Tuesday, December 12, 2017

Cựu Đại Tá Lê Khắc Lý, cựu chủ tịch Cộng Đồng Việt Nam Nam California, “qua đời vào lúc sáng sớm Thứ Ba, 12 Tháng 12, trong lúc đang ngủ tại tư gia.”


Cựu Đại Tá Lê Khắc Lý thọ 82 tuổi. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)
SANTA ANA, California (NV) – Cựu Đại Tá Lê Khắc Lý, cựu chủ tịch Cộng Đồng Việt Nam Nam California, “qua đời vào lúc sáng sớm Thứ Ba, 12 Tháng 12, trong lúc đang ngủ tại tư gia.” Ông Võ Văn Thiệu, anh em cô cậu của ông Lý, xác nhận thông tin trên với Người Việt.
Ông Thiệu cho biết: “Ông Lý là anh em cô cậu với tôi. Anh tôi có mổ tim cách đây 20 năm. Nhưng trước khi mất thì anh không có bệnh tật gì. Chỉ ngủ rồi ra đi luôn, rất thanh thản.”
Cũng theo lời ông Thiệu, ông Lê Khắc Lý sinh năm Quý Dậu, 1933, hưởng thọ 84 tuổi.
Trước 30 Tháng Tư, 1975, ông là đại tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từng đảm nhiệm các chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 24, Kontum; Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, Quân Khu II; Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Pleiku; tỉnh trưởng Quảng Ngãi,…
Năm 1975, Cựu Đại Tá Lê Khắc Lý định cư tại Hoa Kỳ. Ông từng làm việc tại Sở Xã Hội Orange County trong chín năm và tám năm cho Sở Bầu Cử. Ông góp phần tuyển dụng và huấn luyện nhân viên song ngữ, dịch các tài liệu bầu cử, cổ động và hướng dẫn cử tri Mỹ gốc Việt ghi danh và tham gia bầu cử và ứng cử.
Ông Lý cũng tham gia hoạt động để hình thành Cộng Đồng Việt Nam Nam California và trước khi qua đời ông là cố vấn Ban Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam Nam California. (Khoa Lại)


NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Tôi là người độc nhất còn lại để kể chuyện cho quý vị.”

nuocmattruocconmua NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.
ĐẠI TÁ LÊ KHẮC LÝ
  “Tôi là người độc nhất còn lại để kể chuyện cho quý vị.”
Vào năm 1974 có lần tôi đến trình diện tướng Phạm Văn Phú tại tư thất của ông ở Pleiku. Tướng Phú gọi tôi đến thảo luận một số kế hoạch. Điều đầu tiên ông nói là ông muốn di chuyển Bộ Tư Lệnh Quân Khu II tại Pleiku xuống Nha Trang. Ông hỏi tôi nghĩ thế nào? Tôi trả lời: “Tôi nghĩ đây không phải là một ý kiến tốt. Tôi ở vùng này khá lâu, đủ để hiểu tại sao chúng ta đóng Bộ Tư Lệnh tại đây. Chính Tổng thống Ngô Đình Diệm là người đã cho khai phá và phát triển vùng này. Ông Diệm có nhiều lý do chính đáng. Ông có ý đưa ảnh hưởng quân đội lên trấn ngự vùng cao nguyên. Đây là một khu then chốt, một khu vực chiến thuật trọng yếu, một khu vực canh nông với đất đai màu mỡ. Muốn đất nước giàu mạnh, phải sử dụng vùng này. Nay nếu Thiếu tướng rời khỏi đây, dân chúng sẽ di chuyển theo. Vùng này bỏ trống, Cộng sản sẽ đến. Khi kiểm soát được vùng này, chúng sử dụng làm căn cứ thì chúng ta sẽ mất tất cả miền Nam. Vậy nếu Thiếu tướng ở lại, dân chúng sẽ ở lại. Cộng sản có đến chăng nữa cũng phải khốc liệt lắm mới lấy được vùng này khỏi tay chúng ta. Thiếu tướng không thể cho không bọn Cộng sản vùng đất này!”
Quân Khu 2 là một vùng rất rộng, trong đó chúng tôi có mười bốn tỉnh. Nhưng chúng tôi chỉ có hai Sư đoàn, Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23. Vùng bình nguyên thuộc Quân Khu 2 cũng là một vùng rất trọng yếu về kinh tế và kỹ thuật.
Nhưng tướng Phú muốn di chuyển. Ông bảo: “Đóng ở đây là đóng Bộ Tư Lệnh quân đoàn ở tiền phương, mà binh đội lại đặt ở hậu cứ.” Tôi nói “Điều ấy rất đúng! Nhưng bây giờ nếu Thiếu tướng rục rịch gì ở Bộ Tư Lệnh là dân chúng cũng sẽ hoảng sợ mà di chuyển theo Thiếu tướng ngay.”
Sau hiệp định Ba Lê 1973, dân chúng luôn xem chừng quân đội. Hễ quân di chuyển đến đâu, dân di chuyển đến đấy. Họ thấy hiệp định Ba Lê không phải là một hiệp định ngưng chiến. Có điều gì dối trá ẩn giấu đàng sau. Dân Việt Nam biết kế hoạch của Kissinger. Họ biết tại sao Kissinger đã ký hiệp định này, dù không có thuận ý của chính quyền miền Nam. Dân chúng luôn tụ tập ở những địa điểm có đặt trụ sở các Bộ Tư Lệnh cao cấp. Khi các Bộ Tư Lệnh cao cấp di chuyển, mặc dầu vẫn để lại các trụ sở cấp dưới, nhưng đại đa số dân chúng sẽ vẫn cứ di chuyển theo bộ tư lệnh cao cấp, bỏ địa điểm cũ thành những nơi gần như hoang vắng.
Cao nguyên có một khối lượng dân đông đảo. Nếu họ di chuyển, Cộng sản sẽ có nhiều cơ may tiến vào. Dân không muốn bị bỏ lại với Cộng sản. Họ xem chừng và để ý tướng Phú rất kỹ. Nhưng tướng Phú thường hay ở Nha Trang. Nhiều người bảo tôi rằng ông ấy sợ. Tôi nghĩ có lẽ đúng. Ông từng bị bắt làm tù binh trong trận Điện Biên Phủ 1954, cho nên cứ nghĩ đến Việt Cộng là ông ấy đã đủ sợ. Tôi không có lòng tin nơi tướng Phú mỗi khi chúng tôi đụng trận.
