Thursday, December 14, 2017

Phát Súng “Ân Huệ" - Cái Chết của BS.Quân Y Lê Hữu Sanh:

Hồi Ký của Một nhà văn, Một y sĩ: "Tản mạn "Từ Hòn Khói, tôi đi…", Việt Hải Los Angeles: http://nsvietnam.blogspot.com/…/hoi-ky-cua-mot-nha-van-mot-…
--------------------------------------------------------------------------------------
Phát Súng “Ân Huệ" - Cái Chết của BS.Quân Y Lê Hữu Sanh:

Sau khi tốt nghiệp, tôi đến đơn vị mới là Bệnh viện I Dã Chiến ở Quảng Ngãi. Trước ngõ vào Bệnh viện có cuộn dây thép gai kéo ngang và người lính đứng gác, tôi tần ngần nhìn con đường đất lầy lội giữa hai hàng lều vải trên khu ruộng mía. Sự khác biệt xa với giữa những Bệnh viện khang trang của trường Y khoa Sàigòn với những lều trại thô sơ này bỗng làm tôi chới với. Tôi đến trình diện với Y sĩ trưởng, Đại úy Vũ Ban, và gặp những Sĩ quan Quân Y khác. Bộ Quân phục Kaki còn nguyên nếp gấp của tôi hình như lạc lõng trong đám quần áo tác chiến bạc màu của các Quân nhân trong đơn vị.
Rồi tôi cũng quen dần với đời sống của một Quân Y sĩ trong vùng chiến trận sôi sục này. Doanh trại đổi thay mau chóng, lều vải được thay bằng nhà gỗ mái lợp tôn. Phòng giải phẩu có máy điều hòa không khí. Hàng dương liễu hai bên đường vào Bệnh viện đã lên cao ngang đầu người.
Sáng hôm nay trong buổi họp Tham mưu tại Bộ Chỉ huy Sư đoàn II, tôi được biết một Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến vừa đến và đóng quân bên quận Sơn Tịnh. Người Y sĩ trưởng của Tiểu đoàn là Lê Hữu Sanh, bạn tôi ở trường Thuốc. Sau buổi họp tôi đi thăm bạn ngay. Qua khỏi cầu Trà Khúc chừng nửa cây số về phía Bắc, tôi lái xe vào con đường lên núi Thiên Ấn. Không khí tươi mát của những vườn cây làm tôi nhớ lại những ngày thơ ấu sống ở quê nhà. Cuối con đường đất rợp bóng tre xanh, tôi nhìn thấy bóng dáng mấy người lính trên đồi, bên kia cánh đồng lúa. Lúc xe đến chân đồi, tôi gặp người lính gác, ngỏ ý muốn thăm Sanh và được dẫn đến căn lều của Bộ Chỉ huy.
Nhìn thấy tôi, Sanh chạy ra tay bắt mặt mừng. Chúng tôi đi lên đồi, đường dốc thoai thoải. Cả sườn đồi là một thảm cỏ xanh, gió núi thổi qua còn mát lạnh hơi sương. Bầu trời xanh lơ cao vút. Dưới xa kia, dòng sông Trà Khúc như một giải lụa xanh mềm mại trên bãi cát trắng phau. Tôi nhìn Sanh đứng trên đồi, giữa thiên nhiên bao la. Khổ người cao lớn, da sạm nắng, mái tóc hớt cao. Sanh có vẻ chửng chạc, uy nghiêm trong bộ quân phục Thủy Quân Lục Chiến. Tôi nghĩ thầm, người sinh viên trường thuốc hiền lành ngày xưa đã thay đổi nhiều. Sanh kể cho tôi nghe chuyện bạn bè ở trường, chuyện những kiều nữ của Thủ đô... Giọng Sanh chợt có vẻ ưu tư :
- “Bọn mình lặn lội khắp nơi, sống chết lúc nào không biết. Về Sàigòn, tôi cảm thấy vô cùng chán nản khi nhìn thấy sinh viên xuống đường biểu tình ngày đêm...”
Tôi trở lại thăm Sanh vào ngày cuối tuần. Trời vừa xế bóng, ánh nắng chói chang trên đồi cao. Tôi đến trước căn lều nhỏ khuất trong lùm cây, thấy Sanh ung dung đọc sách trên chiếc cán vải, ngực để trần, mồ hôi chảy thành dòng, hơi nóng trong lều bốc lên hừng hực. Sanh rủ tôi đi tắm sông. Chúng tôi theo lối mòn đi xuống bến. Bây giờ là mùa nước cạn, dòng sông chảy gần bờ phía Bắc. Những bánh xe đạp nước quay đều, đổ nước lên đồng mía. Sanh và tôi nhào xuống dòng nước mát lạnh ngọt ngào, quên hết những lo lắng trong hiện tại, những ưu tư với thời cuộc...
