Monday, January 9, 2012

Mùa Xuân Qua Thi Ca Việt Nam

 Dương Viết Điền

Nói đến mùa Xuân là nói đến mùa ấm-áp, khí hậu thật mát dịu trong lành. Bầu trời luôn luôn sáng-sủa và quang-đảng với trời xanh, mây trắng, nắng hồng. Mùa Xuân là mùa cây cối đâm chồi nẩy lộc. Hàng ngàn lọai hoa đua nhau khoe sắc dưới ánh nắng xuân chan-hoà khắp nơi. Bên những đoá hoa khoe màu trong  nắng, những đàn bướm  tung-tăng lượn qua lại như muốn tỏ tình.
Trước cảnh đẹp thiên-nhiên với nghìn cây đang đơm  bông kết trái, trước cảnh đẹp tuyệt-vời của  ngàn đóa  hoa xuân có bướm lượn quanh ngây-ngất tình, trước cảnh đàn chim nên thơ hót líu-lo trên cành cây dưới nắng xuân hồng ấm-áp, trước cảnh thơ-ngây của  những cô gái  xuân đến tuổi dậy thì mơn-mởn đào tơ đang e-ấp tình xuân, các thi- nhân Việt-nam đã xúc-động để rồi sáng-tác nên hàng trăm câu thơ ca-ngợi xuân về, sáng-tác hằng ngàn câu thơ thêu-dệt tình xuân.
Nếu ngày xưa ở bên Trung-Quốc đời Đường, thi-sĩ Trịnh-Cốc đã tả cảnh biệt-ly giữa mùa xuân  qua mấy câu thơ thật nồng-nàn thắm-thiết :

       “ Dương-Tử giang đầu dương liễu xuân
          Dương hoa sầu sát độ giang nhân
          Sổ thanh phong dịch ly đình vẩn
          Quân hướng tiêu-tương, ngã hướng tần.”

         ( Đầu sông Dương-Tử liễu xanh
           Hoa dương khiến khách qua sông lệ tràn
            Sáo chiều vẵng tiếng ly-tan
            Tiêu-tương bạn đến, đường Tần tôi qua. )
                                    ( Chi-Điền dịch )

thì tại việt-nam, các thi- nhân cũng đua nhau tả cảnh xuân  về trên đất  Việt.
Hình ảnh mùa xuân rõ nét nhất là mấy câu thơ thật trong sáng và nhẹ-nhàng của thi-sĩ Nguyễn-Du trong tác-phẫm  truyện Kiều:

          “ Ngày xuân con  én đưa thoi
            Thiều-quang chín chục đã ngoài sáu mươi
            Cỏ non xanh tận chân trời
            Cành lê trắng  điểm một vài bông hoa.”

Tiếp theo thi-sĩ Nguyễn-Du, các nhà thơ Việt-nam thời tiền  chiến cũng đã  tả cảnh xuân về qua  những dòng thơ  thật tuyệt đẹp và trữ tình, nghìn năm vẫn còn xúc-động và nhớ mãi không quên . Ta hãy nghe nhà thơ Nguyễn-Bính tả cảnh xuân về :

          “ Từng đàn con trẻ chạy xum-xoe
            Mưa tạnh trời quang nắng  mới hoe
            Lá  nỏn cành non ai tráng bạc ?
            Gió về từng  trận gió bay đi   .”
                                ( Xuân về )

Khi trời quang mây tạnh, nắng xuân lại về giữa những cơn gió chiều nhè nhẹ lướt qua đồi khiến cho lòng người lâng-lâng khoan-khoái, nhiều lúc muốn ôm mùa xuân vào lòng để ấp-ủ tình xuân.
Xúc-động trước cảnh chiều xuân ngập nắng, nhà thơ Huy-Cận đã tả cảnh xuân về làm rung-động lòng  người :

         “ Xuân gội tràn đầy
           Giưã lòng người hoan-lạc,
           Trên mình hoa cây…
           Nắng vàng lạt lạt
           Ngày đi chầy chầy…
           Hai hàng cây xanh
           Đâm chồi hy-vọng
           Ôi! duyên tốt lành
           Em ngà đưa võng
           Hương đồng lên tranh
           Kề bên đường tạnh
           Cỏ mọc bờ non
           Chiều xuân tươi mạnh
           Gió bay vào hồn .”
                ( Chiều xuân )

Cũng cảnh chiều xuân như Huy-Cận, nhà thơ Quách-Tấn lại rung cảm hồn mình theo cảnh hoàng hôn qua  những dòng thơ chan-chứa xuân tình :
      
         “ Chim mang về tổ bóng hoàng-hôn
            Vàng lửng-lơ  non biếc đọng cồn
            Cành gió hương xao hoa tỉ muội
            Đồi sương sóng lượn cỏ  vương tôn
            Khói mây quanh-quẩn hồi chuông vọng
            Trời biển nôn-nao tiếng địch dồn
            Thưởng cảnh ông câu tình-tự quá
            Thuyền con chở nguyệt đến cô-thôn.”
                                    ( Chiều xuân )   

Từ cảnh  chiều xuân đến cành hoàng-hôn, từ cảnh hoàng-hôn đến cảnh đêm xuân  ta thấy cảnh nào thi-nhân cũng sáng-tác nên những dòng thơ bất-hủ nghìn đời. Nếu nhà  thơ Huy-Cận với “nắng vàng lạt lạt hàng cây xanh…Cỏ mọc bờ non,gió bay vào hồn.”, nếu nhà thơ Quách Tấn với “ Đồi nương sóng lượn cỏ vương tôn…thuyền con chở nguyệt đến cô-thôn.”, thì nhà thơ Bích-Khê không ngần-ngại sáng tác những dòng thơ đầy man-dại với nắng, với trăng, với sương cùng lau-lách:
        
          “ Hỡi lời ca man-dại
            Điệu nhạc thở hơi rừng
            Đêm nay xuân đã lại
            Thuần-tuý và tượng trưng
            Nắng lên núm vú đồi
            Sữa  trăng nhỉ nhỉ giọt
            Bay qua cụm liễu  phơi
            Những cườm tay điểm hột
            Sương phất-phơ lau-lách .”
                     ( Xuân tượng trưng )

Ta thấy lối tả xuân thật  man-dại như Bích-Khê cũng có nhiều nhà thơ sáng-tác. Nhưng điển-hình cuả phái “tượng-trưng” này không ai qua mặt được Bích-Khê chăng?
Còn lại là những nhà thơ chuyên sáng tác những dòng thơ trong sáng và nhẹ nhàng chứ không man-dại. Khi nói đến muà xuân, hầu hết các thi- nhân việt-nam thường  ca-tụng nắng xuân, gió xuân rất nhiều. Ta hãy nghe nhà thơ Nguyễn-Giang con của nhà văn Nguyễn văn Vĩnh, dệt mấy dòng thơ xuân thật tình-tứ :

          “Gió xuân  phơ-phất thổi trong cành
            Lớp lớp bên đường bóng lá xanh
            Cây cỏ cười tươi hoa mủm-mỉm
            Học-sinh qua lại áo phong-phanh.”
                             ( Xuân )

Mặc dầu nắng xuân ,gió xuân là những hình ảnh tuyệt đẹp cứ  mỗi  độ xuân về, nhưng mưa xuân lại là hình ảnh độc-đáo nhất của  mùa xuân. Chính hình ảnh nầy đã làm cho thi-sĩ Anh-Thơ khoan-khoái mà sáng-tác những dòng thơ thật đẹp và thât buồn:

          “Mưa đổ bụi êm-êm  trên bến vắng
            Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
            Quán tranh đứng im-lìm trong vắng lặng
            Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi-bời. “
                                   ( Chiều xuân )      

