Tây Sơn hàng Trịnh; Thắng Chúa Nguyễn; diệt Chúa Trịnh:
Nguyễn
Nhạc nhân khi chúa Nguyễn bỏ chạy vào Quảng Nam bèn mang quân hai đường
thủy bộ ra đánh. Nguyễn Phúc Thuần vội bỏ Quảng Nam cùng
người cháu là Nguyễn Phúc Ánh theo đường biển trốn vào Gia Định, chỉ để
lại một mình Đông Cung Nguyễn Phúc Dương trấn thủ đất Quảng Nam.
Tháng
2 năm 1775, Trịnh Sâm từ Hà Trung trở về kinh, hạ lệnh cho quận Việp
đánh Quảng Nam. Quân Tây Sơn cũng tiến ra, lùng bắt được Phúc
Dương. Tháng 4, quân Trịnh vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây
Sơn. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, sai Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng
Cơ đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy
Nhơn.
Nhân
lúc Nguyễn Nhạc thua trận, tướng Nguyễn là Tống Phúc Hiệp từ Bình Khang
đánh ra Phú Yên, quân Tây Sơn lại thua phải rút về Quy Nhơn.
Tình thế của Nguyễn Nhạc rất nguy ngập, bèn sai người đến chỗ Hoàng Ngũ
Phúc xin đầu hàng và làm tiên phong cho chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn.
Quân Trịnh đi xa bấy giờ đã mệt mỏi, quân sĩ nhớ nhà, Hoàng Ngũ Phúc
cũng muốn mượn sức Tây Sơn diệt họ Nguyễn nên
nhân danh chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc hàng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem
sắc, ấn, cờ đến phong Nguyễn Nhạc làm “Tây Sơn trưởng hiệu tráng tiết
tướng quân”.
Dù
thế, quận Việp lão luyện vẫn không lui quân, đóng sát địa giới Quảng
Ngãi, định chờ nếu Tây Sơn bại trận sẽ tiến vào chiếm Quảng Ngãi
và Quy Nhơn. Nhân lúc Tây Sơn mang quân vào đánh Phú Yên, quận Việp
liền lấn tới đóng quân ở Châu Ổ thuộc Quảng Ngãi.
Tháng
7 năm 1775, nghe tin Nguyễn Huệ thắng quân Nguyễn chiếm lại Phú Yên,
quận Việp án binh lại. Theo yêu cầu của Nguyễn Nhạc, quận Việp
phong chức cho Nguyễn Huệ làm “Tây Sơn hiệu tiền tướng quân”. Ít lâu
sau, quân Trịnh bị bệnh dịch chết khá nhiều, quận Việp tuổi già sức yếu
bèn bỏ Quảng Nam lui về Phú Xuân, sau đó giao lại thành này cho Bùi Thế
Đạt, còn mình dẫn đại quân về Bắc. Tháng 10
năm đó, quận Việp bị bệnh chết trên đường về.
Lần
đầu tiên sau 150 năm Nam chinh, họ Trịnh tiến tới Quảng Nam, mở cương
thổ cho vua Lê thời trung hưng tới gần được như thời Lê Thánh
Tông thời Lê sơ trước đây. Cũng lần đầu tiên họ Nguyễn mất toàn bộ đất
căn bản Thuận - Quảng, bị dồn vào Nam Bộ, mảnh đất vừa đặt bộ máy hành
chính của mình chưa đầy 100 năm.
Cuộc
Nam tiến lần thứ 8 năm 1774 – 1775 của quân Trịnh cũng là trận chiến
Trịnh - Nguyễn cuối cùng. Từ đây hai bên bị lảnh địa của Tây Sơn
ngăn cách và không còn tái chiến. Sau 8 cuộc chiến vẫn không bên nào
diệt được bên nào nhưng không lâu sau đó cả Trịnh và Nguyễn đều bại dưới
tay Tây Sơn.
