xa lộ, dưới bờ mương và trong bụi dừa nước cạnh bờ sông Rạch Chiếc, xác một vài chiến binh nằm chết úp mặt. Tiếng súng cuối cùng vừa chấm dứt, trận chiến đã kết liễu, xác thân các chiến sĩ hai bên thù địch nằm phơi ra đó không ai buồn đến nhận diện, thật là đau xót. Chết trong giờ thứ 25 này không gì bất hạnh cho bằng. Giờ này đây chắc mẹ cha, vợ con, anh em các anh đang ở nhà trông ngóng, mong các anh đoàn tụ gia đình.
Đứng trước thảm cảnh này, tôi không ngăn được xúc động, xót thương cho kiếp người phù du, ngắn ngủi. Tôi chỉ biết thầm cầu nguyện và thúc bạn tôi đạp xe nhanh hơn. Lòng mong muốn được gặp mẹ càng nung nấu trong tôi. Càng đi về gần Sài Gòn, xác các đoàn quân xa choáng cả đường đi, súng đạn, áo quần và đồ đạc nằm la liệt trên mặt đường.
Cuối cùng chúng tôi cũng vào đến Sài Gòn. Trên đường xe cộ qua lại đông đúc hơn bình thường, không còn ai tôn trọng luật đi đường gì nữa. Từng toán bộ đội thân hình gầy gò, đầu đội nón cối, mặc áo quần màu xanh lá rộng thụng thịnh mang dép râu vác súng đi tuần ở khắp các nẻo đường. Xe tăng, xe Molotova đậu ngổn ngang hai bên lề đường. Một không khí ngột ngạt bao trùm Sài Gòn. Chúng tôi đi về phía Chợ Lớn. Vào con hẻm cũ, mẹ tôi đã đi vắng từ hồi nào. Hỏi thăm bà con lối xóm, họ cho biết vào những ngày cuối tháng tư chị hai tôi xuống dẫn mẹ tôi đi. Đi đâu thì không ai biết. Đứng trước căn nhà đóng kín cửa, tôi buồn bã rủ anh bạn ra ngoài quán cóc uống một ly cà phê, ăn qua loa một tô mì rồi đạp xe về lại làng phế binh. Tôi nhớ thương mẹ già nhưng cũng lo lắng cho cuộc sống của tôi trong những ngày sắp tới. Ai trả tiền cấp dưỡng cho tôi và ở nơi đâu, đó là hai câu hỏi luôn luôn ám ảnh tôi khi rời khỏi con hẻm. Cũng may, vì ở trong trung tâm tôi ít tiêu xài nên cũng dành dụm được chút đỉnh nên cũng đủ để tiêu xài ít ra trong một vài tháng.
* * *
Giữa tháng 6-1975, dân chúng trong làng phế binh Rạch Chiếc lại một phen kinh hoàng. Tin đồn ủy ban quân quản sẽ đuổi tất cả dân cư ở tại đây ra đi và bộ đội cộng sản vào chiếm giữ khu cư xá này làm tinh thần mọi người dao động mạnh. Làm sao không tin được, những người từ các tỉnh đã mắc kẹt trong các ngày cuối cùng về đây cho biết làng phế binh tại các tỉnh đều đã bị bộ đội cộng sản chiếm đóng. Dân chúng bàn tán xôn xao. Cũng nên nhắc lại là dân cư trong làng là những người phế binh từ khắp nơi đã về đây sinh cơ lập nghiệp. Sau những tranh đấu chính đáng, chính quyền miền Nam đã cho xây dựng ngôi làng này và cấp phát miễn phí cho phế binh. Tùy theo hoàn cảnh, mỗi người làm chủ một căn nhà lớn nhỏ để an tâm vui hưởng số ngày còn lại của đời phế binh.
Giờ đây trong tình cảnh này, ai nấy đều bồn chồn lo lắng, ít nhiều chán nản trước những loại tin đồn như thế. Người này hỏi người kia, chừng nào về quê hay dọn đi nơi khác. Phước Thợ Hàn nắm tay tôi thân mật giã từ, anh vừa mướn được xe chở đồ đạc về quê. "Tôi về chợ Thầy Phó Vĩnh Long, khi nào có dịp về Sài Gòn tôi sẽ ghé thăm anh". Anh Ba Hải Quân thì không muốn đi đâu cả nhưng bà vợ cứ cằn nhằn hoài anh phải nghe theo, gia đình anh đi về quê ở Bến Lức. Dù muốn dù không thằng Năm Què cũng phải về ở với cha mẹ. Năm là con trai một, cha mẹ tuổi già trên bảy mươi, gia đình có bảy mẫu ruộng nếu nó không về thì nhà nước sẽ tịch thu hết ruộng. Riêng anh Chín Lắc thì không còn quê để về, chính phủ cấp phát cho anh một căn nhà tại làng này thì chính nơi này là quê hương. Anh nói phải quyết giữ lấy, không đi đâu cả, dù có bị bắt buộc, chết thì thôi. Anh Sáu Lưu là cựu sĩ quan, đã di tản từ miền Trung về đây hồi tháng 3-1975 cùng với gia đình và vợ con, ở chưa được bao lâu thì đã chuẩn bị lên đường vào trại tập trung học tập cải tạo mười ngày. Sự thực thì anh bị tập trung cải tạo gần mười năm mới được thả về mặc dù là phế binh bị cụt một chân. Mọi người trong lúc này, tùy hoàn cảnh, tùy cuộc sống mà quyết định đi hay ở lại trong làng.