Qua những dòng thơ vừa được trình bày  ở trên, ta thấy các thi-nhân chỉ tả cảnh mùa xuân mà không đề cập gì đến nắng xuân cả. Nhưng đọc qua bài “Mùa xuân  chín” của Hàn mạc Tử, ta thấy nhà thơ đã vừa tả cảnh xuân về thật đẹp-đẽ và nên thơ vừa lồng vào trong đó một vài  hình  ảnh của các cô thôn—nữ đang hát trên đồi dưới nắng xuân sao mà quyến-rũ :

              “Trong làng nắng ửng : khói mơ tan
                Đôi mái nhà tranh lấm-tấm vàng
                Sột-soạt gió trên tà áo biếc
                Trên giàn thiên-lý bóng xuân sang
                Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
                Bao cô thôn-nữ hát trên đồi
                Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
                Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.”   
                             ( Mùa xuân chín )

Qua những thi-phẩm và những nhà thơ vừa được trình bày, ta thấy hầu hết trong các thi-phẩm đều được tả cảnh mùa xuân với nắng xuân tỏa rộng khắp trời, với gió xuân man-mác mùa trăng  với mưa xuân mát dịu và u-buồn. Nhưng  nếu tả cảnh xuân  về mà không đề-cập đến tình yêu là một sự thiếu-sót trầm-trọng trong thi-ca và mùa xuân sẽ  mất đi nhiều ý-nghĩa.Chính vì vậy mà nhiều  thi- nhân đã bộc lộ tình yêu giữa mùa xuân đầm-ấm qua những dòng thơ bất-hủ, lãng-mạn chất chưá những hương tình. Ta hãy nghe nhà thơ J.Leiba nói về tình yêu giữa mùa xuân :         

             “ Mồng một vui xuân hai chúng ta
               Em muời  ba tuổi tính còn thơ
               Em anh còn cãi nhau như  trẻ
               Em dỗi, anh nhìn dạ ngẩn-ngơ
               Xuân này xuân trước cách bao rồi
               Nhớ buổi xuân nào tiếc phút vui   
               Ngày nay nhớ lại buổi vô-tình
               Anh lặng yêu em ,em nhớ  anh
               Rồi mùa xuân qua xuân lại lại
               Biết rằng sau có vẹn ba-sinh .”  
                                    ( Năm qua )

Mùa  xuân đến rồi mùa xuân đi. Tình yêu vì  vậy lắm lúc cũng như mùa  xuân, cũng đến rồi cũng đi, nghĩa là yêu nhau rồi lại ly-biệt, khiến cho cảnh xuân nhiều  khi cũng buồn da-diết.
Điển hình là mấy dòng thơ sau đây của thi-sĩ  Lưu-trọng Lư với cảnh xuân về rồi xuân đi khiến “chàng.” cũng đi theo mùa xuân
không hẹn ngày trở lại :

           “ Năm vừa rồi
              Chàng cùng tôi
              Nơi vùng giáp mơ
              Trong gian nhà cỏ
              Tôi quay tơ
              Chàng ngâm thơ
              Vườn sau canh giục-giã
              Nhìn ra hoa đua nở
              Dừng tay tôi kêu chàng :
              Này,này,bạn : xuân sang
              Chàng nhìn xuân mặt hớn-hở
              Tôi nhìn chàng lòng vồn-vã
              Rồi ngày lại ngày
              Sắc màu : phai
              Lá cành : rung
              Ba gian : trống
              Xuân  đi :
              Chàng cũng đi
              Năm nay xuân còn trở lại
              Người xưa  không thấy tới.”
                          ( Tiếng thu  )

Mùa xuân là mùa đẹp  nhất trong năm , tuổi  xuân là tuổi đẹp nhất của đời người. Nhất là những cô gái dậy thì lúc đang ở tuổi trăng tròn lẻ. Cái tuổi thơ-ngây tràn ngập tình xuân. Với tuổi này nếu bắt đầu yêu, các cô  sẽ xúc-động và thường có  những giấc mộng tương-tư, để rồi nhớ thương sầu-thảm. Và hình ảnh người yêu lắm lúc canh-cánh bên lòng.Yêu nhau khi xuân đến rồi xa nhau khi xuân lại  về để không bao giờ gặp nhau nữa, khiến “ cô buồn,cô tiếc…cô nhớ ngày xuân, nhớ tuổi thơ.” như thi-sĩ Đông-Hồ dệt những dòng thơ thật lãng-mạn nhưng lại buồn vời-vợi, khiến nhiều lúc nghẹn-ngào vì khóc tình quân :

                “Tưng-bừng hoa nở bóng ngày xuân
                   Rực-rỡ lòng cô hoa ái-ân
                   Như đợi như  chờ, như nhớ tưởng
                   Đợi chờ tưởng nhớ bóng tình quân
                   ……………………..
                   Aí-tình nào phải bướm ngày xuân
                   Tình-ái ngày  xuân chỉ một lần
                    Một thoáng bay qua không trở lại
                    Gái xuân đỏ lệ khóc tình quân
                    ……………………….
                    Lủi-thủi trên đường cô ngẩn-ngơ
                    Chốn nầy đuổi bắt bướm ngày xưa
                    Cô buồn, cô tiếc,,cô ngâm ngùi
                    Cô nhớ ngày xuân nhớ tuổi  thơ .”
                               ( Cô gái xuân )

Hay là :

                  “ Ngày vui không có mấy
                     Đôi lứa cũng xa nhau
                     Tuổi xuân còn mãi đâu
                     Biệt-ly nay  mới biết
                     Chỉ xiết nỗi thương đau
                     Giọt lệ một lần ứa
                     Biết bao lần chan-chứa
                     Một lần khi bắt đầu
                     Biết  bao lần sau nưã !.”    
                        ( Cô gái xuân )

Hoặc là :

                  “Kể từ khi quen nhau
                    Vừa mười ba tuổi đầu
                    Tuổi xuân tuổi vui sướng
                     Nào có biết chi sầu.”

 Xuân đến là ngày hội hoa đăng của muôn lòai  trên  trái đất, là ngày vui của loài người vì  tất cả như trẻ lại để thưởng thức cái đẹp khi xuân về. Ấy thế mà nhiều người lại không muốn mùa xuân về, không muốn mùa xuân xuất hiện trong đời, vì mỗi lần xuân về là mỗi lần làm cho họ đau khổ triền-miên. Ta hãy nghe nhà thơ Chế lan Viên nức-nở lệ sầu khi mùa xuân đến :

                “ Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
                  Đem chi xuân lại gợi thêm sầu ?
                  Với tôi tất cả như vô nghĩa
                  Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau
                  Ai đâu trở lại mùa thu trước
                  Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
                  Với của hoa tươi muôn cánh rã
                  Về đây đem chắn nẽo xuân sang.”
                                      ( Xuân )

Nói chung ,cũng  giống như  mùa thu, các thi-nhân Việt-nam đã sáng tác rất  nhiều bài thơ ca-ngợi mùa xuân với hàng ngàn cây xanh tươi mát đang kết trái đơm bông, với những áng mây chiều trôi giữa nắng hồng, với những nụ cười tươi như hoa nở  của các cô gái xuân đang  e-ấp xuân tình. Chính vì thế, thi- ca Việt-nam càng ngày càng thêm phong-phú nhờ những dòng thơ xuân bất-hủ ngàn năm .
 
 
 
 

Xuân và người lính Việt Nam Cộng Hòa

http://img233.imageshack.us/img233/9555/uh1vnaf7yr6.jpg
http://img177.imageshack.us/img177/5281/uh1vnaf27ri9.jpg
http://i242.photobucket.com/albums/ff84/RevengeSeeker01/Coup3.jpg
Xuân và người lính Việt Nam Cộng Hòa trong nhạc Việt • Lê Hoàng Thanh

Dù ai buôn bán nơi đâu
Nhớ đến ngày Tết rủ nhau mà về.