Ngô Thời Nhiệm:
Tên thật là Ngô Thì Nhậm (呉
時
任;
1746–1803) nhưng vì trùng với tên húy vua Tự Đức (Hồng Nhậm, Nguyễn
Phúc Thì) nên phải đọc và viết thành Ngô Thời Nhiệm; là danh sĩ, nhà văn
đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn
đánh lui quân Thanh. Ngô Thì Nhậm xuất thân gia
đình vọng tộc chốn Bắc Hà, là con Ngô Thì Sĩ, người làng Tả Thanh Oai
(huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây), ngày nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội. Tự
là Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên.
Sự nghiệp: Ngô
Thì Nhậm thông minh, học giỏi, sớm có những công trình về lịch sử. Ông
thi đỗ giải nguyên năm 1768, rồi tiến sĩ tam giáp năm 1775. Sau khi đỗ
đạt, ông được bổ làm quan ở bộ Hộ dưới triều Lê–Trịnh, được chúa Trịnh
Sâm rất quý mến. Năm 1778 làm Đốc Đồng Kinh
Bắc và Thái Nguyên. Khi đó cha ông làm Đốc Đồng Lạng Sơn. Cha con đồng
triều, nổi tiếng văn chương trong thiên hạ. Sau Vụ án năm Canh Tý
(1780), ông bị nghi ngờ là người tố giác Trịnh Khải nên phải bỏ trốn về
quê vợ ở Thái Bình lánh nạn.
Vụ án năm Canh Tý: Vụ
án xảy ra vào tháng 9 năm Canh Tý (1780). Nguyên nhân vụ án, theo Việt
Nam sử lược là vì chúa Trịnh Sâm say đắm nàng Đặng Thị Huệ, bỏ con
trưởng là Trịnh Khải mà lập Trịnh Cán (con của Đặng Thị Huệ) lên làm thế
tử. Từ đó người thì theo Đặng Thị, người thì
phò Trịnh Khải, trong phủ chúa chia ra bè đảng.
Tháng Chín năm Nhâm Dần (1782) Trịnh Sâm mất để di chiếu lập Trịnh Cán làm chúa và Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo (gọi tắt là Quận Huy)
làm phụ chính. Trịnh Cán còn ít tuổi mà lại lắm bệnh, không mấy người chịu phục, bởi vậy cho nên thành sự biến loạn.
( Đọc tiếp phần 4 )
Thế Chiến Quốc, Thế Xuân Thu (Tiếp
theo phần 4)
Sách
Khâm định Việt sử thông giám cương mục kể: Khi chúa Trịnh Sâm bị bệnh
nặng, Trịnh Khải bèn bàn mưu với gia thần là Đàm Xuân Thụ, Thế
Thọ, Thẩm Thọ và Vĩnh Vũ bí mật sắm sửa vũ khí, chiêu tập dũng sĩ, để
chờ thời cơ giết chết Đặng Thị Huệ và Hoàng Đình Bảo. Trịnh Khải còn
ngầm liên kết với Trấn thủ Sơn Tây là Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản, Trấn
thủ Kinh Bắc là Tuân sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân
để sẵn sàng hỗ trợ việc tranh ngôi Thái tử của mình.
Quan
Đốc Đồng Kinh Bắc là Ngô Thì Nhậm từng giữ việc giảng sách cho Trịnh
Khải, cũng rất được Khải thân yêu. Tên đầy tớ, cũng là học trò
của Nhậm lúc này đang giữ sách cho Khải là Hà Như Sơn biết được cơ mưu
trên, bèn nói với Nhậm.
Bấy
giờ có viên Cấp sự trung là Nguyễn Huy Bá, vốn tính ưa giảo hoạt, từng
vì tội tham ô mà bị bãi chức. Bá cho con dâu vào làm thị tì,
hầu hạ Đặng Thị Huệ, lại còn sai người thân tín vào cầu cạnh để làm môn
hạ của Nguyễn Khắc Tuân (là kẻ đối nghịch với phe Đặng Thị Huệ. Nhờ kẻ
thân tín này, mà Bá dò biết được cơ mưu, liền tố cáo ngay với Đặng Thị
Huệ. Ngô Thì Nhậm cũng phụ họa với Đặng Thị,
bèn cùng với Bá hợp mưu tố cáo rằng Khải đã lén liên hệ với hai viên
trấn thủ Sơn Tây & Kinh Bắc để làm chuyện phản nghịch.