Lúc ấy, ông quyết định không rời Bộ Tư Lệnh Quân khu nữa, nhưng cá nhân ông đã chuyển một số lớn của cải và đưa cả gia đình đi Nha Trang, hầu hết nhân viên cũng đi theo với ông. Tôi là người phải điều động mọi việc ở Pleiku. Đây là sự thực. Tôi không hề có ý khoe khoang.
Tướng Phú có mâu thuẫn cá nhân với hai ông tướng khác: Tướng Trần Văn Cẩm, trước là Tư lệnh Sư đoàn 23 dưới quyền tướng Nguyễn Văn Toàn. Khi tướng Toàn đổi đi, ông Cẩm trở thành phụ tá hành quân cho tướng Phú. Một người nữa là tướng Phạm Duy Tất, trước là Sư đoàn Trưởng Sư đoàn 21. Sau trở thành phụ tá Bình Định ở Nha Trang. (*)
Tướng Phú không thích cả hai ông này. Không có sĩ quan chấp hành, tướng Phú bèn tự đặt ra một số nhân viên riêng. Trưởng phòng Tổng quản trị của tướng Phú, Trung tá Trần Tích là người phụ trách bổ nhiệm sĩ quan vào các chức vụ thân cận của tướng Phú. Trung tá Tích làm việc rất chặt chẽ với vợ tướng Phú. Còn tôi chỉ biết lo điều động những chuyện hành quân, tình báo và tiếp vận của vùng cao nguyên mà thôi.
Tôi nghe quá nhiều dư luận về những chuyện bổ nhiệm này, trong ấy có điều đúng, cũng có điều thổi phồng. Tôi đã nghe nhiều chuyện về việc người ta đưa tiền cho vợ tướng Phú để mua chức vụ. Những chuyện này rất nản, làm người ta xuống tinh thần, nhưng làm gì được bây giờ? Báo cáo cho Tổng thống Thiệu chăng, nhưng như thế cũng chẳng kết quả gì, vì lẽ chính ông Thiệu cũng đã bị mua chuộc. Tôi bảo với các sĩ quan của tôi rằng tôi bịt miệng, che tai. Tôi chỉ cố làm cho tròn bổn phận một cách tốt đẹp. Tôi không muốn quan tâm đến các chuyện khác.
Về vụ tấn công Ban Mê Thuột: Chúng tôi biết chuyện ấy sẽ xảy ra. Tuy không biết đích xác lúc nào, và lực lượng Cộng sản có bao nhiêu, nhưng chúng tôi biết chuyện ấy sẽ đến. Đại tá Trịnh Tiếu, sĩ quan tình báo của tôi – hiện đang ở trong trại cải tạo tại Việt Nam – lúc ấy đã thảo luận với tôi về sự kiện một sư đoàn Bắc Việt có mặt tại vùng cao nguyên đang di chuyển. Chúng sẽ tấn công một địa điểm nào đó. Nhưng khi báo cáo tướng Phú, ông cho rằng chúng sẽ tấn công Kontum hay Pleiku. Ông đã tập trung quân lực để phòng vệ những vùng này. Ông Tất, Chỉ huy Biệt Động quân Vùng II, bạn đồng khoá với tôi, hiện cũng đang ở trại cải tạo tại Việt Nam, là người trách nhiệm phòng thủ Kontum và Pleiku. Kontum rất dễ tấn công. Còn Pleiku là căn cứ Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Tấn công những địa điểm này sẽ là một chiến dịch tuyên truyền chính trị thuận lợi cho địch quân. Tuy nhiên sĩ quan tình báo của tôi và cá nhân tôi hoài nghi giả thuyết này. Nếu địch muốn tuyên truyền, họ sẽ tấn công vào các toà hành chánh tỉnh. Nếu đánh Pleiku, họ không thể tấn công toà tỉnh. Và nếu họ tấn công chúng tôi, là sẽ có ngay các lực lượng tăng cường đến từ Sàigòn. Vì thế chúng tôi đặt Ban Mê Thuột lên đầu bảng liệt kê các mục tiêu mà Cộng quân có thể tấn công tại vùng II.
Nhưng khi tướng Phú quan sát Ban Mê Thuột, ông vẫn cho rằng Ban Mê Thuột có thể giữ được nếu bị tấn công. Ông tin địch quân không thể vào tỉnh. Phần tôi, không thấy có đặc công ở đấy. Còn chiến xa Bắc Việt, đối với chúng tôi không quá quan trọng, vì lẽ chúng tôi có không quân, Bắc Việt thì không.
Cuối cùng khi Cộng sản tấn công Ban Mê Thuột, ai nấy hoảng hốt. Khi chúng tấn công vào, tướng Phú đang ở Nha Trang. Vì thế tôi quyết định dàn quân lên Ban Mê Thuột. Tại đấy chúng tôi đã có Trung đoàn 53, và chúng tôi cho Biệt động quân tăng cường.
Trong một cuộc không kích của phi cơ chúng tôi, chẳng may đụng lầm Bộ chỉ huy tiền phương Sư đoàn 23, phá tan tất cả hệ thống truyền tin. Khi phải tái phối trí trận truyến, chúng tôi chiếm được một nửa thành phố. Vì Bắc quân quá mạnh trong thành phố, chúng tôi tiến chiếm thành phố một cách chậm chạp. Chúng tôi sợ bị mai phục. Rồi chính lúc ấy Sư đoàn Trưởng Sư đoàn 23 đã cho lính giữ an ninh để trực thăng đáp xuống bốc vợ ông và gia đình ông. Thật sỉ nhục. Trách nhiệm ông là chỉ huy chiến dịch tái chiếm Ban Mê Thuột, nhưng chỉ vì lo lắng cho sự an nguy của vợ mà ông đã đặt bãi đáp, ra lệnh cho binh sĩ tấn công phải quay lại bảo vệ vùng này trước! Quân Bấc Việt đã quan sát được. Khi ông ta làm thế thì Bắc quân khép chặt thành phố. Ông đã cho địch quá nhiều thời gian. Ông cho chúng một cơ hội tốt, rồi sau đó ông đã tiến quân rất chậm!