(Ca Dao)

Vâng, đó là truyền thống của người Việt chúng ta từ xưa đến nay. Hể mỗi độ Xuân về là mọi người đều muốn sum họp với cha mẹ, gia đình con cái và bạn bè quyến thuộc nói chung để cùng vui Tết, cho dù suốt năm phải xa gia đình vì sinh kế. Tuy nhiên vẫn có những người gánh chịu nhiều thiệt thòi, phải dầm sương, ngủ ở ven rừng, bờ suối để trấn thủ biên thùy. Họ chỉ hưởng được chút hương vị Tết qua những món quà do thân nhân gởi đến, thiếu hẳn cái không khí Tết giống như ở hậu phương, thiếu hẳn tiếng trống tiếng kèn rộn ràng, không có những màn múa Lân ngoạn mục v.v…
Nhưng họ là ai? Họ chính là những người lính của quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Những người đã anh dũng chiến đấu trong suốt gần 21 năm để bảo vệ miền Nam tự do, từ 1954 cho đến khi bị thượng cấp ra lệnh bắt buộc buông súng đầu hàng cuối tháng 4.1975. Có nhiều người đã nằm xuống hay đã chết trong các trại tù được mệnh danh là “trại cải tạo". Cũng có nhiều người còn sống, đang hiện diện trên đất mẹ hoặc đang định cư tại một đệ tam quốc gia nào đó trên thế giới.
Để tri ơn những người lính VNCH nói trên, còn sống cũng như đã chết, người viết xin phóng tác một số bản nhạc viết về “Xuân và Người Lính” thành bài tạp ghi này để kính tặng tất cả những người lính VNCH đã anh dũng chiến đấu bảo vệ miền Nam VN cho đến ngày 30.04.1975, cũng như vinh danh sự hy sinh cao cả của những chiến binh đã nằm xuống cho chúng ta được sống.
Trước khi chính thức đi vào chủ đề của bài tạp ghi, người viết xin được mượn bài hát sau đây để giới thiệu đến quý độc giả là người lính VNCH tuy rất anh hùng, rất sắt đá trên chiến trường nhưng họ cũng là con người, là những chàng trai trẻ nên con tim của họ cũng chất chứa nhiều tình cảm, cũng biết rung rộng và vì tình yêu quê hương đất nước nên họ sẳn sàng hy sinh tình cảm riêng tư để lên đường theo tiếng gọi non sông. Tình cảm của những người lính được thể hiện rõ nét qua tác phẩm rất sôi động của Nhạc sĩ Y Vân:

Anh là lính đa tình
Tình non sông rất nặng
Tình hải hồ ôm mộng
Tình vũ trụ ngát xanh
Và mối tình rất êm đềm là tình riêng trong lòng
anh yêu em …

Có lúc muốn lấy hoa rừng, anh gửi về em thêu áo
Và ngàn vì sao trên trời, kết thành một chuỗi em đeo
Dù rằng đời lính không giầu,
mà chắc không nghèo tình yêu…

Tình Lính (Y Vân)

Trish Thùy Trang hát
http://www.youtube.com/watch?v=Fp3RgPyPN8g
Có thể nói, khi đề cập đến hay bàn về chiến tranh, hầu như ai trong chúng ta đều chán ngán. Nhưng hoàn cảnh đẩy đưa vì cộng sản Bắc Việt (csBV) luôn nuôi tham vọng thôn tính miền Nam nên mới gây ra cảnh chinh chiến. Nếu nhà ai nấy ở, kẻ Bắc người Nam, mạnh ai nấy lo thì làm gì có chuyện đổ máu xảy ra, theo ý tôi. Sau nhiều mùa Xuân tương đối thanh bình đi qua thì phải nói Tết Mậu Thân 1968 là cái Tết mà dân miền Nam VN không bao giờ quên được, nhất là dân xứ Huế. CsBV đã xem thường hiệp ước đình chiến trong ba ngày Tết, lợi dụng sự tin cậy của dân miền Nam và lợi dụng cơ hội biên thùy bị bỏ ngõ và các tiền đồn của các tỉnh hay thị xã không được canh gác cẩn thận như xưa nay vì binh sĩ VNCH các cấp được nghỉ phép về quê ăn Tết với gia đình vợ con, csBV đã ra lệnh tổng tấn công, tràn về thành phố đúng vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Chúng đã dày nát nhiều tỉnh lị của miền Nam, nhẫn tâm giết hại không biết bao nhiêu người dân vô tội gây tang thương cho biết bao gia đình trong khi mọi người đang vui mừng đón Xuân.
Chiến chinh từ xưa đến nay, dầu xảy ra bất cứ ở đâu đều gây nên nhiều đau khổ, tang tóc. Chuyện cha xa con, vợ xa chồng, gia đình ly tán là chuyện không thể tránh được. Bên cạnh những mất mát về vật lực cũng như tài lực, người dân và nhất là những người lính trận chẳng những đã hy sinh máu huyết của mình, đã bị tổn thương và trở thành phế binh mà đôi khi còn phải bỏ mạng để cho bà con, thân nhân và đồng hương được sống. Vì thế mơ ước quê hương thanh bình là ước mơ của mọi người, từ quân cán chính cho tới phó thường dân, học trò… Nhạc sĩ Hoài Linh và Tấn An đã mượn lời ca tiếng hát chuyển đạt nỗi niềm của những chàng trai khóat áo chiến y vừa mới từ biên cương trở về thăm người yêu ở hậu phương với lời cầu chúc đầu năm chân thành, rất nồng nàn:
Ngày đầu Xuân chúc non nước thanh bình,
ngày mồng hai chúc cho lứa đôi mình
Và mồng ba anh chúc cho đôi mắt em xinh,
Má em hồng cho nét Xuân mãi trong lòng anh.
Từ ngoài biên anh vừa về đến, đôi lời trìu-mến chân thành chúc em …
Đầu Xuân xin chúc quê hương yên bình thành đô đến nơi đồng xanh,
Ý lành nước non vươn màu xanh mới đón Xuân thắm trong niềm vui .

Đầu Xuân Lính Chúc (Hoài Linh – Tấn An)

Thanh Trúc, Spencer, Phillip Huy, Đoàn Phi, Quốc Khanh hát
http://www.youtube.com/watch?v=YUMl73MjbCg
Ước mong quê hương không còn chiến tranh cũng là tâm trạng của cố nhạc sĩ đa tài Trần Thiện Thanh (TTT). Nhưng sự mong ước của nhạc sĩ TTT, một nhạc sĩ thuộc ngành tâm lý chiến dù, không ủy mỵ và ru ngủ như đã được thể hiện qua một số nhạc sĩ phản chiến thân cộng thời bấy giờ. Trần Thiện Thanh tế nhị hơn khi diễn tả tâm trạng mình, tâm trạng của một người lính VNCH. Anh đã nhẹ nhàng thố lộ cùng người yêu:
Hẹn em khi khắp nơi yên vui
Mùa xuân ngày đó riêng đôi mình
Phút giây mộng mơ nâng cánh hoa mai
Nhẹ rớt trên vai đầy, hồn chơi vơi
Ngỡ giữa xuân vàng, dáng em sang

(Đồn Vắng Chiều Xuân)

Johnny Dũng hát
http://www.youtube.com/watch?v=ym-fNCZle1c
Trong khi mọi người ở hậu phương, từ thôn quê đến thành phố đang chờ đón nàng Xuân, đang đợi Giao Thừa về để đốt pháo mừng năm mới về thì có rất nhiều người lính trận của quân đội VNCH không có được diễm phúc này. Nhạc sĩ Nguyễn văn Đông đã mượn lời nhạc phát hoạ nên một khung cảnh buồn, đơn lẻ mà khi tiếng hát được cất lên chúng ta không thể nào quên được hình ảnh người lính đang đồn trú nơi rừng sâu giữa lúc quê hương còn chinh chiến:
Đón Giao Thừa một phiên gác đêm
Chào xuân đến súng xa vang rền
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
Ngỡ rằng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi

Phiên Gác Đêm Xuân (Nguyễn văn Đông)