Sanh thách tôi bơi thi đến chỗ vày cầu gãy đổ giữa dòng. Khi bám vào được những cây sắt cong queo, han rỉ nhô ra trên mặt nước, hai chúng tôi đều thở dốc và cười vang. Chúng tôi leo lên ngồi vắt vẻo trên cây đà gần mặt nước, buông thỏng chân trong dòng nước trong veo. Giờ tôi mới nhìn thấy chiếc quần tắm bó sát người thật đẹp của Sanh. Anh chỉ cho tôi xem chử S hoa thêu bên góc, nét chỉ sắt sảo nổi bật trên nền vải màu nâu non. Bằng một giọng ngọt ngào Sanh nói :
- Của M.H. thêu cho tôi đó.
Sanh đưa mắt nhìn theo cánh chim trời bay về phương Nam rồi quay lại nói với tôi :
- Sau cuộc hành quân này, chúng tôi sẽ làm lễ cưới, anh cố gắng thu xếp về chung vui với chúng tôi nhé.
M.H. là sinh viên Văn Khoa. Mấy năm về trước nàng bị lao phổi và nằm điều trị tại Bệnh viện Hồng Bàng. Nhóm Sinh viên trường thuốc thực tập ở đó kháo với nhau là đôi mắt của người bị bệnh lao đẹp long lanh khác thường. Tôi không tin nhận xét đó, nhưng quả thật M.H. có đôi mắt đẹp trong sáng và hàng mi dài tha thiết.
Một chiếc lá trôi đến chổ chúng tôi. Sanh và tôi cùng khua chân nhè nhẹ, cho đợt sóng nhỏ đưa đẩy chiếc lá khô bập bềnh trôi ra xa. Sanh cất giọng ngân nga gần như hát : “... tuổi xanh như lá thu rụng cuối mùa, mộng về đêm đêm khát vầng trán ngây thơ...”
Về phía Tây, mây trắng bay lang thang bồng bềnh. Gió trên sông đã chớm lạnh, chúng tôi lội vào bờ. Trên đường về, tôi thấy những người lính Thủy Quân Lục Chiến nấu bữa cơm chiều dưới tàng cây. Mùi khói tản mác trong sương chiều. Tôi nói với Sanh, nửa đùa nửa thật :
- Này Sanh, tôi có cảm tưởng như anh đang đi cắm trại trong sinh hoạt Hướng đạo. Tôi ở tỉnh nhỏ này nhiều lúc buồn chán, ao ước đi đây đi đó như anh và thỉnh thoảng được về Sàigòn.
Sanh cười nhẹ rồi trả lời :
- Hành quân không giống như đi cắm trại đâu, địch pháo kích và tấn công bất ngờ lắm.
Khi đến chỗ căng lều, Sanh nghiêm trang nói tiếp :
- Anh thấy đó, lều của tôi căng bên bờ hố cá nhân. Đêm nằm ngủ, nghe tiếng depart là lăn ngay xuống hố.
Tôi bắt tay Sanh rồi lũng thững ra về. Xuống đến chân đồi, tôi dừng chân quay người nhìn lại. Ngọn đồi chìm trong hoàng hôn cô tịch, không một ánh lửa, không một bóng người. Tôi miên man nghĩ đến những đêm dài trong rừng núi, những hiểm nguy bất ngờ của người lính chiến, của Sanh.
Sáng nay, tôi đến Bệnh viện sớm. Những chiếc lá khô rơi là đà trong cơn gió thổi qua hành lang dài vắng vẻ. Hầu hết thương binh đã được chở đi Tổng Y viện Duy Tân tại Đà Nẵng để có giường trống cho thương binh của cuộc hành quân. Tiếng đại bác nổ dồn dập từ phía Tây Nam, tôi nghĩ đến cuộc hành quân, nghĩ đến Sanh đang lặn lội giữa bom đạn mịt mù…
Xe cứu thương bắt đầu chở thương binh đến Bệnh viện. Phòng lựa thương trở nên bận rộn. Dưới mái tôn, hơi nóng hâm hấp phảng phất mùi bùn đất và mùi máu tanh. Từ khi mặt trận ở phía Nam Quân đoàn I trở nên sôi động, Bệnh viện I Dã Chiến thâu nhận nhiều thương binh, và toán lựa thương làm việc rất mau chóng và hiệu quả.
Đến phiên tôi vào mổ. Người lính bị thương vì mảnh lựu đạn, gan, bao tử và ruột non bị lủng nhiều lỗ nhỏ. Cuộc giải phẫu kéo dài nhiều giờ. Tôi xem vết khâu lần nữa và yên lòng khi thấy màu hồng nhạt đều hòa trên khoanh ruột non. Cắt mối chỉ cuối cùng, vừa ngẩng đầu lên tôi đã nghe giọng nói điềm đạm của người chuyên viên đánh thuốc mê nói với tôi: “áp huyết 10 trên 7, nhịp tim 90”. Khẽ gật đầu tỏ dấu cám ơn, tôi tháo bỏ đôi bao tay và chiếc áo mổ rộng thùng thình, uể oải bước ra khỏi phòng.