Đó là một lỗi lầm đáng trừng phạt. Ông đã bất tuân thượng lệnh. Nhưng ai sẽ là người quyết định về ông ta? Tướng Phú, hay Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu Trưởng liên quân? Sau này tôi đối diện với ông ta. Ông bảo trực thăng của ông bị bắn tỉa, ông bị thương. Ông giải thích tất cả binh sĩ đã ra khỏi trực thăng đi lo cho gia đình riêng của họ. Ông không thể kiểm soát họ được. Chúng tôi là bạn lâu năm, tôi bèn nói: “Tướng Tường, ông là Tư lệnh Sư đoàn, tại sao ông không bắn chúng nó?”. Ông ta không trả lời.
Phần Tướng Phú thì bay trở lại Pleiku quan sát tình hình. Lúc ông ở trong trung tâm hành quân với tôi thì nhận được một cú điện thoại từ Sàigòn do Tổng thống Thiệu gọi. Ông Thiệu bảo muốn gặp tướng Phú ngày hôm sau, tức là 14 tháng 3/1975 tại Cam Ranh.
Tôi bèn chuẩn bị các đồ biểu thuyết trình, các bản báo cáo tình hình cho buổi họp. Chúng tôi nghĩ Tổng thống Thiệu muốn biết diễn tiến các cuộc hành quân ra sao. Sáng hôm sau, ông Phú bay xuống Cam Ranh gặp ông Thiệu.
Sau khi gặp tổng thống, đêm ấy ông Phú trở về triệu tập một buổi họp tại Pleiku. Hiện diện trong buổi họp gồm có: Tướng Phú, tướng Cẩm, tướng Phạm Ngọc Sang Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, ông Tất và tôi. Vừa bước vào phòng họp, điều đầu tiên ông Phú nói là ông đã được ông Thiệu chấp thuận thăng chức cho ông Tất. Ông gắn sao cho ông Tất. Chúng tôi vỗ tay.
Xong, ông loan báo: “Chúng ta sẽ triệt thoái khỏi Pleiku và Kontum!”
Nghe ông nói như vậy, tôi mở mắt thật lớn. Tôi nghĩ có lẽ mình nghe không rõ. Nhưng ông giải thích: Chúng ta rút lui chiến thuật để tái phối trí chiếm lại Ban Mê Thuột. Ông Cẩm, ông Sang, ông Tất và tôi đều ngồi sững. Chúng tôi véo nhau. Tôi tự nghĩ: “Cần phải hỏi xem chúng tôi sẽ triệt thoái cách nào.” Tôi lên tiếng hỏi. Ông Phú đáp: “Quý ông sẽ sử dụng đường 7B.” Phản ứng tức khắc của tôi là bảo: “Thưa Thiếu tướng, không thể được!” Ông Phú bảo: “Tổng thống đã quyết định. Chúng ta không có sự lựa chọn, bởi vì chúng ta cần đạt yếu tố bất ngờ với địch quân.”
Tôi bảo: “Thưa Thiếu tướng, tôi sống khá lâu ở đây. Tôi biết rất rõ vùng này. Đường 7B đã bỏ phế từ lâu. Lực lượng Đặc biệt Mỹ, Lực lượng Đặc biệt Việt Nam, và cả địch quân đều đã hành quân trong khu vực ấy. Họ đã gài mìn khắp nơi. Nếu phải triệt thoái với các quân cụ quân dụng nặng nề, trước tiên phải khai quang mìn trên đường, nay ai còn có thể biết mìn đặt chỗ nào? Rồi lại phải sửa đường, làm gì có thời gian sửa chữa? Ngoài ra khi chúng ta quyết định triệt thoái là mọi người sẽ biết, chẳng còn gì bất ngờ nữa! Xin đề nghị Thiếu tướng nếu phải triệt thoái, hãy sử dụng quốc lộ số 19 mà đi thẳng. Sẽ phải chấp nhận một số tổn thất, nhưng như thế chúng ta mới có thể qua được.”
Tướng Phú bảo: “Không. Tất cả quyết định rồi! Quý ông không lựa chọn gì nữa. Sáng mai tôi bay đi Nha Trang. Quý ông sẽ có ba ngày để lo triệt thoái!” Tôi bảo: “Thưa Thiếu tướng, làm sao được? Chúng ta có bao nhiêu binh sĩ, bao nhiêu là đồ tiếp liệu và quân cụ. Phải ít nhất ba tuần lễ chúng tôi mới hoạch định nổi.”
Ông ấy bảo: “Tất cả những điều ấy cũng đã quyết định xong.” Tướng Cẩm và tôi bèn hỏi thế còn Địa phương quân, Nghĩa quân, các nhân viên hành chánh xã, tỉnh và dân chúng thì sao? Tướng Phú nói: “Quý ông đừng phải lo gì cho họ cả. Quên đi!”
Tôi hỏi ông ấy đã nói chuyện với người Mỹ, các nhân viên Trung ương Tình báo và văn phòng Tùy viên Quân sự của Hoa Kỳ trong vùng chưa? Và tôi không bao giờ quên điều này: Ông nhìn thẳng vào tôi mà bảo “Hãy quên bọn Mỹ đi. Đừng nói với gì với người Mỹ cả.” Đó là đích xác những lời ông ấy nói. Tôi rất xấu hổ mà kể cho quý vị nghe sự thực đã xảy ra ở Pleiku như vậy. Tôi không tin nổi chuyện ấy. Tướng Phú đã dự định bỏ rơi cả những người Mỹ, không báo động cho họ biết về cuộc rút quân này.
Lệnh thực ra là từ Tổng thống Thiệu. Tất cả những gì tướng Phú nói với tôi, ông bảo đều do ông Thiệu nói. Trong năm người tham dự buổi họp, giờ đây chỉ còn lại một mình tôi để kể câu chuyện này tại Mỹ. Ông Phú tự sát. Ông Sang, ông Cẩm, ông Tất giờ đây đều bị giam tại các trại cải tạo ở Việt Nam. Còn lại tôi là người độc nhất để kể câu chuyện này cho quý vị.
Ông Phú nói ông phải làm như vậy vì ông tuân hành lệnh. “Quý vị khỏi lo lắng gì chuyện này,” ông nói. Ông có vẻ rất bối rối khi nói và hiện rõ vẻ bất đồng ý kiến với lệnh trên.
Tôi được chỉ định làm sĩ quan chỉ huy triệt thoái. Ông Tất phụ trách các lực lượng chiến thuật, toàn bộ hệ thống truyền tin và tiếp vận. Tôi tự bảo “Trời! khổ cho tôi.”