Bảo Tuấn hát
http://www.youtube.com/watch?v=d6ePQapGxqI
Vì hoàn cảnh, bạn bè có kẻ phải lên đường làm bổn phận người trai thời loạn, người thì may mắn được ở lại hậu phương nhưng chiến tranh vẫn luôn hiện hữu trong tâm cảm của hầu hết mọi người dân miền Nam Việt Nam nói riêng. Tâm trạng đó đã được Hoài Linh diễn tả như sau:
Tôi đón xuân giữa lúc còn chiến chinh
Chúc mừng xuân bên ly rượu hành trình
Chúc người trai đi xây dựng hòa bình
Để cho đất nước vui trọn mùa xuân thắm xinh

(Tâm Sự Ngày Xuân – Hoài Linh)

Thiên Trang hát
http://www.youtube.com/watch?v=J2-9k6w68CE
Thời gian qua đi không chờ đợi. Đông qua và mùa Xuân lại trở về. Tình cảm của những người ở hậu phương dành cho những anh lính chiến ngoài miền biên cương lúc nào cũng đong đầy. Tâm cảm này đã được Lê Dinh và Minh Kỳ khéo léo diễn đạt qua bản nhạc rất trữ tình:
Thấm thoát là đây . . . một mùa Xuân mới . . . với ngàn cánh mai vàng
Nụ cười trên môi . . . trên làn má ai . . . đón Xuân tươi vừa sang …

Xuân nay tôi chúc . . . người miền biên cương . . . muôn ngàn câu mến thuơng
Mong Xuân yên lành . . . trong bao hương tình
Để rồi người thêm vui . . . cuộc sống thanh bình

(Hạnh Phúc Đầu Xuân của Lê Dinh – Minh Kỳ)

Hoàng Oanh, Trung Chỉnh hát
http://www.youtube.com/watch?v=Exx8Lprn7Rw
Tình thương mẹ con trong xã hội Việt chúng ta rất đậm đà thắm thiết. Bất cứ ở đâu, dù đang sống xa nhà hay đang trấn đóng ngoài biên thùy, ven rừng, người con lúc nào cũng nghĩ đến gia đình, đặc biệt nghĩ rất nhiều đến mẹ, có lẽ vì từ nhỏ được mẹ bồng bế, nâng niu. Lắm khi ôn lại quá khứ thanh bình ngày nào, để rồi tiếc thương và thầm mơ mau có ngày hội ngộ cùng mẹ hiền. Nhật Ngân đã dùng lời nhạc để diễn đạt thay tâm trạng của những chàng trai hùng thời chiến chinh như sau:
Đêm nay núi rừng gió nhẹ sang xuân
Thoáng mùi mai nở đâu đây
Nghe lòng lạc loài chơi vơi
Khi xưa, những ngày binh lửa chưa sang
Bếp hồng quây quần bên nhau
Nghe Mẹ kể chuyện đời xưa
Mẹ ơi con hứa con sẽ trở về
Dù cho, dù cho xuân đã đi qua
Dù cho én từng bầy bay về ngàn
Dẫu gì rồi con cũng về
Chỉ bên Mẹ là mùa xuân thôi

Mùa Xuân Của Mẹ (của nhạc sĩ Nhật Ngân)

Duy Khánh hát
http://www.youtube.com/watch?v=ImiHadsI_CA
Nhưng éo le cũng không thiếu. Vì hoàn cảnh nên vợ chồng chia cách. Còn đâu những giây phút đầm ấm, gần gủi bên nhau ngày nào … để rồi giờ đây trong cảnh cô đơn, người vợ (người yêu) đã ôn lại hình ảnh đẹp thuở nào với chồng (với người tình) lúc đất nước còn an lành:
Nhớ xuân sang năm nào,
bên bếp lửa vui, ngồi đan áo cho anh
đôi mắt anh dịu buồn, nói anh sẽ về
khi máu xương ngừng rơi.
Để giờ mình em và manh áo xám trên tay
Dù rằng ngoài kia vang tiếng pháo đón giao thừa
Bánh chưng rất xanh, với hoa cúc vàng
mà ngỡ là giấc mơ thanh bình.

Đan Áo Mùa Xuân (Phạm Thế Mỹ)

Phương Hồng Quế hát
http://www.youtube.com/watch?v=QlF-KMcw8YA
Kẻ ở lại buồn đơn côi, luyến tiếc kỷ niệm. Người ra đi cũng chẳng khác gì hơn. Chúng ta hãy nghe những người lính VNCH đã để con tim mình rung động:
Tôi đến đơn vị lại đi, nhọc hơi đâu đếm mỏi tháng ngày
Khi cánh dù mang tin lại những cánh thư xinh hậu tuyến
Tôi ngẩn ngơ biết mùa Xuân sang …
Ở đây không có hoa Mai, không có hoa Đào trang điểm trần ai
Những lá khô rơi suốt năm dài như trong một chiều lòng tôi biết yêu ai.

(Mùa Xuân Lá Khô của Ns Trần thiện Thanh)

Tuấn Vũ hát
http://www.youtube.com/watch?v=u_KeealX_wI
Dầu vậy người trai Việt vẫn ngạo nghễ chấp nhận định mệnh đã dành riêng cho mình trong thời buổi loạn ly với sự kiêu hảnh đáng khâm phục:
Quê hương trong thời đau thương
Mùa Xuân chia ly là thường
bao nhiêu khổ nhục tủi hờn
Hát lên nhân loại,
Trả buồn cho đông.

(Mùa Xuân Trên Cao của Ns Trầm Tử Thiêng)

Hoài An hát
http://www.youtube.com/watch?v=jtsfxID0zd8
Họ, những người lính VNCH luôn làm tròn bổn phận làm trai, chấp nhận gian khổ. Tuy vậy người lính vẫn có vài phút giây để tâm hồn bay bỗng với những thương nhớ khó quên:
Đầu xuân năm đó anh ra đi
Mùa xuân này đến anh chưa về
Những hôm vừa xong phiên gác chiều
Ven rừng kín hoa mai vàng
Chợt nhớ tới sắc áo năm nào em đến thăm gác nhỏ.

(Đồn Vắng Đầu Xuân của Ns Trần Thiện Thanh)

Tú Anh hát
http://www.youtube.com/watch?v=xQa-rMo464A
Xuân về, Tết đến là dịp để thân nhân, họ hàng hay những cặp tình nhân gặp gỡ, đoàn tụ nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh, trước 30.4.1975 đã có biết bao nhiêu người lính thiếu hẳn diễm phúc này. Họ đã thi hành bổn phận người trai thời chiến để trấn giữ biên thùy, bảo vệ an ninh cho đồng bào ở hậu phương an lòng hưởng Tết. Dầu vậy, người lính Việt Nam Cộng Hoà chẳng buồn lòng, dù cho tâm trạng của họ lúc nào cũng nhớ nàng Xuân. Họ vẫn hy sinh, kiên trì nhất định:
Con biết bây giờ mẹ chờ em trông
nhưng nếu con về bạn bè thương mong
bao lứa trai cùng chào xuân chiến trường
không lẻ riêng mình êm ấm
Mẹ ơi con xuân này vắng nhà
Mẹ thương con xin đợi ngày mai…

(Xuân này con không về của NS Trịnh Lâm Ngân)

Quang Lê hát
http://www.youtube.com/watch?v=SJKJd9mcij4
Người lính VNCH rày đây mai đó, tung hoành khắp 4 vùng chiến thuật. Khi được nghỉ phép, trở về mong tìm gặp lại nàng Xuân, người yêu nhưng định mệnh nghiệt ngả làm họ chỉ còn biết tiếc thương mùa Xuân nào đã đi qua. Hãy nghe Nhạc sĩ Châu Kỳ bộc lộ:
Bước sông hồ như đắm như mơ
Trở về đây khi gió sang mùa
Mong ước tìm cô gái Xuân xưa, cho vơi bao niềm nhớ
Có ngờ đâu Xuân vắng người thơ