Bên ngoài trời đã tối, tôi đi dọc hành lang về phía phòng lựa thương, nơi có ánh đèn Nê-ông sáng chan hòa. Phòng lựa thương đã vắng người, Y tá đang thu nhặt những mảnh vải rách nát, băng cá nhân đẫm máu rơi rớt trên nền nhà. Năm ba người lính Thủy Quân Lục Chiến ngồi trên băng ghế chờ xe về hậu cứ, bộ Quân phục tác chiến nhàu nát còn lấm bụi đường. Sau mấy giờ đứng giải phẫu, hai chân mỏi nhừ, tôi ngồi xuống bậc thềm trước phòng lựa thương nhìn ra đêm tối, ánh hỏa châu sáng cả vùng trời phía Tây Nam. Thượng sĩ Mỹ, Y tá trưởng khối chuyên môn đem đến cho tôi nước đá lạnh. Anh ta nói vắn tắt cho tôi nghe công việc tiếp nhận thương binh trong buổi chiều. Nghĩ đến Sanh, tôi hỏi :
- Ông có nghe nói tình hình cuộc hành quân như thế nào không ?
- Thưa Bác sĩ hình như là đụng trận lớn ! Thượng sĩ Mỹ trả lời.
Một người trong nhóm lính Thủy Quân Lục Chiến nói chen vào :
- Thưa ông thầy, tụi tôi vừa vào đến đầu làng là đụng nặng. Tiểu đoàn trưởng, Sĩ quan Cố vấn Mỹ đều tử thương.
Tôi vội hỏi : “Bác sĩ Sanh có sao không anh ?”.
- Bác sĩ Sanh bị thương ở đùi, tôi kéo ông ta vào nằm dưới bụi cây.
Rồi anh ta nói tiếp :
- Đến chiều thì Bộ chỉ huy Tiểu đoàn bị tràn ngập. Việt Cộng nhào lên, gặp người bị thương là bắn chết. Tôi nằm trong bụi rậm cách chỗ Bác sĩ Sanh chừng mươi thước nghe rõ ràng :
- Mày là Bác sĩ à ? Tao cho mày phát súng ân huệ !
Người lính Thủy Quân Lục Chiến ngừng nói, cúi đầu, cài điếu thuốc lên môi. Khuôn mặt sạm nắng đượm buồn. Mọi người lặng im. Tiếng dế rúc ngoài bụi cỏ nghe rõ mồn một. Thượng sĩ Mỹ chợt lên tiếng :
- Sư đoàn báo cho biết sẽ còn chuyến trực thăng chở thi hài đến Bệnh viện.
Tôi ngồi trên thềm nhà rất lâu với nỗi thê lương ngấm vào tâm hồn. Người tôi rã rời mệt mỏi.
Khi nghe tiếng trực thăng đáp xuống phía sau Bệnh viện, tôi theo người Sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến đi nhận xác. Tiểu đội Chung sự khiêng những Poncho chứa thi hài sắp thành hàng trước thềm nhà xác. Tôi đến từng chiếc Poncho để tìm Sanh. Khi chiếc Poncho cuối cùng được mở ra, có người bảo là trực thăng bốc nhầm xác một Quân nhân Mỹ. Tôi bước đến gần hơn, nhìn thi hài cao lớn, với gương mặt méo mó, rồi nhìn mẫu băng cá nhân cột ngang qua đùi bên phải, tự hỏi có phải là Sanh không ? Tôi dùng kéo cắt dọc ống quần, từ đầu gối rọc thẳng lên gần bụng và nhìn thấy ngay màu vải nâu non của chiếc quần tắm với chữ S thêu. Tôi nói với người Sĩ quan đó là thi hài của Sanh và tỏ ý muốn khâu lại vết thương cho người bạn học.
Căn phòng im lặng, chỉ có tiếng máy điều hòa không khí. Thi thể Sanh được đặt trên bàn, tấm khăn trắng phủ đến ngang vai. Tôi đứng trước bàn mổ, lòng tê tái, ngần ngại chưa muốn kinh động đến thi hài người bạn học. Trong giây phút, tôi nhìn vào gương mặt méo mó của Sanh. Nhìn vết thương tròn nhỏ trước trán, lấm tấm vết nám đen của thuốc súng. Xương mặt và xương sọ bể nát, mảng da sau gáy rách tả tơi. Tôi cố xếp lại những mẫu xương, máu và óc chảy ra ướt đôi bao tay, hơi lạnh thấm qua làm tôi rùng mình thảng thốt.
Tôi khâu vết thương đằng sau gáy, sửa cho khuôn mặt bớt méo. Dần dà đã thấy lại được đường nét quen thuộc của Sanh. Đôi mắt tôi bỗng nhạt nhòa, lòng bồi hồi thương tiếc. Mới hôm nào chúng tôi còn bơi lội trong dòng sông Trà Khúc... chiếc quần tắm màu nâu, có lẽ là kỷ vật thương yêu nhất nên Sanh mặc vào người trước khi ra trận. Kéo tấm vải trắng phủ qua mặt Sanh, tôi bước ra khỏi phòng.
Trời đã gần sáng, những vì sao đêm chỉ còn rất lưa thưa.
Y sĩ Thiếu tá Võ Thương.
Y sĩ trưởng Bệnh Viện I Dã Chiến (1965-1969)
Tam Kỳ, tháng Giêng năm Mậu Dần.