Tám giờ sáng hôm sau, tướng Phú ra đi. Ông dùng máy bay, bay đi. Còn lại mình tôi lo liệu. Một lát sau, từ Sàigòn tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu Trưởng liên quân điện thoại, hỏi: “Tướng Phú đâu?” Tôi bật cười vì sự thể quá lố bịch. Tôi tự hỏi “Nói gì bây giờ? Nên nói thực hay nên chống chế cho ông Phú đây?”
Tôi bèn bảo: “Tôi không được rõ. Hiện tôi không có liên lạc gì với Tướng Phú cả.” Trung tướng Khuyên tiếp tục gọi nhiều lần nữa. Cuối cùng tôi đành bảo: “Vâng, xin Trung tướng cứ gọi Nha Trang để nói chuyện, ông ấy hiện ở đấy.” Tướng Khuyên hỏi: “Tại sao ông ấy lại ở Nha Trang.” Tôi bảo: “Thưa, tôi không được rõ. Trung tướng cứ hỏi thẳng ông ấy. Tôi hiện đang trách nhiệm điều động công tác ở đây, còn Tướng Phú đang ở Bộ Tư lệnh mới, đặt tại Nha Trang.”
Nhiều Tiểu đoàn Trưởng các binh chủng, nào Thiết giáp, Pháo binh, Quân vận đều đến gặp tôi, họ kêu ầm lên: “Tại sao lại rút? Chúng tôi đánh được, tại sao lại rút? Có việc gì xảy ra vậy?” Tôi chỉ còn có thể trả lời: “Tôi đồng ý với các bạn. Nhưng đây là lệnh Tổng thống và Tổng Tham mưu. Là quân nhân chuyên nghiệp, chúng ta làm gì được bây giờ? Bất tuân lệnh hay sao? Tất nhiên là không. Tôi biết là sai, nhưng đây là lệnh. Chúng ta muốn khởi loạn hay sao?”
Lúc ấy tôi tin thượng cấp đã có một kế hoạch mật mà chúng tôi không được rõ. Họ không thể ngu xuẩn đến như thế. Có lẽ đã có một sách lược mà vì không ở cấp chỉ huy tối cao, nên chúng tôi không được biết. Tướng Cẩm và tôi bàn bạc về cuộc rút quân điên rồ này. Chúng tôi ngồi cười. Ông Cẩm bảo: “Tôi cá với ông: đã có thỏa thuận rồi, mình khỏi đánh giặc nữa. Tôi cá là chiến tranh đã xong!” Tôi bảo: “Tôi ngờ lắm.” Nhưng ông ta nói: “Tôi suy đoán như vậy vì ở đây dẫu xảy ra bất cứ một cuộc tấn công nào, chúng ta cũng có thể đương đầu ít nhất ba tháng. Cho nên tôi cá với ông là đã có thỏa thuận, lần này mình có hoà bình thực sự. Tôi không rõ, nhưng tôi cũng cảm thấy như vậy.”
Tướng Cẩm cũng dùng máy bay, bay đi. Chỉ còn ông Tất và tôi trong Bộ Tư lệnh. Tôi tự nhủ người Mỹ đã là đồng minh chúng tôi trong bao năm trời. Diễn tiến này rất trọng hệ, mà họ lại không được biết gì. Tại sao chúng tôi không cho họ hay? Đó là lý do tại sao tôi đã gọi cho họ, bảo họ chúng tôi sắp triệt thoái. Họ hoàn toàn không hay biết gì.
Tôi báo cho các nhân viên Trung ương Tinh báo và Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ trong vùng là chúng tôi sắp rút quân. Họ không tin nổi khi tôi nói với họ như thế. Họ liên lạc Sàigòn, kiểm chứng, rồi tìm ra đó chính là sự thật. Nhờ vậy, họ đi thoát bằng máy bay, nên tôi đã được coi là có công trạng với Trung ương Tình báo Hoa Kỳ tại Sàigòn, tên tôi được lên đầu danh sách những người sẽ được giúp đỡ nếu Sàigòn sụp đổ.
Cuộc triệt thoái khởi đầu tiến triển tốt. Vào giây phút cuối, trực thăng của tôi bị hỏng máy, nên tôi đã đi cùng với đoàn xe ra khỏi Pleiku. Triệt thoái luôn luôn là một chiến dịch khó khăn, đòi hỏi nhiều tính toán cẩn thận, tỉ mỉ. Tôi chỉ có ba ngày để rút 100,000 người, và tôi không thể bỏ ai được. Dân chúng sinh sống chung quanh đáng được chúng tôi phải lo lắng săn sóc cho họ. Và dù tôi không bảo vệ nổi, họ vẫn đi theo. Rồi chỉ trong một thời gian ngắn, mọi sự bắt đầu ra ngoài khả năng kiểm soát của tôi. Các Tiểu đoàn trưởng thuộc quyền tôi không thể nào kiểm soát nổi tất cả mọi người được nữa. Đoàn người tan tành trên đường đến Tuy Hoà. Với thời hạn ba ngày, chúng tôi không thể đủ thì giờ làm được gì. Với thời hạn ngắn ngủi như thế, người ta chỉ còn có thể quyết định: Ai đi trước, ai đi sau, ai đi kế tiếp, thế thôi.
Bây giờ, hàng đêm tôi tưởng như tôi vẫn còn nhìn thấy cả đoàn xe ấy trước mắt. Nào chiến xa, thiết vận xa, xe vận tải nối đuôi nhau, biết bao binh sĩ với gia đình thân quyến vây quanh. Những cụ già ngồi lắc lẻo trên mui xe, những bà mẹ, những trẻ thơ ngủ trong lòng mẹ, nằm duỗi trên tay mẹ. Đôi lúc vài người xấu số chẳng may ngã xuống trong lúc đoàn xe tiếp tục chạy. Họ kêu la thảm thiết, thân hình bị nghiền nát dưới bánh xe. Tôi đã nghe những tiếng kêu la ấy. Tôi đã thấy một chiếc xe vận tải sức chở chỉ có nửa tấn đã nhồi nhét đầy người nên bị lật, những con người bị xe đè xuống nát xương. Tôi đã nghe tiếng xương gẫy. Tôi bất lực chẳng giúp gì được họ. Tôi đã thấy những con người bỏ xác bên đường. Thực là một cơn ác mộng kinh hoàng.
Đến phía tây thị xã Cheo Reo, đoàn xe bị oanh tạc nhầm bởi chính không quân chúng tôi, vô số người thiệt mạng. Tôi vừa vào được căn cứ Cheo Reo thì quân Bắc Việt đã kéo đến vây quanh. Chúng rót trái phá vào. Chỉ còn mỗi một máy truyền tin để gọi Nha Trang trong lúc tôi nằm dưới cơn mưa pháo.