(Đón Xuân Này Nhớ Xuân Xưa của Ns Châu-Kỳ)

Thanh Tuyền hát
http://www.youtube.com/watch?v=2QdjWMN7TRM
Ước nguyện của mọi người: dân, quân, cán, chính là mong đất nước Việt Nam sớm thanh bình, không còn chinh chiến, một cuộc chiến công tâm mà nói là do Cs Bắc Việt chủ trương vì chúng luôn nuôi tham vọng chiếm trọn miền Nam, điều mà cộng sản đã đạt được vào cuối tháng tư 1975. Nhạc sĩ Minh Kỳ qua nhạc phẩm “Cánh Thiệp Ðầu Xuân" đã diễn tả ước mơ thầm kín, cầu mong sao cho khói lửa đi qua nhanh trên đất mẹ để mọi người, nhất là người lính VNCH có cơ hội được về sống gần gia đình, bạn bè thân thuộc và hưởng một cái Tết đúng nghĩa:
Tôi chúc muôn người mọi đều ước muốn
Non nước vinh quang trong tia nắng thanh bình
Để người anh yêu dấu quay về gia đình
Tìm vui bên lửa ấm
Tôi chúc yên lành người người khắp chốn
Mong gió đưa duyên cho cô gái Xuân thì
ước nguyện sao chóng thành rượu hồng xe duyên

(Cánh Thiệp Đầu Xuân của Ns Minh Kỳ)

Ngọc Huyền hát
http://www.youtube.com/watch?v=286zn2AwXl4
Nhiều nhạc sĩ, nhất là những nhạc sĩ tâm lý chiến (một ngành mà CS rất sợ nên trả thù không nương tay những chiến sĩ này sau tháng 4.1975), đã sáng tác những bài ca rất giá trị viết về đời lính và người lính VNCH, sáng tác nhạc Xuân, đặc biệt những bản nhạc viết về Tết và người lính VNCH, gắn liền với sự hy sinh cao cả của họ trước 30.4.1975 lo trấn thủ biên cương để bảo vệ cho người dân ở hậu phương được hưởng những mùa Xuân, tháng năm an bình. Còn rất nhiều bản nhạc khác đã được sáng tác với chủ đề này nhưng tôi chỉ trích dẫn vài bản nhạc “Xuân, viết về người lính VNCH" tiêu biểu kê trên. Rất tiếc bài viết có giới hạn nên tôi không thể trích dẫn hết để trình bày cùng quí vị, xin thông cảm. Nhưng qua đó cũng đủ nói lên tình cảm, tình yêu quê hương nồng nàn và cuộc đời đầy gian khổ và sự hy sinh cao cả của người lính VNCH đối với người Việt tại miền Nam VN trước 30.04.1975, nói riêng…
Người miền Nam và những người lính VNCH tuy đã nằm xuống nhưng không hề uổng phí vì chính qua những mất mát đó đã cho chúng ta hiễu rằng sự tự do không phải tự nhiên mà có. Tự do đã được trả với một giá rất đắt, chẳng những bằng máu và nước mắt, đôi khi ngay cả bằng mạng sống. Điều này đã được minh chứng qua lịch sử của nhân loại và cũng nhờ sự hy sinh cao cả của những người lính VNCH mà người dân miền Nam Việt Nam (NVN) đã được hưởng ít nhiều tự do trong hơn 20 năm, cho đến ngày NVN bị cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm.
• Lê Hoàng Thanh
XUÂN TRONG THI CA
NHẬT THỊNH
Đối với các văn nghệ sĩ một năm chia đều làm bốn mùa thì chỉ có hai mùa xuân và thu là họ cảm thấy gần gũi và có một mối cảm thông sâu rộng, thoáng đãng và đằm thắm, bởi vậy số thơ và nhạc viết về hai thời điểm này đã được nâng lên một số lượng đồ sộ, chất ngất thương yêu. Nguyễn Bính (1918-1996) bước chân vào làng thơ từ khoảng năm 1935-1936, đã được tặng giải thơ của Tự Lực Văn Đoàn, tập thơ Tâm Hồn Tôi, chính ông đã là người bỏ miền Bắc trốn vào miền Nam, và để tránh rắc rối với chính quyền bảo hộ Pháp, ông đổi căn cước lấy tên Nguyễn Bính Thuyết, thay vì mang tên thật Nguyễn Trọng Bình. Thơ ông đượm một nỗi buồn hầu như bất tận, vương một âm điệu trầm buồn, man mác dường như thương tiếc một dĩ vãng mơ hồ, xa xăm, những hình ảnh đớn đau, xa dời. Thơ ông gắn liền với cuộc đời ông, nhiều lao đao, lận đận, sống kiếp giang hồ, trôi nổi. Khác với Lưu Trọng Lư yêu thương, mộng mơ trong cõi tình hư ảo, Nguyễn Bính dành hết tâm tình mình cho những thiếu nữ sống chân chất trong nếp sống cổ xưa, ngập ngừng, e ngại trước bức tường đạo lý nghìn xưa của Nho giáo. Yêu tha thiết nhưng lại rụt rè, nhút nhát:

Nàng đến thăm tôi một buổi chiều
Những mong chắp nối mộng thương yêu
Nhưng tôi không dám, tôi không thể
Chắp nối bao nhiêu khổ bấy nhiêu.


Nhưng cõi lòng của nhà thơ sầu mộng đó cứ mỗi khi xuân trở về, mạch thơ đã như nguồn nước tuôn chảy, lén sâu vào tiềm thức, khơi dậy niềm xúc cảm dạt dào, hằn dấu ấn trong ký ức khơi nguồn từ ngôi đình làng, bờ tre, khóm trúc, con đường mòn dẫn vào thôn xóm đã bao ngày tháng sống êm đềm:

Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời, đôi mắt trong.

Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh, trời quang, nắng mới hoe
Lá nõn, nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận, gió bay đi.


Xuân về không chỉ phảng phất nơi cảnh sắc của vùng trời quê những hình tượng nghìn đời để lại, bất di bất dịch với không gian, thời gian mà nó nảy sinh từ ngay nơi con người muôn thuở, tình yêu son sắt. Chén rượu nồng mừng xuân chính là chén rượu chia ly của người con trai dành cho người con gái. Nàng ra đi, buồn thoáng chốc, bởi tình đầu đã lỡ bởi môn đăng hộ đối, hay bởi thành kiến cố hữu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, nhưng biết đâu mối duyên sau lại không đem cho nàng hạnh phúc hơn:

Cao tay nâng chén rượu nồng
Mừng em: Em sắp lấy chồng,xuân nay
Uống đi! Em uống cho say!
Để trong mơ, sống những ngày xuân qua

Thấy tình duyên của đôi ta,
Đến đây là...đến, đây là…là thôi!
Em đi dệt mộng cùng người,
Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh.


Tết quê xưa nay vẫn mang những sắc thái riêng cho nên muôn đời và cho dù đến nay có cách biệt quê hương cả nghìn trùng sóng vỗ của đại dương con người vẫn không quên cảnh cũ người xưa, nhưng tất nhiên phải trong môi trường tự do, hạnh phúc. Đoàn Văn Cừ (1913-2004) đúng như Hoài Thanh và Hoài Chân nhận định: “Trước sau đăng báo chỉ có sáu bảy bài. Bài thơ nào cũng hay. Cũng có bài đăng Ngày Nay số thường, nhưng chỉ nghĩ đến Đoàn Văn Cư là tôi lại nghĩ đến Tết. Cái tên Đoàn Văn Cừ trong trí tôi đã lẫn với màu bánh chưng, mùi thuốc pháo, vị mứt gừng. Cứ mỗi lúc xuân về người lại gửi trên báo một chuỗi cười ngũ sắc. Tiếng cười ta còn nghe văng vẳng, thì người ta đã biến đâu rồi, và ta đành chờ mùa xuân khác.” Lập luận thế thôi, sự thực Đoàn Văn Cừ đã để lại cho đời một số thi phẩm như các tập Thôn ca 1, Thôn ca 2, Thơ lửa, Dọc đường xuân, Đường về quê mẹ chứ mùa xuân, hơn nữa trong thơ Đoàn Văn Cừ tưởng chừng không dời con người nửa gang tấc, đã tựa hình với bóng. Đi chợ Tết, Đoàn Văn Cừ buông thả cho thị giác, thính quan trải rộng khắp ngoại cảnh, say sưa theo đoàn người vui vẻ kéo từng hàng dài trên đường quê. Thằng bé chạy lon xon theo mẹ, cụ già lom khom trên chiếc gậy trúc, những cô áo thắm lòng nở rộ hoa. Người gánh, người gồng, bò lợn lũ lượt kéo về hướng chợ, vui tươi, nhộn nhịp.

Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc,
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.


Thậm chí tới đồi núi kia từ bao thế kỷ im lìm, bất động mà nay bỗng nôn nao muốn uốn mình trở dậy, choàng vội lên người thảm cỏ xanh mướt, và thoa lên làn son thắm tươi của ngày trở giấc. Sự vật được Đoàn Văn Cừ khéo léo nhân cách hóa, hỗ trợ cho thêm tưng bừng hoạt cảnh, tưởng chừng của thế giới con người không bằng:

Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa
Núi uốn mình trong chiếc áo the đen
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.


Bước chân thoăn thoắt vào chợ cảnh tượng thật ồn ào, tấp nập, kẻ qua người lại, chen lấn nhau, hàng quán xô bồ, ngổn ngang, chỉ chừa một lối đi, vậy mà Đoàn Văn Cừ không bỏ qua một hoạt cảnh nào, anh hàng tranh quảy đôi bồ tìm chỗ bán, tranh gà, tranh lợn, ngày xuân cô gái đánh đu, hứng dừa, chuột vinh quy bái tổ…cảnh thày khóa gò lưng trên phản mài mực viết thơ xuân:

Cụ đồ nho đứng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau


Tết quê trong thơ Đoàn Văn Cừ thấm đẫm hình ảnh quê hương, một quê hương không khói lửa của thời xa xưa, chưa nếm mùi vị cộng sản áp đặt, tàn bạo. Khung cảnh chợ Tết, đám hội rộng mở, ông nội ông ngoại lên tỉnh đón cháu trọ học xa trở vể làng, đêm xuống chuông trống vang rền, các cụ chơi tổ tôm xóc đĩa, các bà lên đồng khăn áo đỏ chạy loanh quăng, trên bãi cỏ: “một chị đương đu ngửa tít trên không”, bọn đô vật thi sức mạnh trước sân đình: “mình cởi trần gân cốt nổi như lươn”, tiếng hò reo của đám trẻ khuyến khích: “đoàn trải dài vùn vụt giữa dòng sông”. Hoạt cảnh đồng quê vô cùng linh hoạt, gần gũi và thân thương, trìu mến, chẳng qua do óc quan sát bén nhạy của Đoàn Văn Cừ, chữ dùng đắc dụng, hình ảnh bóng bảy:

Khi tế xong một cụ đứng trên thềm
Giơ bánh pháo cho người kia lại đốt
Bọn trai gái đứng xem đều chạy giạt
Một thằng cu sợ hãi khóc bi be.


Tết về trên những vùng quê đem tới cho con người những rộn ràng, tươi vui, những khoẳng khắc chan chứa xuân tình, quanh một năm cặm cụi với con trâu cái cầy, công việc đồng áng ngày nắng đêm sương, le te gồng gánh đi chợ huyện họp phiên, trời mù mịt sương muối. Bên ngoài cảnh vật xem ra còn rỡ ràng hơn. Dưới ngòi bút tả chân sắc bén của Đoàn Văn Cừ người ta tìm thấy nhiều nét đẹp rỡ ràng của quê mẹ, nào cảnh sắc, sinh hoạt của con người, mà có những cá nhân bởi đời sống kinh tế phải xa dời nơi đây, tha phương lên tỉnh thành làm ăn, thành thử không chiêm ngưỡng được hết. Chính những nét đẹp này đã gây cho họ tình yêu thương quê hương, họ lưu luyến không muốn xa dời làng xóm, nơi chôn rau cắt rốn, thế nên nguồn cội dân tộc đã lắng sâu trong tâm hồn họ. Họ gìn giữ bảo vệ nơi quê cha đất tổ đã bao đời, và dù cho lũ giặc Bắc phương kia có binh hùng tướng mạnh, vó ngựa trường chinh có soải dài khắp nơi vẫn chùn bước nơi đây, bị đuổi đánh không còn manh giáp. Phải cởi bỏ áo giáp, chui ống đồng trốn về nước, hay treo cổ trong thành mà chết:

Ngày xưa rạng, vàng son lồng mặt nước,
Trời thêu mây, núi tìm nắng phun hường
Cây xanh rờn sương nạm ngọc kim cương.
Dòng nước biếc lượn như dòng ngọc chảy.
Đàn chim sẻ nấp mình qua kẽ sậy,
Tia nắng hồng đốt cháy hạt sương trong.
Đám mây vàng lơ lửng lướt trên không.
Bóng trôi xuống dòng nước trong sâu thẳm


Ngoại cảnh tết vùng nông thôn đẹp là vậy, nhưng chỉ là vẻ đẹp bên ngoài, bên trong tâm tưởng con người vẻ đẹp còn sâu lắng hơn, nó là những kỷ niệm buồn vui không phai thời thơ ấu, làm nhân chứng cho những biến đổi thu hẹp trong cảnh gia đình, những cảnh sinh ly tử biệt. Đoàn Văn Cừ sống nhiều với nội tâm, không thờ ơ, lạnh nhạt với tâm tình, gói trọn được những hình ảnh hiền từ của ông bà, những cử chỉ chăm nom, trìu mến các cháu mà họ tin rằng đó là dòng dõi của tổ tiên được truyền qua dòng máu trong cơ thể của bầy trẻ thơ, biểu hiện cái tình yêu thương đậm đà của những cụm trẻ già cỗi bên búp măng non mới nhú mầm. Bởi vậy Đoàn Văn cừ không khỏi cảm thấy chua sót khi quá khứ được khơi gợi:

Từ khi ông tôi mất,
Bà tôi đã qua đời,
Tôi mỗi ngày mỗõi lớn,
Nên chẳng thấy gì vui,
Tết đến tôi càng khổ,
Tôi nhớ bức tranh gà,
Chiếc phong bao giấy đỏ,
Bánh pháo tép ba xu.