Lời BBT :
Phát súng “ân huệ” là một trong những câu chuyện quá đau thương đối với người lính TQLC nói chung, người Y sĩ trưởng TĐ.5/TQLC nói riêng và sự tàn ác của đối phương. Tàn ác tới độ có nhiều độc giả không tin đó là sự thật, mà là một chuyện hư cấu.
Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về trận chiến mà Bác Sĩ Lê Hữu Sanh đã hy sinh, chúng tôi xin ghi lại đôi dòng của Đại Tá Tôn Thất Soạn nói về trận đánh này. (phần chữ nghiêng).
***
Tiểu Đoàn 5/TQLC sau 3 tháng hành quân tăng phái cho SĐ.2 BB ở Quảng Ngãi với nhiệm vụ lùng và diệt địch để bảo vệ an ninh cho dân chúng (*). Khi chấm dứt nhiệm vụ, Tiểu đoàn chuẩn bị về nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ, suối Lồ Ồ Thủ Đức. Nhung giờ phút chót lại có lệnh triển hạn thêm một ngày để hành quân lục soát (!*) theo yêu cầu của SĐ.2 BB.
Ngày N tháng 6 năm 1966, lúc 8 giờ sáng TĐ.5 được trực thăng vận xuống một khu làng thuộc quận Mộ Đức mà tình báo địa phương “tình nghi *” có dịch ẩn trú. TĐ.5 chia làm 2 cánh, cánh A do Thiếu Tá Dương Hạnh Phước chỉ huy gồm có ĐĐ. 4. BCH/TĐ, ĐĐ.2. Cánh B do TĐP Đại Úy Phạm Nhã chỉ huy gồm có ĐĐ.1 và ĐĐ.3. Hai cánh quân tiến song song.
Khi tiến chiếm các mục tiêu, cả hai cánh quân đều chạm địch nhẹ. Đến 4 giờ chiều thì cánh A đã lọt vào vùng phục kích của lực lượng chính, chung bố trí trong các giao thông hào Ấp Chiến Lược với đủ mọi loại vũ khí nặng nhẹ kể cả đại bác 57 ly không giật bắn trực xạ vào BCH/TĐ.5 khiến Thiếu Tá Dương Hạnh Phước tử thường cùng với, Đại úy cố vấn Tom Kennedy, 1 HSQ USMC Âm thoại viên cùng một số Quân nhân thuộc BCH/TĐ. Một số khác bị thương, trong đó có Bác Sĩ Lê Hữu Sanh.
Bác Sĩ Lê Hữu Sanh chỉ bị thương, nhưng sau đó chuyện gì xảy ra với anh thì xin quý độc giả trở lại với “Phát Súng Ân Huệ” ! Quý danh của Bác Sĩ đã được Binh Chủng TQLC dùng để đặt tên cho Bệnh viện của Binh chủng: Đó là Bệnh viện LÊ HỮU SANH
Trong phạm vi bổ sung đôi dòng vào bài viết của BS Thương, chúng tôi xin phép miễn đề cập tới sự thiệt hại chung của cả TĐ.5 trong trận chiến này. Quý độc giả nào muốn biết thêm xin đọc các bài viết của Trung Úy Dương Bửu Long, ĐĐT/ĐĐ.4/TĐ.5 và Thiếu Úy Lê Văn Thời cùng những Mũ Xanh đã tham dự trận này, đã đăng ở trong ĐSST và Chiến Sử TQLC.
Nhưng mỗi lần nhắc đến trận đánh này, nhiều câu hỏi và nghi vấn lại được đặt ra :
a/ Địa phương sử dụng chiến thuật LL tăng phái sai, quân Tổng trừ bị mà cho đi lục soát !
b/ Địa phương không biết gì về địch tình ngay trong phạm vi trách nhiệm của mình.
c/ Địa phương không bảo mật hành quân ! Có vẻ như muốn bán LL tăng phái !