Trịnh
Sâm giân lắm, cho triệu Hoàng Đình Bảo vào phủ bàn việc này. Trịnh Sâm
muốn trị tội ngay, song Hoàng Đình Bảo can rằng: "Sở dĩ Trịnh
Khải dám làm chuyện ghê gớm này, chung quy cũng vì có hai viên trấn thủ
Sơn Tây & Kinh Bắc chủ mưu. Nay, cả hai người này đang cầm quân ở
ngoài, nếu vội vàng trị tội thì sợ là sẽ có biến cố khác. Vậy chi bằng
hãy triệu hết hai viên trấn thủ ấy về triều rồi
hãy trị tội cũng không muộn".
Nghe
theo lời bàn của Hoàng Đình Bảo, chúa Trịnh Sâm bèn hạ lệnh triệu hồi
Nguyễn Khản về kinh, rồi cho bí mật bắt hết bè đảng của viên
trấn thủ này. Đồng thời, chúa cũng cho triệu Nguyễn Khắc Tuân về triều.
Sau khi giam tất cả lại, chúa sai Ngô Thì Nhậm cùng viên hoạn quan là
Phạm Huy Thức cùng lo việc tra khảo. Bất ngờ, cha Ngô Thì Nhậm là Ngô
Thì Sĩ mất, nên ông phải về chịu tang, nên chúa
dùng Lê Quý Đôn thay Ngô Thì Nhậm thụ lý vụ án.
Kết
cục thì: Đàm Xuân Thụ, Thế Thọ, Thẩm Thọ và Vĩnh Vũ đều bị giết. Nguyễn
Khản, Nguyễn Khắc Tuân đều bị giam vào ngục, còn Nguyễn Phương
Đính bị kết tội nuôi dưỡng Trịnh Khải không nên người, bị lột hết chức
tước và đuổi về làng. Sau, Nguyễn Khắc Tuân và Chu Xuân Hán đều uống
thuốc độc mà chết. Riêng Trịnh Khải bị phế, và bị quản thúc, mọi sự đi
lại đều có người giám sát.
Sau đó, mặc dù Trịnh Cán chỉ mới 4 tuổi vẫn được lập làm Thế tử, và Quận Huy được cử làm A phó để phò tá.
Chỉ
2 năm sau, Trịnh Sâm chết, phe Trịnh Tông lại trỗi dậy, xảy ra loạn
kiêu binh giết quận Huy và lật đổ Trịnh Cán, sau đó còn làm hỗn
loạn và khổ sở cho rất nhiều người trong suốt mấy năm liền, khiến Bắc
Hà thêm suy yếu.
Đốc
Đồng trấn Kinh Bắc Ngô Thì Nhậm có phải là người đồng tố giác việc mưu
sự của phe Trịnh Khải hay không, vẫn còn là một nghi vấn.
Theo
sách Hoàng Lê nhất thống chí thì chỉ có một mình Nguyễn Huy Bá đứng ra
tố giác. Ngô Thì Nhậm đã có lời khuyên Nguyễn Khắc Tuân phải
hỏa tốc về kinh can ngăn Trịnh Khải dừng lại cơ mưu, nhưng không được
nghe. Đến khi ông Tuân bị bắt giam, ông Nhậm định tìm cách gỡ tội, nhưng
vì việc tang nên phải về.
Năm
Nhâm Dần (1782), quân ưu binh giết Hoàng Đình Bảo, phế Trịnh Cán và
Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa. Bị cho là người có liên
quan đến vụ án Canh Tý, Ngô Thì Nhậm phải trốn về quê vợ ở Thái Bình
lánh nạn năm năm, rồi theo giúp nhà Tây Sơn.
Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai,
xuống lệnh "cầu hiền" tìm kiếm quan lại của triều cũ. Danh sĩ Bắc Hà đã
đầu quân cho nhà Tây Sơn từ trước đó mới chỉ có Trần Văn Kỷ, Ngô Văn Sở
và Đặng Tiến Đông. Tuy vậy, tới thời điểm này thì cả vua Lê lẫn chúa
Trịnh đều đã đổ. Ngô Thì Nhậm và một số nhân
sĩ Bắc Hà khác như Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch; các tiến sĩ Ninh Tốn,
Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan; Ðoàn Nguyễn Tuấn(anh rể Nguyễn Du); Phạm
Huy Lượng (tác giả "Tụng tây Hồ phú" )... lần lượt ra làm quan cho nhà
Tây Sơn. Sử cũ viết khi tuyển được Ngô Thì
Nhậm, Nguyễn Huệ mừng mà rằng: "Thật là trời để dành ông cho ta vậy",
và phong cho ông chức Tả thị lang bộ Lại, sau lại thăng làm thượng thư
bộ Lại-chức vụ cao cấp nhất trong Lục bộ.
Cuối
năm Mậu Thân (1788) do vua Lê Chiêu Thống cầu viện, 29 vạn quân Thanh
kéo sang Đại Việt, với chiêu bài diệt Tây Sơn dựng lại nhà Lê.
Ngô Thì Nhậm đã có kế lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn
(Ninh Bình) góp phần làm nên chiến thắng của nhà Tây Sơn.
Năm
1790, vua Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh Bộ thượng
thư. Tuy làm ở bộ Binh, nhưng Thì Nhậm chính là người chủ trì
về các chính sách và giao dịch ngoại giao với Trung Hoa. Ông là người
đứng đầu một trong những sứ bộ ngoại giao sang Trung Hoa.
Sau
khi Quang Trung mất, ông không còn được tin dùng, quay về nghiên cứu
Phật học. Sau khi Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm,
Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số viên quan triều Tây Sơn thì bị
đánh bằng roi tại Văn Miếu năm 1803. Ngô Thì Nhậm sau trận đánh đòn, về
nhà thì chết.
( Đọc tiếp phần 5 )
Thế Chiến Quốc, Thế Xuân Thu (Tiếp
theo phần 5)
Đặng Trần Thường: Đặng
Trần Thường (1759-1813) là công thần khai quốc nhà Nguyễn trong lịch sử
Việt Nam, người huyện Chương Đức (nay là huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Đặng
Trần Thường đậu sinh đồ về cuối đời nhà Lê. Sau khi nhà Lê mất, ông
không chịu ra làm quan với nhà Tây Sơn mà vào
Gia Định, theo giúp Nguyễn Ánh lập nhiều công trạng làm đến chức Tán
lý. Bình định xong, lĩnh chức Binh bộ Bắc thành, rồi được triệu về kinh
làm Binh bộ Thượng thư. Sau vì có lỗi, phải bắt giam trong ngục, làm bài
phú Hàn Vương Tôn phú; sau bị tội giảo.
Trả thù Ngô Thì Nhậm: Đặng
Trần Thường có tài văn học, lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng
dụng thì Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm
làm mất phong độ của kẻ sĩ, Ngô Thì Nhậm thét bảo Thường:
- Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác.
Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi mang khăn gói vào Nam, phụng sự Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long), làm đến Bình Lộ Thượng Thư.
Khi
thay đổi triều đại, Đặng Trần Thường vì mối tư thù cá nhân trước đó với
Ngô Thì Nhậm nên đã cho tẩm thuốc độc vào roi mà đánh Ngô Thì
Nhậm. (Theo VN sử lược và Quốc Triều Chính Biên).
Câu ứng đối nổi tiếng:
Sau
khi nhà Tây Sơn mất, các võ tướng và một số quan văn bị giải về Hà Nội
để bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu, trong số đó có Phan Huy
Ích và Ngô Thì Nhậm. Chủ trì cuộc phạt đánh đòn đó là Đặng Trần Thường.