Không riêng chỉ Đoàn Văn Cừ mới có những cái Tếùt quê được gợi nhớ trong thơ một cách thật tiếc nuối, bởi cảnh sắc linh hoạt, tươi vui, và lòng người phóng khoáng, đôn hậu; ngoài ra người ta còn thấy có Anh Thơ tên thật là Vương Kiều Ân sinh năm 1921, đã đoạt giải của Tự Lực Văn Đoàn, tập Bức Tranh Quê năm 1939. Khác một số các nhà thơ đương thời dùng tình yêu làm động lực, dùng sự mềm yếu tình cảm, sự khơi dậy dục vọng làm yếu tố, Anh Thơ tự tạo cho mình một sắc thái riêng biệt, lấy thiên nhiên làm bối cảnh, sinh hoạt thôn quê làm đề tài và phong tục nông thôn làm nguồn sáng tác. Nguyên nhân một phần cũng bởi Anh Thơ sinh trưởng trong một gia đình tại đất Ninh giang, cha làm công chức, bản thân Anh Thơ vốn dĩ nữ giới nên không được theo học nhiều bởi thành kiến cổ xưa hạn chế sẵn. Đã có người đả kích đường lối đi của Anh Thơ, cho rằng không hợp với quan niệm của lớp người trẻ đương thời. Nhưng Anh thơ vẫn kiên định với lối đi của mình, sau Anh thơ còn viết chung với Bàng Bá Lân trong thu tập Xưa. Thơ của Anh Thơ mang tính quê hương, tượng trưng tình non nước, ruộïng đồng bao la bát ngát, cánh đồng lúa chín, gạch nốùi liền dĩ vãng xưa, cho thấy thế nào là đời sống cổ truyền, phong tục, đời sống thực của quê hương. Những buổi chiều mùa gặt, người dân quê giã biệt đồng ruộng trở về nhà, tay cầy tay hái, miẹn hát khúc ca thanh bình, những trưa hè, người mẹ phe pghẩy chiếc quạt mo cau, yếm thắm xô lệch nằm ru con trên võng, trời sang thu, những câu hò giọng hát vang vang, cảnh bão lụt, mưa dông...Guy de Maupassant nhận định: “Làm văn, đối với nhà thơ không khó nhưng cái khó là phải làm sao phô diễn được sự thật những gì mình muốn nói, không gượng ép, giả tạo, diễn tả bằng lời chưa đủ, còn phải phô diễn được những hình ảnh sống thực, độc đáo.” Điều này, thu hẹp trong những ngày cuối năm ở thôn quê, phiên chợ chiều 30 ồn ào, nhộn nhịp, ngày Tết đàn trẻ thơ vui vẻ chào đón xuân mới, gia đình cùng nhau đi chúc thọ, một phong tục hiếm có của người Á đông, tỏ cho thấy Anh Thơ đã vững chắc khi cầm bút. Những cô thôn nữ nhộn nhịp đón Tết:

Lũ con gái rộn ràng cười, nói nói
Khoe hàm răng đen nhánh, mắt đa tình


Thật đa tình những cô gái quê, đôi mắt lá dăm, liếc sắc như câu hát quan họ. Chiếc áo tứ thân thắt vạt hờ hững che chiếc yếm thắm bên trong, nửa muốn phơi mở nửa còn ngập ngừng, e lệ, chiếc váy sồi đen tha thướt, che kín gót chân hồng. Họ trông chờ Tết đến như trông chờ một ngày xa cha mẹ, xa mái nhà thân thuộc ra đi. Hay:

Trong vườn đã nhiều bông nở đỏ
Và đã nhiều nêu dựng khánh khua thi


Đó cảnh tượng mọi người vui vẻ trong ngày vào ngày giáp Tết, mùa đông u ám đã tàn lụi, hoa lá bắt đầu đâm chồi nẩy lộc. Không ai bảo ai họ lo đi chợ mua sắm Tết, trong nhà người ta lo dọn dẹp nhà cửa, đánh những bộ đỉnh đồng, lư hương cho bóng, chẻ lạt, ra cầu ao rửa lá dong gói bánh chưng, chung đụng nhau giết heo gói giò chả, chuẩn bị nấu đông, nấu măng, kho thịt dùng trong những ngày Tết:

Và rất nhiều ông già ngồi lau quét,
Trước bàn thờ thành kính thắp tuàn nhang.
Trong khi ấy tiếng lợn kêu eng éc,
Khắp xóm làng lẫn tiếng chửi nhau vang.


Nơi nơi đều trang hoàng nhà cửa tiễn năm cũ đón năm mới, thật xôn xao sinh hoạt, hoạt náo và rộn ràng, ngay trên sông nước mêng mông, những chuyến đò ngang đã không còn tĩnh lặng của những ngày nào, họ nôn nao trông chờ ngày về của Tết, bàn tán chuyện trò, dự tính, tất cả dường như sợ một sự muộn màng, để đời người ngàn lẻ một lần lỡ dịp may hiếm có:

Trên sông nước trong khoang thuyền chở vội
Giữa những người về Tết chợ ba hoa
Một lữ khách lạnh lùng ôm khăn gói
Mắt mơ màng nhìn tiếng pháo xa xa


Trong sự vội vàng, hối hả của những khách tha phương về quê hưởng mấy ngày xuân, họ hớn hở, như đã trút đi được những lo âu, cực nhọc sau nhũng tháng ngày lưu lạc bởi công ăn việc làm, hoặc ba chìm bảy nổi trong chốn thương trường. Nhưng trong sự xôn xao hớn hở đó đã có một lữ khách lạnh lùng, nghe tiếng pháo nổ vọng từ xa mà lòng không khỏi trùng xuống, mắt mơ màng như gửi gấm một niềm tâm sự riêng, có thế bởi thân thế lao đao, thất chí trong tình đời, hoặc sống cô đơn, tết đến thân phận không biết phiêu bạt về đau. Anh Thơ đã khéo khơi gợi một hình ảnh tương phản đó trong hai ngã rẽ của đời người.

Trời tối quá, bên ngoài trời tối quá,
Những cây nêu tiếng khánh khẽ khua thầm.
Những cung vôi trong sân như mờ xóa
Những giấy điều trước cửa dán đen thâm


Đêm giao thừa trời tối đen như mực, khung cảnh thật vô cùng trang nghiêm, tĩnh lặng nếu không có tiếng gió bấc thổi, làm rung những chiếc khánh treo trên cây nêu đã được dựng lên mấy ngày trước, tiếng leng keng khua theo nhịp gió đưa như một điệp khúc buồn. Cung tên rắc bằng vôi bột, tượng trưng con đường công danh sự nghiệp, ứng với câu “tang bồng hồ thỉ’ của cổ nhân, gió đã làm mờ xóa trước sân, giấy điều dán cầu phép trong ngày Tết đã thâm đen. Mọi người nôn nao chờ đón giây phút thiêng liêng của đêm giao thừa, tiễn năm cũ và đón năm mới, mong được may mắn hơn, tin rằng trái đất được cai quản bởi nhiều thần khác nhau, mỗi thần giữ một phần hành như Táo quân coi nhà bếp, Thổ Địa coi nhà đất, Thần Tài coi tiền bạc, Thần Thiện, Thần Aùc coi điều thiện, điều ác...Họ chờ nghe tiếng pháo nở dòn dã và tiếng chuông chùa, nhà thờ vang vọng:

Quanh bếp ấm nồi bánh chưng sùng sục
Thằng cu con dụi mắt cố chờ ăn
Đĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen nhúc,
Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm


Có trải qua đêm giao thừa ở miền thôn quê mới thấy Anh Thơ có cái nhìn tinh tế, không những đã thấu hiểu tập quán, phong tục của người dân sống nơi đồng ruộng, họ lam lũ suốt một năm trời, nay mới có những giây phút thảnh thơi này, hơn nữa Anh Thơ còn cực cảm được nỗi bồn chồn của tâm trạng họ ra sao. Đêm đã khuya đứa trẻ buồn ngủ díp mắt còn cố dụi mắt ngồi chờ cho chín nồi bánh. Bà lão mong cho chóng giao thừa để tăng thêm tuổi. Chừng này cụ không còn thời con gái để phải giấu tuổi cho trẻ, mà chỉ mong lên lão. Trái lại cô gái lớn chỉ mơ có chiếc váy sồi đen rức mặc đi lễ chùa, hay ra sân đình hát đố kén chồng. Nồi bánh chưng canh thức trong đêm còn là một cơ hội để họ thức giữ nhà, bởi đây là tháng củ mật, trộm cắp rình mò, đục tường khoét vách vào nhà chỉ có một đêm nay, nếu không khéo canh chừng. Tiếng pháo giao thừa nổ ran, truyền từ nhà nọ sang nhà kia, người miền quê tin rằng tiếng pháo nổ xua đuổi được tà ma, báo hiệu một năm mới nở mày nở mặt, ăn nên làm ra:

Bỗng tiếng pháo đẹt đùng xa nổ, báo,
Ngoài đình trung làng đã tế giao thừa
Cả nhà vội giật mình không ai bảo,
Cùng đứng lên thăm bánh chín hay chưa?