MX Tôn Thất Soạn.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------



Nghĩa tử là nghĩa tận: Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa
Photo: Bức tượng Thương Tiếc,
Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa
Sài Gòn xưa có xa lộ Biên Hòa là con đường huyết mạch nối liền Sài Gòn với Biên Hoà. Đây là xa lộ đầu tiên tại miền Nam do Hoa Kỳ xây dựng năm 1959 và khánh thành năm 1961. Hãng thầu phụ trách xây dựng xa lộ là RMK-BRJ của Mỹ, họ áp dụng công nghệ tân tiến của thời đó là đổ bê-tông toàn bộ con đường.

Xa lộ Biên Hòa dài 31km, rộng 21m, bắt đầu từ cầu Phan Thanh Giản (nay là cầu Điện Biên Phủ) và kết thúc tại ngã tư Tam Hiệp, Biên Hoà. Khi người Mỹ xây dựng, họ cũng tính đến trường hợp khẩn cấp, xa lộ có thể sử dụng làm phi đạo dã chiến cho các loại phi cơ quân sự. Tuy nhiên, từ năm 1971 xa lộ được xây vách ngăn giữa tim đường phân đôi xa lộ thành 2 chiều riêng biệt.
Xa lộ Biên Hòa
(Tổng thống Ngô Đình Diệm khánh thành ngày 28/4/1961)
Tuy nhiên, chủ đề của bài viết này không nói về xa lộ Biên Hòa mà là Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa nằm phía trái dọc theo xa lộ nếu đi từ Sài Gòn. Ngày nay, nếu có dịp viếng nghĩa trang này, người Sài Gòn không khỏi chạnh lòng trước cảnh điêu tàn, đổ nát của những nấm mồ hoang phế tại đây.

Được thành lập từ năm 1965 với quy hoạch 30.000 mộ phần, Nghĩa trang Quân đội tính đến năm 1975, đã là nơi an nghỉ của khoảng 16.000 tử sĩ. Trong số đó có hơn 10.000 quân nhân tử trận trong hai chiến trường đẫm máu nhất: Tết Mậu Thân năm 1968 và Mùa hè đỏ lửa năm 1972.
Dù sao đi nữa, xét về khía cạnh nhân bản, những người sống vẫn còn được an ủi là nghĩa trang chỉ mới đạt một nửa công suất thiết kế. Nếu 30.000 mộ được lấp kín, niềm đau thương sẽ tăng gấp đôi khi cuộc chiến vẫn chưa chấm dứt. Tuy nhiên, xét về mặt chính trị, sự hoang phế của Nghĩa trang Quân đội ngày nay nằm ở trách nhiệm của chính quyền mới. Ông cha ta đã có câu nghĩa tử là nghĩa tận. Dù tử sĩ trước khi nằm xuống có khoác áo quân đội miền Nam hay miền Bắc thì họ vẫn là người Việt.
Năm 1964, nghĩa trang Quân đội ở Gò Vấp trở nên chật hẹp, không gánh vác được hậu quả của chiến tranh khi những người lính tử trận được đưa về ngày một nhiều. Cuộc chiến vẫn tiếp tục leo thang, phần lớn sĩ quan thuộc khu vực thủ đô đều được chôn tại nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi. Ở Mạc Đĩnh Chi, đất cũng bắt đầu khan hiếm và việc chôn cất ngày một tốn kém hơn.
Bình đẳng trong thế giới người chết:
Mộ Thiếu tá nằm cạnh Trung Sĩ tại Nghĩa trang Quân đội Gò Vấp
Từ những lý do đó, người ta nghĩ đến một nghĩa trang rộng lớn hơn. Ðơn vị Chung sự, chuyên lo hậu sự cho những chiến sĩ đã nằm xuống, cũng có nhu cầu về cơ sở để hoạt động. Kiến nghị được trình lên cấp trên, thông qua hệ thống Cục quân nhu, Tổng tham mưu, Tổng cục Tiếp vận. Các sĩ quan Quân nhu, Công binh, Ðịa ốc Tổng tham mưu đã phải bay trực thăng trên không phận Thủ Ðức, Bình Dương, Biên Hòa, nghiên cứu địa thế thật đẹp dành làm nơi an nghỉ cho các chiến hữu.