Vốn có thù riêng, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm:
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Đặng Trần Thường có ý trách cứ Ngô Thì Nhậm không tiến cử ông ra làm quan, giờ đây ông được thăng quan tiến chức đâu cần nhờ ai.
Ngô Thì Nhậm khẳng khái đáp:
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.
Câu
đối thật chuẩn cả ý lẫn từ, tỏ rõ khí phách hiên ngang của Ngô Thì
Nhậm, chê bai Đặng Trần Thường chẳng qua chỉ là kẻ tiểu nhân đắc
chí lợi dụng thời nhiểu nhương mà có bổng lộc chứ danh giá gì.
Đặng
Trần Thường bắt ông phải sửa lại câu nói "thế đành theo thế " Ngô Thì
Nhậm im lặng không trả lời. Thường tức giận sai người dùng roi
tẩm thuốc độc đánh ông.
Sau
trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị đánh bằng thuốc độc nên còn
sống. Còn Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào tạng phủ, biết mình
không qua khỏi, trước khi qua đời ông có làm bài thơ gửi cho Đặng Trần
Thường như sau:
Ai tai Đặng Trần Thường
Chân như yến xử đường
Vị Ương cung cố sự
Diệc nhĩ thị thu trường.
Việt dịch:
Thương thay Đặng Trần Thường
Tổ yến nhà xử đường
Vị Ương cung chuyện cũ
Tránh sao kiếp tai ương?
Nghĩa
là: Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền thế lắm, nhưng khác nào như
chim yến làm tổ trong nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi. Giống
như Hàn Tín giúp Hán Cao tổ, rồi bị Cao tổ giết ở cung Vị Ương. Kết cục
của ngươi rồi cũng thế đó.
Khi
Ngô Thì Nhậm biết mình sắp qua đời, không biết có sinh lòng oán hận hay
không khi ông viết bài thơ gửi Đặng Trần Thường, nói rằng rồi
sau này ông ta sẽ như Hàn Tín mà thôi.
Nếu
là sân hận thì bài thơ trở thành lời nguyền rủa. Còn không, thì đó là
lời cảnh giác đối với Đặng Trần Thường, biết thời thế thì hãy
lui vể ở ẩn như Trương Lương (quân sư của Hán cao tổ, còn không thì sẽ
bị giết như Hàn Tín mà thôi)
Quả
nhiên sau này bài thơ ứng nghiệm, Thường bị vua Gia Long xử tử. Khi ở
đỉnh cao danh vọng mà Đặng Trần Thường đã bị sa cơ bởi những lời
xúc xiểm. Giữa ông và Lê Chất có điều hiềm khích. (Lê Chất 1769 – 1826-
là danh tướng của triều Tây Sơn, sau theo về triều Nguyễn) Sau Lê Chất
tố cáo ông đã khai gian sắc thần, đem những người không xứng đáng như
Hoàng Ngũ Phúc, tướng của chúa Trịnh vào hàng
phúc thần. Triều đình khép ông vào tội khinh người dối thần, tuyên án
xử trảm giam hậu. Rồi sau đó được tha. Lê Chất lại dâng biểu tố cáo ông
đã nhũng lạm khi ra coi tàu binh ở Bắc Thành, có giấu thuế đầm ao và
dinh điền. Vì vậy Thường lại bị bắt giam. Trong
ngục, Đặng Trần Thường tỏ ý mỉa mai, nên đến tai đình thần, do đó khi
kết án, đình thần nghị án xử giảo (thắt cổ) năm 1816.
Tương
truyền Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài Hàn Vương Tôn Phú bằng
quốc âm ( gồm có 24 liên có thể chia thành 5 đoạn: 1- Lúc hàn
vi 2- Lúc làm Tướng. 3- Công đánh dẹp. 4- Lòng trung thành. 5- Đoạn
Kết) để ví mình như Hàn Tín đời nhà Hán (Có lẽ Đăng Trần Thường nhớ đến
bài thơ của Ngô Thời Nhiệm trao cho mình trước khi chết chăng ?).
No comments:
Post a Comment