Đọc thơ Anh Thơ người thành thị có một ý niệm rõ rệt về đời sống thôn quê vào những ngày Tết đến. Cảm thấy thích thú được biết thêm nếp sinh hoạt sau lũy tre xanh, tựa hồ người ta quen sống tại phố quanh năm chỉ thấy những xưởng máy, những ống khói. Đạt tới trình độ này đâu phải bất cứ mọi người đều có thể làm được. Nhưng có điều Anh Thơ ít khơi mở nội tâm, đưa xúc cảm vào trong tiếng thơ, mà chỉ có khả năng gây rung động nơi con người trước cảnh, bởi vậy tuy cùng một khuynh hướng thi ca đồng nội, người ta dễ gần gũi với tiếng thơ của Bàng Bá Lân, cũng thường ghi lại những nếp sinh hoạt của người dân miền thôn dã. Đi vào thế giới thơ của Bàng Bá Lân con người như chìm đắm trong kho tàng tập tục cổ truyền của dân tộc, thấy được sự mộc mạc, chất phác của người dân quê, quanh năm suốt tháng sống quần quật trên đồng ruộng, giọng thơ ngọt ngào, êm dịu, ý thơ hàm xúc tạo cho thơ mình một suy tưởng riêng. Nhận định về Bàng Bá Lân, Thế Lữ viết trên báo Phong Hóa, số ngày 25.2.1935: “Ông biết nhìn những cảnh thường thấy ở trước mặt mọi người, nhưng chỉ có người làm thơ mới chú ý tới. Ông biết ghi những nét ánh trăng lóng lánh trong nước chậu thau rửa mặt, biết thấy cái buồn ngao ngán tịch mịch của lớp nhà tranh bên khóm chuối, bên rặng cau lúc trưa hè. Ông tìm về những cảnh êm đềm ; bà dùng kim khâu, cháu thôi nghịch đến bên bà, con mèo vờn cuộn chỉ, con vện nằm ngoài hiên. Ông thấy lòng rung động khi nghe tiếng ve mùa hạ kêu gào, làm rung rinh ánh nắng gay gắt, làm thở dài làn gió trong cành sấu mốc rêu. Lời thơ tha thiết, êm ái và thật dẫu chẳng phải là thi sĩ cũng thấy lòng rung động một cách nhẹ nhàng.” Cái nhìn của Bàng Bà Lân lãng mà kín đáo, người trong buổi đầu xuân người ta bất chợt gặp đã thật êm ấm:

Chiều quê trong lúa xanh non
Vẫn cô yếm thắm xinh ròn ngây thơ.


Khác Chế Lan Viên chỉ thích mùa thu và ghét mùa sâu, tâm hồn u uất mối sầu vong quốc của người dân Chàm, Bàng Bá Lân không phân biệt một mùa nào mà yêu cả bốn mùa:

Ta yêu mưa bốn mùa
Nghe nhạc trùng rên rỉ
Giun khóc chân tường, dế than dưới cỏ
Nhạc sầu dâng buồn bã suốt năm canh
Ta thích đêm mưa, nằm sát cửa sau mành
Nghe gió rít từng hồi qua kẽ hở,
Nghe gió đập tầu tiêu, mưa nức nở...
Nghe hồn mưa than thở với hồn ta.


Bốn mùa đều mưa, mà khác biệt nhau. Mưa hè ào ào thác đổ, tưởng chừøng úng thối đất cát, lũ lụt dâng tràn. Mưa thu buồn rả rích, mối tình Ngưu Lang Chức Nữõ thấm đẫm lệ. Mưa đông lạnh cóng, từng hồi dứt hạt. Và mưa phùn mùa xuân như tro rắc trên những mái tóc huyền óng ả:

Ta yêu mưa xuân
Phơi phới gieo trên vườn mận nở
Trên cánh hoa đào rực rỡ,
Trên áo quần diêm dúa hội mừng xuân
Mưa rơi rơi...
Cho cảnh xuân căng nhựa,
Cho má em tươi hồng


Bàng Bá Lân đắm đuối bởi cảnh sắc xuân, mùa đông xám xịt héo rụng, mới thoáng thấy cái cổng làng, tâm hồn người đã nở hoa, cánh cửa khai hội kia mở ra, biết bao nhiêu những cô gái xô đảy trẩy hội làng, thả lời ong bướm mong se duyên Tấn Tần, phảng phất cái tâm trạng của Xuân Diệu khi say men tình, buông những lời tha thiết, nồng nàn, ý lời đều đằm thắm mà cảm thấy ngất ngây: “Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh - Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi.”

Ngày mùa lúa chín thơm đưa,
Rồi Đông gầy chết, Xuân chưa vội vàng;
Mừng Xuân ngày hội cổng làng
Là nơi chen chúc bao nàng ngây thơ.
Ngày nay dù ở nơi xa
Thăm quê, về đến cây đa đầu làng
Thì bao nhiêu cảnh mơ màng
Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre.


Đó là những nét xuân xưa, người dân quê mỗi năm vào hội xuân họ đã nao nức theo khí tiết trời đất sống trở dậy, đầm ấm hơn của mùa xuân, sau những ngày đông ủ ê, giá buốt. Bao nhiêu tập quán, phong tục nghìn đời của dân tộc được khơi mở, cho người sau thấy rõ những nét đẹp, nét hay mà trở về cội nguồn, bởi thế người xưa đã tránh thoát mọi nguồn ngoại nhập Tây Tàu đồng hóa. Nhưng như mọi người, qua không gian thời gian, cái cốt xuân trong bản thể họ vẫn cuồn cuộn của dòng máu chảy, luân lưu không ngừng. Nó đẹp quyến rũ, say mê một cách huyền ảo, mùa đi mà hương còn dừng bước, người ta khao khát đi tìm, y như bạo chúa Tần Thủy Hoàng xưa kia đã phái người vượt biển Đông đi kiếm thuốc trường sinh, xuân là thế, trách chi Xuân Diệu đã phải than lên: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người?”

Xuân mơn mởn độ dậy thì của của cô gái chớm yêu, cho nên không chỉ những nhà thơ mới dành cho xuân thứ tình thương yêu, chiều chuộng của đấng quân vương trao cho nàng cung phi, mà các nhạc sỹ cũng đắm say. Mỗi độ xuân về tết đến đâu đây lại thấy văng vẳng bản “Anh cho em mùa xuân” của nhạc sỹ Nguyễn Hiền phổ từ bài thơ “Nụ hoa vàng cho em” của Kim Tuấn. Nguyễn hiền sinh năm 1927 tại Hà Nội mới qua đời 10 giờ sáng ngày 23.12.2005, bệnh ung thư phổi thời kỳ chót được phác giác, đã sáng tác cả trăm nhạc phẩm trong đó có nhiều bản được nhắc tới như: Mái tóc dạ hương phổ thơ Đinh Hùng, Ngàn năm mây bay, Hoa bướm ngày xưa, Tiếng hát học trò, Lá thư gửi mẹ phổ thơ Thái Thủy...Ngoài ra không thể không thể không nhắc tới bản “Ly rượu mừng” của Phạm Đình Chương, kể từ những ngày miền Nam chưa đổi chủ tới nay tại hải ngoại, cứ vào mỗi cuối đông đầu xuân, khắp nơi lại vang vọng, gợi nhớ mùa thanh bình, tự do của đất nước. Lời chúc tết không dành riêng một giới nào, mà bao trùm xã hội, tạo sinh khí cho đời người thêm tin tưởng ở bước đường đi tới. Chu kỳ 12 tháng một năm, xuân cứ tuần tự đến tuần tự đi, xuân muôn tuổi, đối với con người hóa sinh đời kiếp, nhưng thi ca xuân không chết, và đời đời còn được bồi đắp, sáng tạo để ca ngợi xuân.

NHẬT THỊNH


Lâm Thúy Vân hát
http://www.youtube.com/watch?v=teFksrZRllE&feature=endscreen&NR=1
Ly rượu mừng
http://www.youtube.com/watch?v=-zGQ2qVsCwQ

No comments:

Post a Comment