Đầu năm 1965, Liên đoàn 30 Công binh Kiến tạo đóng tại Hóc Môn đảm nhận công tác xây dựng và những chiếc xe ủi đất đầu tiên của Tiểu đoàn 54 Công binh bắt đầu hoạt động. Năm 1966, doanh trại của Liên đội Chung sự và khu nhà xác được xây dựng để tiếp nhận những di hài tử sĩ đầu tiên. Công binh tiếp tục làm đường, phân lô, xây Cổng Tam Quan, dựng Ðền Liệt Sĩ, đúc các tấm ciment và làm mộ bia.
Nghĩa trang Quân đội được xây dựng theo mô hình của một con ong. Đầu ong hướng về phía xa lộ Biên Hòa với mũi kim là con đường đâm ra xa lộ. Từ Cổng Tam Quan có hai con đường dẫn lên Nghĩa Dũng Ðài cao 43m. Ðầu ong là đền thờ chiến sĩ, cũng có lúc gọi là Ðền Tử Sĩ hay Ðền Liệt Sĩ. Phía dưới chân đền là Cổng Tam Quan nối thẳng một đường dài ra xa lộ. Con đường này làm thành cây kim nhọn của con ong và đầu kim là bức tượng Thương Tiếc ngay bên xa lộ.
Không ảnh Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa
Bức tượng Thương Tiếc là hình ảnh người lính ngồi nghỉ chân trên bệ đá, súng để ngang đùi, nét mặt buồn bã. Tác giả pho tượng đồng đen này là nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu, ông đã chọn người mẫu là một hạ sĩ quan thuộc binh chủng nhảy dù.

Người ta kể rằng vào những buổi chiều mờ sương, anh lính rời bệ đá, đi lững thững xuống con suối gần đó để uống nước. Còn có rất nhiều huyền thoại về bức tượng Thương Tiếc. Sau ngày 30/4/1975, tượng Thương Tiếc đã bị phá sập. Người ta nói anh lính đã chui vào lò nấu kim loại tái sinh… và như thế đã được đầu thai sang kiếp khác.
Số phận của Thương Tiếc sau năm 1975
Từ chân Nghĩa dũng đài, lưng ong chia làm hình nan quạt hướng ra 4 phía và tạo thành một lưới nhện. Phần đuôi ong hẹp, phần dưới dài ra như quả trứng. Các ngôi mộ giống nhau chia thành từng khu. Khu quốc gia dành cho các vị lãnh đạo, khu tướng lãnh, khu cấp tá, cấp úy và binh sĩ.