Đơn vị truyền tin của tôi cố liên lạc với tướng Phú ở Nha Trang, thì ông Phú lại đang đi loanh quanh đâu đó. Tôi sử dụng Anh ngữ nói trên máy truyền tin với sĩ quan của tôi, vì lúc ấy địch quân chỉ còn cách căn cứ chúng tôi có khoảng một cây số. Tôi bảo anh ta: “Trình với Thiếu tướng là tình hình ở đây nguy kịch lắm. Hiểu tôi muốn nói gì khi tôi bảo tình hình nguy kịch chứ? Thế thôi! Không thì giờ nói nhiều. Tôi sẽ cố sức. Địch xiết chặt rồi.” Tướng Phú hiểu. Và hai mươi phút sau ông gọi tôi trên máy truyền tin, báo động cho tôi biết một lực lượng địch tại Phú Bổn đang khép chặt vòng vây. Ông Tất cùng với binh sĩ đang ở cách tôi ba cây số. Không quân được lệnh mang tôi ra bằng trực thăng. Thiết giáp được lệnh mở đường bất kể thiệt hại, và ông Tất sẽ đưa quân hỗ trợ.
Ông Phú gửi hai trực thăng đến, để đưa chúng tôi ra Nha Trang. Hỏa lực địch bắn lên dữ dội khi trực thăng hạ cánh. Chiếc trực thăng chở tôi tính ra tổng cộng chở đúng hai mươi bảy người, trong khi chỉ được chế tạo để chở mỗi lần bảy người. Chiếc kia gồm mười chín người. Rồi cũng cất cánh lên được, bay thoát về Tuy Hoà. Chúng tôi rất may mắn đã thoát. Trong lúc ấy tướng Phú vẫn ở Nha Trang.
Sáng hôm sau, tướng Phú điện thoại ra lệnh gọi tôi vào Nha Trang. Tôi bay vào, tổ chức lại Ban Tham mưu và ở đấy mười hai ngày. Rồi một lần nữa, ông Phú lại bỏ tôi cuốn gói đi. Ông dọn sạch nhà cửa, lấy máy bay đưa toàn gia đình đi, không hề nói với tôi một lời. Một hôm, viên Đại úy đến văn phòng tôi gõ cửa nói: “Đại tá, chỉ còn có Đại tá và tôi ở đây! Chẳng còn ai nữa cả!” Tôi bảo “Anh nói gì thế?” Lúc ấy vào buổi trưa, tôi vẫn đang cắm cúi làm kế hoạch tái phối trí binh sĩ. Tôi rất mệt, đang muốn ngả lưng. Nghe nói thế tôi bèn ra khỏi văn phòng, xuống thang gác. Hai nhân viên của tôi đang làm việc, họ báo cáo cho tôi là tướng Phú đã đi mất. Tôi lại nhà tướng Phú, không một ai. Nhà cửa trống rỗng. Tôi hỏi một Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng đang ở đấy là tướng Phú đâu rồi? Anh ta đáp: “Chẳng hiểu chuyện gì. Hiện nhà này không có ai cả, nhưng binh sĩ của tôi vẫn phải giữ an ninh căn nhà. Tôi không biết làm gì đây nữa.”
Tôi tập hợp sĩ quan, binh sĩ vào năm cái xe jeep. Làm gì được bây giờ? Ai nấy đều đã bỏ đi. Người ta bảo có người thấy tướng Phú ngoài phi trường. Chúng tôi lái ra phi trường. Đầu tiên, quân cảnh không chịu cho tôi vào. Sau, họ mở cổng. Khắp chung quanh tôi là lính không quân, tôi gặp cả ông tướng không quân cũng đang dáo dác tìm tướng Phú. Ông ta bảo: “Ông Phú đã đi, rồi ông Lý cũng đi thì tại sao chúng tôi còn ở lại đây. Đi thôi!” Nhưng lúc ấy tôi nào có đi đâu. Tôi chỉ đi tìm người chỉ huy của tôi thôi!
Rồi tôi nhận điện thoại của đại tướng Cao Văn Viên tại phi trường. Ông bảo: “Tướng Phú đâu?” Tôi nói “Tôi không được rõ, chính tôi cũng đang tìm ông ấy!” Ông nói: “Vậy anh cứ ở lại phi trường để kiếm ông ấy cho tôi.” Tôi bảo: “Vâng, tôi sẽ ở đây.”
Chúng tôi đợi chờ trông ngóng mãi vẫn chẳng thấy tướng Phú đâu. Sau bảy ngày không ăn không ngủ, tôi qụy xuống vì suy nhược. Lính và các sĩ quan của tôi bèn đẩy tôi vào một chiếc máy bay trong khi các toán lính khác rút đi. Chiếc máy bay thay vì đi Phan Rang để thiết lập bộ chỉ huy ở đấy, đã bay thẳng về Sàigòn. Khi tôi tới Sàigòn thì tướng Phú đã ở đấy rồi. Tôi về nhà. Hôm sau đi tiểu ra máu, sức khoẻ sa sút. Tôi đi khám bệnh. Bác sĩ cho thuốc, bắt tôi nghỉ ngơi, nhưng tôi vẫn đi làm.
Một lần nữa tôi cố liên lạc tướng Phú để xem phải làm gì. Câu đầu tiên ông ấy bảo tôi là: “Lý ơi, chúng ta bị phản bội rồi.” Tôi hỏi: “Bởi ai vậy?” Ông ta nói: “Bởi Thiệu. Thiệu đã cho chúng ta vào bẫy. Ông ta đã đẩy mọi chuyện cho chúng ta. Ông ta bảo tất cả là lỗi chúng ta. Chính ông ấy ra lệnh cho chúng ta rút quân, bây giờ ông ấy lại tuyên bố mọi sự đều do lỗi chúng ta cả!” Ông Phú muốn chuẩn bị một tờ trình để chứng minh chúng tôi chẳng có tội lỗi gì, để giải thích rõ chúng tôi đã điều khiển các chiến dịch ấy như thế nào, tại sao chúng tôi không lấy lại Ban Mê Thuột, tại sao chúng tôi triệt thoái.
Vì thế tôi sửa soạn một tờ trình dầy cộm cho tướng Phú.