Cuối cùng tin đồn bị đuổi ra khỏi làng phế binh trở thành sự thật. Khoảng cuối tháng sáu, ủy ban quân quản huyện Thủ Đức cử một toán bộ đội và du kích vào đây triệu tập bà con ra giữa sân rồi tuyên bố mọi người phải dọn ra khỏi nơi này trong vòng một tuần lễ. Trong thời gian đó, ủy ban quân quản dành ưu tiên cho những gia đình tình nguyện đi lập nghiệp trên vùng kinh tế mới ở Sông Bé.
Đầu tháng 7-1975, khoảng 3 giờ khuya, dân chúng trong làng đã tụ tập trước sân cùng với đồ đạc để chờ đoàn xe vận tải chở đi lên vùng kinh tế. Quang cảnh thật ồn ào, nhộn nhịp. Chẳng ai ngủ được bao nhiêu kể cả con nít, mọi người đều lo lắng cho tương lai với cuộc sống mới. Kinh tế mới là gì, chẳng ai biết cả. Nhà nước biểu đi thì đi. Người ta đi thì mình cũng đi. Một số gia đình nghèo đã bán hết đồ gia dụng, bàn ghế, tủ giường… với giá rẻ để có tiền dằn túi khi đến nơi mà tiêu xài.
Những cái bắt tay, những câu giã từ cùng những lời nói vội vàng của các bạn bè, hàng xóm để bước lên xe cùng với gia đình đi vùng kinh tế mới vang lên liên tục. Đoàn xe lăn bánh. Chiếc xe cuối cùng vừa khuất nẻo, tôi miên man liên tưởng khi đến nơi các bạn tôi sẽ làm việc gì để sinh sống với tấm thân què cụt. Trong khi đó, có anh bạn bị mù hai mắt, có anh bị cụt hai tay cũng xin đi vùng kinh tế mới, các anh có cày cuốc được gì đâu mà cũng xin đi về vùng đất chết. Họ tình nguyện đi vì không muốn sống chung với kẻ thù hay vì hy vọng có một cuộc sống khá hơn?
Những người còn ở lại trong làng phế binh phải đương đầu với hoàn cảnh mới. Gia đình anh Bảy Ca, người cho tôi tạm trú đã giao hẳn căn nhà cho tôi cùng với giấy tờ, đã đăng ký đi vùng kinh tế mới hồi sáng nay. Anh Bảy dặn là tôi cứ ở lại giữ nhà, khi nào yên thì anh sẽ về lại đây, tôi ừ à cho qua chuyện. Thật ra tôi cũng chẳng thiết giữ căn nhà này làm gì vì không đủ sức trang trải những chi phí điện nước và ăn uống hằng ngày. Tôi có ý định rủ Nam cùng đứa con về đây ở chung, nhưng Nam cũng đã được cấp một căn nhà ở làng phế binh lớn nhất trên Thủ Đức rồi. Tôi chỉ biết thở dài lo âu.
Tin đồn nhà nước cộng sản lấy hết nhà trong làng trở thành sự thực, ủy ban quân quản huyện Thủ Đức đã chính thức vào tiếp thu và chia khu vực, lấy những khu nhà vắng chủ cấp phát cho một số đơn vị bộ đội vào ở. Dân cư lại một lần nữa phải sắp xếp đồ đạc dọn nhà. Những gia đình ở trong khu vực bị lấy nhà được hoán đổi sang những căn nhà bỏ trống ở các con đường khác. Có người phải đổi nhà, dọn nhà tới hai lần. Trong làng, không khí im lìm vắng vẻ. Chỉ còn một vài gia đình quyết định ở lì trong làng phế binh, trong đó có tôi vì không có thân nhân. Mẹ và chị hai tôi giờ này không biết ở đâu.
Cuộc sống trở nên khó khăn. Một hôm Nam cùng thằng con nhỏ từ Làng Phế Binh Thủ Đức tìm đến thăm tôi, cùng sống chung với tôi mấy ngày. Làng phế binh nơi Nam ở cũng đang bị giải tỏa, Nam cho biết sẽ về lại quê cũ ở nhờ nhà người chị thứ ba, người thương Nam nhất. Mặc dù không thấy đường, Nam kể lại cho tôi nghe những mẩu chuyện thương tâm mà Nam đã nghe và chứng kiến.
Ngày sau khi tôi rời Trại B Trung Tâm 3 Hồi Lực, Nam vào lại trại thăm tôi cùng bạn bè và định ở lại chơi vài hôm. Nhưng bộ đội gác cửa không cho ai vô, Nam đành dẫn con ra ngoài quán nước bên cạnh ngồi nghỉ. Tại đây Nam được một anh bạn phế binh cũ đến chào hỏi thăm. Anh bạn này bị cụt một tay không có thân nhân nên được gia đình chủ quán tốt bụng cho ở tạm, hằng ngày anh ra đây phụ lau chùi bàn ghế và phụ bếp. Nam hỏi thăm thì biết tôi đã về làng phế binh Rạch Chiếc và hôm nay đến thăm tôi.
No comments:
Post a Comment