Quân nhu nhận tử sĩ từ mặt trận được đưa về bất kể ngày đêm để chôn cất, trong đó có những người lính tham gia các trận Mậu Thân 68, trận Mùa Hè 72, trận Hạ Lào, trận Cambodia. Tử sĩ của các đơn vị tổng trừ bị đem về từ 4 quân khu bên cạnh các tử sĩ thuộc quân khu thủ đô và các tiểu khu lân cận. Tử sĩ của các quân chủng, nữ quân nhân, thiếu sinh quân, tất cả đều nằm trong lòng đất Biên Hòa.
Tử sĩ chôn từ trung tâm Nghĩa Dũng Ðài lần lượt tỏa ra các khu bên ngoài. Ðã có trên 10 tướng lãnh nằm tại nghĩa trang Biên Hòa trong đó có cả các vị đại tá được vinh thăng sau khi tử trận. Người có cấp bậc cao cấp nhất được chôn tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa là cố Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí. Hiện nay ngôi mộ này đã được gia đình cải táng nhưng tại vị trí cũ vẫn còn dấu tích.
Trên đường vào nghĩa trang, đi theo con đường chánh xuyên tâm, lên dốc cao, phải qua Cổng Tam Quan, một công trình xây cất giản dị nhưng bề thế và chân phương. Giữa cảnh hoang tàn rêu phong hiện nay, Cổng Tam Quan vẫn giữ được đường nét vững vàng và gần như còn nguyên vẹn dù cỏ mọc, rêu phong.
Cổng Tam Quan ngày nay
Qua Cổng Tam Quan là con đường dẫn đến ngôi Ðền Tử Sĩ trên một ngọn đồi nhỏ có 4 lối dẫn lên từ bốn phía. Ðây là nơi để linh cữu trước khi chôn cất. Ðây cũng là nơi Tổng thống, Thủ tướng hay các giới chức cao cấp trong chính quyền chủ tọa các buổi lễ chiêu hồn tử sĩ.

Tháng 3/1975, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm lên thăm nghĩa trang và làm lễ đặt vòng hoa. Không ai có thể nghĩ đây là lần viếng sau cùng của một viên chức cao cấp sau biến cố tháng 4.
Đền Tử Sĩ (1969)
Nghĩa trang có các toán quân danh dự canh gác theo lễ nghi quân cách tại Vành Khăn Tang của Nghĩa Dũng Ðài. Quân nhân từ các quân binh chủng mặc sắc phục được điều động về theo đơn xin khi họ có đủ điều kiện. Với vóc dáng trẻ trung, khỏe mạnh, cao lớn, đoàn quân này được huấn luyện để canh gác và biểu diễn các thao tác nghi lễ như các đoàn quân danh dự tại nghĩa trang Arlington, Hoa Kỳ.