Tôi đến thăm tướng Phú và tướng Trưởng, Tư lệnh vùng 1, bấy giờ đang ở trong bịnh viện. Tướng Trưởng ôm lấy tôi mà khóc. Ông bảo: “Lý ơi, chúng ta mất hết fôi!” Tướng Trưởng yêu đất nước, yêu đồng đội và yêu Quân đoàn I của ông. Nhưng bây giờ, tất cả không còn gì nữa.
Khi gặp lại tướng Phú, tôi thấy ông đang giận dữ. Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến ông giận dữ tổng thống. Sau khi trao cho ông tập báo cáo tôi đã soạn xong, ông ký tên, tôi đi gặp tướng Khuyên để đưa tờ trình này cho ông Thiệu và ông Cao Văn Viên. Nhưng sau đó, không bao giờ tôi nghe nói gì về tờ trình này nữa.

Tôi hỏi tướng Khuyên: “Chúng ta phải làm gì bây giờ. Chúng ta đã mất tất cả chưa?”. Ông nói: “Không. Chúng ta sẽ tập trung lại, vạch lại ranh giới, ông sẽ nắm lại Quân đoàn II.”
Nhưng tôi tự nghĩ ông tướng này không nói hết sự thật. Bây giờ chúng tôi không còn có thể làm như vậy được nữa. Nếu ông ấy bảo thế từ lúc tôi còn ở Pleiku, thì còn có thể được. Bây giờ tôi chỉ huy được ai. Lính thì không, địch đầy rẫy, chỗ nào cũng có địch quân.
Tướng Khuyên hỏi: “Nếu ông ở địa vị tôi, ông sẽ làm gì?” Câu hỏi đột ngột làm tôi chấn động, vì tôi nhận ra rằng tôi không còn có thể nghĩ được bất cứ giải pháp khả thi nào để giải quyết vấn đề của chúng tôi lúc này nữa.
Khi vê nhà, vợ tôi và tôi nghe tiếng phi cơ liên tục cất cánh mỗi đêm. Chúng tôi biết văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ đang di tản người ra khỏi xứ. Tin tức đưa đến chúng tôi mỗi ngày do đó chúng tôi đều biết những ai đã ra đi. Tôi đến gặp một người bạn là Tư lệnh Sư đoàn 2(?) Ông ta và tôi vẫn cố gắng thu thập lại lính tráng để tái tổ chức Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23.(?) ()
Nhưng bỗng lúc ấy, chúng tôi lại nhận được những tin tức toàn là tin tổn thất. Tôi đi gặp tướng Hiếu một cấp chỉ huy cũ của tôi và là một tướng lãnh hết sức lương thiện trong quân đội.
Tôi hỏi tướng Hiếu tình hình Quân khu III ra sao. Ông trả lời: “Chúng ta phải tái tổ chức và nỗ lực mà chặn những cuộc tiến công chiến xa của địch quân”. Vài ngày sau, ông bị giết.
Tôi đi ra đi vào từ Vũng Tàu đến Sàigòn nhiều lần, cuối cùng liên lạc được một số bạn hữu của tôi bên tòa Đại sứ Mỹ. Họ điện thoại bảo tên tôi đã có trên danh sách những người ra đi. Tôi đến tòa Đại sứ Mỹ, vào bằng cổng hậu vì người ta quá đông, họ đã để cho tôi vào. Tôi gặp tướng Charles Timmes, một bạn rất tốt của tôi. Ông bảo ông đã nhận được lệnh Hoa Thịnh Đốn đưa Cao Văn Viên đi, tên tôi được sắp kế tên ông Cao Văn Viên, vì tôi đã cứu được nhiều người Mỹ trên cao nguyên.
Do đó tôi đưa gia đình trực hệ, gồm vợ và các con đến đợi ở điểm hẹn, rồi được đón vào Tân Sơn Nhứt bằng xe buýt tòa Đại sứ. Chúng tôi chờ ở phi trường cho đến hôm sau.
Chúng tôi rời Việt Nam bằng chiếc máy bay C-130, bay đến trại tỵ nạn ở Guam. Đó là ngày 25 tháng Tư.
Khi rời đi, tôi biết tất cả đã mất. Trước kia tôi nghĩ có thể Cộng sản và Mỹ có thỏa thuận, nhưng điều ấy sai. Chúng tôi nghe nói người Mỹ đã bán đứng chúng tôi để kiếm những đồng minh khác.
Tôi nghĩ khi Kissinger đi Trung Quốc bắt tay với Mao Trạch Đông, đấy đã là chung cuộc của Việt Nam. Tôi biết sau đó Việt Nam chẳng còn hy vọng gì. Sau khi người Mỹ đi Bắc Kinh bắt tay với Trung Cộng, họ không cần Việt Nam nữa.
Đối với tôi, đấy là chuyện người ta đã bán đứng chúng tôi. Chúng tôi chẳng có gì để nói về chuyện ấy cả. Tôi nghĩ đáng lẽ Tổng thống Thiệu phải thấy được điều này mà chuẩn bị từ trước. Nhưng ông đã không thấy, do đó đối với tôi, Thiệu không phải là một lãnh tụ giỏi.
Bây giờ đây quý ông thử nghĩ: Nếu quý ông là người Việt Nam và quý ông yêu quê hương xứ sở mình, tất nhiên sẽ phải hỏi tại sao người Mỹ hành xử như thế? Đây chính là câu hỏi mà tôi đặt ra cho người Mỹ: Tại sao người Mỹ đã đối xử với bạn hữu của mình như thế?
Nhiều người bảo chúng tôi đã bị bán đứng. Tôi đành phải buồn bã mà đồng ý đúng là như vậy.