Sau Ðền Tử Sĩ, phải đi một đoạn rất dài mới đến đỉnh một dải đất cao, chính giữa trung tâm là Nghĩa Dũng Ðài. Ðây là công trình quan trọng nhất mà Công binh Việt Nam đã thực hiện từ tháng 11/1967.
Trên nền đất phẳng, Công binh đổ 10,000m3 đất làm thành một ngọn đồi nhân tạo trong gần hai tháng. Trên ngọn đồi nhỏ này, Công binh xây bệ tròn, chính giữa là ngọn kiếm hướng mũi lên trời. Cây kiếm có thân bốn cánh hình chữ thập cao 43m. Chân của chữ thập đường kính 6,5m và trên mũi nhọn là 3,5m, có bậc thang để leo lên đỉnh và đứng trên này sẽ nhìn thấy thành phố Sài Gòn.
Nghĩa Dũng Đài chụp năm 2000.
Nếu không có biến cố năm 1975, Nghĩa trang Quân đội khi hoàn chỉnh sẽ là Nghĩa trang Quốc gia. Đây sẽ là nơi an nghỉ của không riêng gì tướng lãnh, sĩ quan và binh sĩ mà còn là nơi chôn cất các thành viên chính phủ thuộc các ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp.
Công trình xây dựng nghĩa trang do điêu khắc gia Lê Văn Mậu phụ trách, được dự kiến bước vào giai đoạn 2, kéo dài 6 năm, với ngân khoảng 100 triệu, tiền VNCH năm 1973. Bức tượng Thương tiếc, Cổng Tam Quan và Đền Tử Sĩ đã hoàn tất trước năm 1970. Nghĩa Dũng Đài với ngọn tháp cao cũng đã làm xong, Vành Khăn Tang vĩ đại chung quanh đang gần đến giai đoạn khánh thành vào ngày Quân Lực 19/6/1975 thì biến cố tháng 4/1975 ập đến.
Trong thập niên 1990, những người tù cải tạo rời khỏi Việt Nam để đi định cư tại Mỹ. Khi họ trở về thăm quê hương, không ít người, bằng cách này hay cách khác, đã trở lại Nghĩa trang Quân đội để viếng các chiến hữu đã nằm xuống tại quê nhà.
Năm 1994, cơ quan IRCC, Inc. đã cử người về thăm lại Nghĩa Trang Quân Đội và ghi nhận phần lớn mộ phần còn tồn tại nhưng đang trong tình trạng hoang phế. Cuối năm 1997, chương trình tảo mộ hàng năm được bắt đầu thực hiện dưới hình thức thân hữu gia đình và làm từng toán nhỏ để tránh sự dòm ngó của chính quyền. Ngoài ra, anh em thương phế binh Sài Gòn cũng được hỗ trợ tiền bạc từ bên ngoài để âm thầm chăm lo cho những ngôi mộ vô chủ.
Thế giới đã có không ít những bài học về tinh thần hòa giải dân tộc qua những giai đoạn lịch sử khác nhau. Hoa Kỳ đã trải qua thời nội chiến phân tranh khốc liệt giữa hai miền Nam-Bắc, kéo dài từ năm 1861 đến năm 1863.
Khi cuộc nội chiến kết thúc, tử sĩ của cả hai miền đều được an nghỉ bên nhau tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington ở thủ đô Washington DC. Mỗi năm có gần 4 triệu người Mỹ đến viếng Arlington với lòng thành kính biết ơn những người đã nằm xuống cho đất nước đứng lên. Họ hoàn toàn không phân biệt liệt sĩ là người của quân đội miền Nam hay miền Bắc.
Năm 1863, Tổng thống Mỹ Abraham Lincohn đã khánh thành nghĩa trang Quốc gia với lý do thật giản dị, “tất cả những người chết đều là đồng bào”. Ông Lincoln tuyên bố trong diễn văn khánh thành nghĩa trang ngày 19/9/1863: “Tại đây chúng ta đoan quyết rằng cái chết không bao giờ là vô ích – rằng, dân tộc này, nhờ ơn Chúa, sẽ có sự hồi sinh mới của tự do – rằng một Chính phủ của nhân dân, do nhân dân và vì dân sẽ không thể bị phá hủy trên trái đất này”.
Cuộc nội chiến kết thúc, 20 vạn tù binh miền Nam được thả về nhà mà không cần cải tạo và cũng không có lễ ăn mừng chiến thắng. Lý do, một lần nữa cũng dễ hiểu, “những người bại trận cũng là đồng bào”.
Lớp hậu duệ của những người Đức đã bỏ mình trong những trận mưa pháo của hạm đội Hoa Kỳ và Anh Quốc cùng con cháu những chiến binh Anh-Pháp-Mỹ đã gục ngã trước họng súng đại liên của Đức quốc xã trong ngày đổ bộ lên bãi biển Normandy (6/6/1944) hồi Đệ nhị thế chiến… ngày nay đều cùng quay trở về thăm mộ bia của cha ông đến từ cả hai chiến tuyến.
Tại Trung Hoa, Nghĩa trang Hoàng Hoa Cương của quân đội Tưởng Giới Thạch – trong đó có cả mộ phần của liệt sĩ chống Pháp Phạm Hồng Thái đến từ Việt Nam – vẫn được chính phủ Hoa Lục trùng tu và chăm sóc cẩn thận. Ngày nay nghĩa trang này đã trở thành di tích lịch sử, thu hút một lượng khách du lịch đông đảo. Họ có thể là những người đến tham quan thắng cảnh và cũng có thể là hậu duệ của những tử sĩ đã nằm xuống tại đây.
Mộ Phạm Hồng Thái trong nghĩa trang Hoàng Hoa Cương
Tại Việt Nam, biết bao gia đình có con em phục vụ dưới hai mầu áo khác nhau nhưng mẹ Việt Nam vẫn không hề phân biệt trong những dịp cúng giỗ. Tình cảm thiêng liêng đó đã có từ trước 1975 và tiếp tục duy trì sau ngày Sài Gòn mất tên. Sao chúng ta không mở lòng như người mẹ bình thường đã và đang làm?
Chiến sĩ tử trận: Người mẹ bên nấm mộ mới chôn (1972)
Nghĩa tử là nghĩa tận. Tại sao chúng ta không làm được như những dân tộc khác đã làm? Đối với những người còn sống, chúng ta vẫn có thể phân biệt chính kiến nhưng đối với người đã chết, liệu sự phân biệt đối xử đó có hợp với đạo lý muôn đời của người Việt hay không?
Học sinh trường Quốc Gia Nghĩa Tử tham dự lễ Quốc Khánh 1/11/1969 tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.
Pics Link: https://kontumquetoi.com/2013/04/25/669/

No comments:

Post a Comment