Trước 1975, tại Việt Nam
-Sinh tháng 8 năm 1928 tại Thừa Thiên
- Xuất thân Trường Sĩ Quan Thủ Đức Khóa 4, năm 1954
- Tỉnh Trưởng Quảng Ngãi, 1964-1965
- Tư Lệnh Biệt Khu 24 (Kontum), 1970
- Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 22, 1966-1969
- Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, Quân Khu II, Pleiku, 1970
- Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I TP, 1972-1974, Huế
- Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Pleiku, 1974-1975
- Cử nhân Luật Khoa, Đại Học Luật Khoa, Sài Gòn
- Tốt nghiệp Đại Học Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Lục Quân Hoa Kỳ, 1965-1966, Kansas, USA
- Tốt nghiệp Thủ khoa Trường Cao Đẳng Quốc Phòng VNCH, 1971-1972, Sài Gòn

Sau 1975, tại Hoa Kỳ
- Kỹ sư Kiểm phẩm (Quality Control Engineer), là người VN đầu tiên được cấp "Secret Clearance" qua sự bảo đảm của Thống tướng Westmoreland và Trung tướng Timmes
- Làm việc cho Quận Cam, 9 năm cho Sở Xã Hội và 8 năm cho Sở Bầu Cử. Góp phần tuyển dụng và huấn luyện nhân viên song ngữ, dịch các tài liệu bầu cử, cổ động và hướng dẫn cử tri Mỹ gốc Việt ghi danh và tham gia bầu cử và ứng cử
- Tham gia hoạt động để hình thành Cộng Đồng Việt Nam Nam Cali.
- Vừa đi làm vừa đi học lấy thêm bằng MBA (1979)

Suốt 21 năm phục vụ trong QLVNCH, Đại Tá Lê Khắc Lý đã nhiều lần được bổ nhiêm làm việc tại Cao nguyên, như Tư Lệnh Biệt Khu 24, Kontum, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu II, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Pleiku...
Vì vận nước, ông như bao nhiêu người Việt đành bỏ xứ lưu vong nhưng lòng hằng mơ một Viêt Nam Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền thực sự
Nguồn: Phố Núi Pleiku
Oan trái cộng đồng
Tôi biết rõ về hoàn cảnh đại tá Lý lên làm tham mưu trưởng quân khu II. Tôi cũng đích thân gặp và nói chuyện với thiếu tướng Phạm văn Phú ngay khi ông từ Pleiku bay về Nha Trang tháng 3-1975. Lúc đó cao nguyên bắt đầu di tản và đoàn xe còn đang rối loạn trên con đường đầy thảm kịch. Và tôi chỉ xin nói những điểm chính, không đi vào các chi tiết lẩm cẩm.
Chức vụ Tham mưu trưởng.
Tác giả lá thư oan nghiệt tố cáo ông cộng đồng Lê Khắc Lý đã viết như sau:
(Trích dẫn: Theo quyển “Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất Và Sự Thật Cuộc Triệt Thoái Quân Đoàn II” của tác giả Đỗ Sơn, sau khi Tướng Phạm Văn Phú trở thành Tư Lệnh Quân Đoàn II cuối năm 1974, Lê Khắc Lý đã trực tiếp gặp Tướng Phú xin chức Tham Mưu Trưởng, bị từ chối ông Lý đã chạy ngược về Sài Gòn vận động với Tướng Đồng Văn Khuyên, người đang nắm thực quyền tại Bộ Tổng Tham Mưu, để làm áp lực với Tướng Phú phải chấp nhận Lê Khắc Lý. Tướng Khuyên vẫn còn sống, đang cư ngụ tại Virginia.(Ngưng trích)
Sự thực không phải như vậy. Có thể anh chuẩn tướng Phạm duy Tất không biết rõ hay anh đã bị dẫn giải sai lạc. Là người tại chỗ biết rõ nội tình xin phép làm nhân chứng cho niềm oan khuất của người bạn cùng khóa, xin khai như sau.
Khi ông Phú được tổng thống Thiệu cử lên quân đoàn II, ông bèn xin tướng Khuyên bổ nhiệm đại tá Nguyễn Văn Thịnh làm tham mưu trưởng. Ông Thịnh thuộc bộ tổng tham mưu là bạn rất thân với ông Phú. Ông Thịnh từ chối, có trả lời ông Phú và trung tướng Khuyên. Ông Khuyên ra lệnh phòng tổng quản trị và trung tâm điện toán TTM chạy ra một danh sách các đại tá tốt nghiệp chỉ huy tham mưu cao cấp, có kinh nghiệp tham mưu cấp quân đoàn và một vài tiêu chuẩn cần thiết khác. Máy chạy ra tên ông Lý đứng hàng đầu 10 đại tá.. Theo danh sách điện toán chạy ra, coi như rất vô tư và công bằng, ông Lý có đầy đủ điều kiện. Đã từng làm TMT quân đoàn I, mới tốt nghiệp chỉ huy và tham mưu cao cấp. Ông được coi là sĩ quan xuất sắc trong hàng đại tá của QLVNCH. Hơn nữa chức vụ tham mưu trưởng quân đoàn II lúc đó cũng không phải là ai cũng muốn nhận.Tướng Khuyên chọn ông LÝ và hoàn toàn không quen biết gì cả. Cả bộ TTM ai cũng biết ông Lý làm tham mưu trưởng do "ông IBM" đề nghị. Riêng ông Phú vẫn nghi ngờ ông Lý là người của đại tướng Viên và trung tướng Khuyên lên dòm ngó. Tuy nhiên rồi việc ai nấy làm, nên mọi việc cũng xong.
Chuyện rút quân:
Sau đây là những đoạn buộc tội nặng nề từ lá thư tố cáo, xin trích dẫn;
(Trích) Cũng theo quyển “Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất Và Sự Thật Cuộc Triệt Thoái Quân Đoàn II” có đoạn ghi lại: “Sau khi họp với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ở Cam Ranh để nhận lệnh rút Quân Đoàn II từ Pleiku về Tuy Hòa, rồi Nha Trang bằng con đường đầy thảm họa 7B, Tướng Phạm Văn Phú đã mở cuộc họp mật với Bộ Tham Mưu của ông tại Pleiku, để chuyển lệnh của Tổng Thống Thiệu, trong đó có lệnh bảo mật tuyệt đối, kể cả với các nhân sự và cơ quan Mỹ tại Vùng II”. Lúc đó Đại Tá Lê Khắc Lý giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II. Nhưng chỉ nửa giờ sau thì ông Lê Khắc Lý đã báo cáo “lệnh mật” cho tất cả người Mỹ đang hoạt động tại Vùng II Chiến Thuật. “I personally informed the Americans there, the CIA, the consulate, the DAO, and told them they must go right now. At first they couldn’t believe. But I said, ‘Go, don’t ask’ ” - “Chính tôi đích thân báo tin cho người Mỹ ở đó, CIA, Tòa Lãnh Sự, DAO và bảo họ phải rút ngay lập tức. Thoạt đầu họ không thể tin tôi. Nhưng tôi bảo, ‘Rút đi, đừng hỏi’
Là một Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn, lẽ nào Đại Tá Lê Khắc Lý không thể hiểu được rằng sở dĩ Tướng Phú tuyệt đối giữ bí mật với người Mỹ là vì lúc bấy giờ Mỹ đã quyết định bỏ miền Nam, nếu họ biết tin rút lui thì có thể tin này sẽ được chuyển qua cho phía đoàn quân Cộng Sản của Văn Tiến Dũng đang nằm chờ dầy đặc ở Cao Nguyên Ông Lý đã coi thường sinh mạng của đoàn quân rút lui từ Vùng II gồm khoảng 165,000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa cộng thêm khoảng hơn gấp ba lần con số này là dân chúng chạy theo, để “lấy điểm” qua việc tiết lộ bí mật quân sự để bảo vệ sinh mạng của khoảng trên dưới 500 nhân viên người Mỹ đang có mặt tại Quân Đoàn II, Vùng II Chiến Thuật. Một sự thật phũ phàng của một Đại Tá Q.L.V.N.C.H.!
Một quân nhân thân cận với Tướng Phú còn cho biết thêm: chính Tướng Phú sau khi họp mật về cuộc hành quân triệt thoái Quân Đoàn II với lệnh cấm tuyệt không cho phía Mỹ biết thì khám phá ra chỉ nửa giờ sau, Đại tá Tham Mưu Trưởng Lê Khắc Lý đã thông báo cho phía người Mỹ. Tướng Phú đã quyết định tự ông bắn bỏ Đại Tá Lý lập tức nhưng Trung Tá Trần Tích, Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, đã hết sức can ngăn, đề nghị sẽ xử bắn Đại Tá Lý sau khi cuộc hành quân hoàn tất (Ngưng trích)
Đọc những lời buộc tội kể trên, dù không biết rõ nội tình cũng thấy toàn là những chuyện không tin được. Nếu quả thực chuẩn tướng Phạm duy Tất, là người tôi vẫn kính trọng, đã suy nghĩ như vậy thì rất đáng tiếc. Đó là những lập luận không có lý mà cũng không có tình, giữa các chiến hữu đã cùng phục vụ bên nhau trong những giờ phút khó khăn nhất của lịch sử rút quân tại cao nguyên.
Sự thực xin kể như sau.
Ông Thiệu họp tại Cam Ranh cho lệnh rút quân đoàn II và các đại đơn vị xuống duyên hải. Mục đích lấy lại Ban mê Thuộc. Lệnh ra không rõ ràng, nhưng hiểu ngầm là mặc cho các đơn vị địa phuơng ở lại tự cầm cự. Nhưng chẳng ai ở lại. Tự động theo quân đoàn chạy hết. Sau này tôi có dịp nói chuyện với đại tướng Viên và đại tướng Khiêm về chuyện này. Việc rút quân gần như trực tiếp giữa ông Thiệu và tướng Phú. Ông Phú họp tại quân đoàn cho lệnh rút rồi ông bay về Nha Trang thì Pleiku lập tức náo loạn. Quân đoàn, không quân, thiết giáp, công binh và các đơn vị chính quy chuẩn bị lên đường. Phái bộ Mỹ qua hỏi trực tiếp, lúc đó chỉ còn Lê khắc Lý. Chẳng có gì mà dấu diếm nữa. Sauver qui peut, như Tây đã thường nói. Mạnh ai nầy chạy. Chẳng cần ông Lý phải tiết lộ, mọi người đều tự tìm đường rút. Ông Lý không nói thì Hoa Kỳ cũng biết. Tình báo của cộng sản lập tức báo cáo tình hình cho địch đưa tin ra Hà Nội. Tuy nhiên, cộng sản cũng không chuẩn bị kịp nên phải mấy ngày sau mới kéo về đánh phá trên tỉnh lộ máu. Lý do chính là cuộc rút quân hỗn loạn bị kẹt cứng trên cầu sông Ba không mở đường kip. Khi tôi đại diện trung tướng Khuyên gặp thiếu tướng Phú tại Nha Trang giữa lúc cao nguyên bắt đầu triệt thoái, tuyệt đối không có điều gì chứng tỏ ông Phú hận thù hay khó chịu về việc người Mỹ tại Pleiku được báo tin. Chắc chắn cũng không có chuyện ông Phú muốn bắn bỏ ông Lê Khắc Lý. Trong suốt cuộc chiến Việt Nam đã có nhiều tin tức sai lạc. Người biết chuyện không nói. Kẻ không biết lại nói sai. Có nhiều chuyện tưởng vậy mà không phải vậy. Các bạn không nên lên án dựa trên những chuyện kể mà không phải mắt thấy tai nghe. Dù cho mắt thấy tai nghe cũng vẫn nhầm lẫn.
Ngoài ra, tôi cũng muốn nói thêm một chuyện hết sức quan trọng về những lời buộc tội người này người khác trong quân đội làm tay sai cho CIA. Trong chiến tranh, việc hợp tác tình báo giữa Việt Nam và đồng minh là điều bắt buộc. Quân báo 2 bên làm việc chặt chẽ để cùng sống chết bên nhau. Nếu người dân thường hay cấp dưới dấu diếm đưa tin cho tình báo đồng mình, đó là một chuyện sai lầm sẽ bị buộc tội nặng nề. Nhưng các cấp chỉ huy ở một lãnh vực nào đó đều có thẩm quyền thông báo cho cố vẫn hay tình báo, CIA biết. Ngược lại phía tình báo đồng minh cũng có trách nhiệm phải báo cáo cho phe ta. Không thể buộc tội vớ vẩn như thế. Tướng Phú hết sức may mắn có được ông tham mưu trưởng trực tiếp giao thiệp với Hoa Kỳ để giải tỏa áp lực phía đồng minh. Sự thực là ông Thiệu không hề tham khảo với Hoa Kỳ về quyết định này. Ông Thiệu không muốn báo trước cho Mỹ về quyết định rút quân và tái phối trí. Ông không muốn Hoa Kỳ phản đối vì chính ông muốn đánh lá bài bỏ đất để Hoa Kỳ quay lại cứu miền Nam. Một chính sách hờn rỗi đưa VNCH vào cơn thảm kịch không thể cứu vãn được. Vào những giây phút đó, người Mỹ tại Pleiku không cần thông báo cũng phải bỏ chạy mà thôi.
Vũ Văn Lộc - Oan Trái Cộng Đồng
Cảm nghĩ về Tướng Hiếu, Tư Lệnh Sư Đoàn 22

No comments:

Post a Comment