(Tư liệu DCCT)
Bắc Việt nói CIA và giới Công giáo đã kích động người dân đổ xô vào Nam
LM Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong/SGN
Lịch sử Giáo hội Miền Bắc không thể không nhắc tới biến cố di cư (1954-1955), nhất là viết về Giáo hội Công giáo Miền Bắc thời cộng sản.
Ngày 20 Tháng Bảy năm 1954, Hiệp định Geneva được ký kết. Vĩ tuyến 17 trở thành ranh giới tạm thời giữa hai miền Nam – Bắc. Một thỏa thuận đã được ký kết, tại điều 14, quy định trong thời gian 300 ngày, công dân hai miền được tự do đi lại và chọn lựa nơi ở của mình. Cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam bắt đầu. Có khoảng 820,000 người, trong đó khoảng 75% là người Công giáo, lên đường vào Nam và hơn 150,000 người, đa số là các đảng viên cộng sản, những người chiến đấu trong chiến khu… từ Miền Nam chuyển ra Miền Bắc, theo diện mà những người cộng sản gọi bằng mỹ từ: “tập kết ra Bắc.”
Những nghiên cứu gần đây cho thấy, biến cố di cư năm 1954 đã làm thay đổi cục diện phân bổ người Công giáo ở cả hai miền. Trong khi dân số Công giáo tại miền Nam tăng đột biến, thì tại miền Bắc người Công giáo chỉ còn phân nửa so với trước di cư. Những giáo phận có đông người Công giáo di cư phải kể đến: Phát Diệm với 80,000 người chiếm 72,.7% dân số Công giáo của địa phận thời đó; Bùi Chu với 150,000 người chiếm 71.7%; Thái Bình 80,000 chiếm 57.1%…
Không chỉ có giáo dân lên đường vào Nam, một số giám mục cũng lên đường đưa con chiên vào vùng đất mới, như: Đức Cha Tađêo Lê Hữu Từ (Giáo phận Phát Diệm), Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi (Giáo phận Bùi Chu), Đức Cha Giuse Trương Cao Đại (Giáo phận Hải Phòng). Tại nhiều giáo phận, sau di cư, số lượng các linh mục giảm sút đáng kể. Có những giáo phận số lượng linh mục di cư quá phân nửa, như Thanh Hóa (88.9%), Phát Diệm (87.4%), Hải Phòng (80.6%), Bùi Chu (77.7%)… Có những giáo phận chỉ còn 1 linh mục duy nhất như giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng (x. Lê Ngọc Bích, Nhân vật Công giáo Việt Nam: Các vị Giám mục một thời đã qua đời (1933-1985).
Điều đáng nói không chỉ là số lượng các giáo sĩ, giáo dân Công giáo dịch chuyển vào miền Nam để tránh đại họa CS, để lại một khoảng trống lớn về nhân lực, mà chính cuộc di cư ồ ạt của mọi thành phần dân Chúa Giáo tỉnh Hà Nội đã mang đi tất cả những gì là tinh hoa của Giáo hội Miền Bắc lúc bấy giờ. Nhà thờ trống vắng các con chiên. Các linh mục, các trí thức Công giáo, những giáo dân nhiệt thành cùng các chủ chăn lên đường vào Nam. Những người còn ở lại, hoặc là vì không muốn rời bỏ quê cha đất tổ, hoặc là vì gia đình có người già không đủ sức khỏe để lên đường, cũng có những người vì có mối liên hệ với Việt Minh trước đó và đang trông chờ Việt Minh nắm quyền nên họ đã vui mừng ở lại.
Theo Peter Hansen, tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của cuộc “di cư vĩ đại” này dường như không dễ dàng và càng không giống như những gì kiến thức lịch sử chính thống của “bên thắng cuộc” đã hình dung, rằng CIA đã đứng đằng sau cuộc di cư của người Công giáo bằng cách tung ra đòn đánh tâm lý chiến, đánh vào sự mê tín của những người Công giáo bằng cách phao tin “Chúa đã vào Nam,” rằng cuộc di cư lần này là do “Đế quốc Mỹ và bè lũ Ngô Đình Diệm” dụ dỗ và ép buộc.
Trong thực tế, có rất nhiều nguyên nhân khác nhau thúc đẩy người Công giáo bất chấp nguy hiểm vượt vĩ tuyến 17 vào Nam, trong đó lý do chủ yếu chính là nhằm tránh sự đàn áp tôn giáo cùng niềm tin nơi lời của các vị mục tử dẫn dắt họ. Cuộc di cư này với khoảng gần một nửa tổng số các giáo dân các giáo phận miền Bắc đã tạo nên khoảng trống vô cùng lớn, biến dạng hoàn toàn các cơ chế trong Giáo hội Miền Bắc bấy giờ (x. Peter Hansen, Bac di cư: Catholic Refusees from the North of Viêt Nam and Their Role in the Southern Republic, 1954-1959, Journal of Vietnamese Studies, Vol. 4, No.3, pp. 173-211).
Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng, trong cuốn hồi ký của mình, đã miêu tả Giáo hội Miền Bắc sau năm 1954 như một “cánh đồng hoang tàn,” các giáo phận người người xuôi Nam, nhiều giáo xứ rơi vào cảnh vườn không nhà trống. Những giáo dân còn ở lại đa phần là “những người bình thường, những người nghèo khó.” Các dòng tu hầu hết xuôi Nam. Cả Hà Nội chỉ còn một dòng tu nam duy nhất là Dòng Chúa Cứu Thế, với linh mục Vũ Ngọc Bích (1914-2004) một mình cai quản Ngôi đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Thái Hà suốt hơn 50 năm trời (x. Giám mục Phaolô Lê Đắc Trọng, Những câu chuyện về một thời, tr. 302 – 310).
Tất cả những dữ kiện đó, cùng với những cuộc bố ráp, bắt giữ của Việt Minh rộng khắp các giáo phận thuộc Giáo tỉnh Hà Nội, nhằm ngăn chặn những người Công giáo muốn vào Nam, báo hiệu một “cuộc thương khó” kéo dài của Giáo hội tại Miền Bắc.
Những ký ức buồn thảm
Giáo hội Miền Bắc kiệt quệ không chỉ vì cuộc di cư lớn lao năm 1954. Với số lượng giáo dân ít ỏi còn ở lại, kể từ đây, Giáo hội Công giáo Miền Bắc bắt đầu phải đối diện với những khó khăn từ chính sách thù nghịch Công giáo của người cộng sản.
Theo Stephen Denney, vì luôn coi Giáo hội Công giáo là “lực lượng cạnh tranh với chế độ mới” nên ngay khi nắm chính quyền, những người cộng sản, một mặt tìm cách hạn chế tầm ảnh hưởng của Giáo hội, mặt khác tìm cách biến Giáo hội thành một thứ “công cụ của nhà nước, trung thành với ý thức hệ và luật pháp của chế độ.”
Thực tế, trong lúc Hiệp định Geneva ký kết còn chưa ráo mực, cuộc di cư hai miền Nam – Bắc còn đang tiến hành, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cấp tốc thành lập cái gọi là “Ủy ban Liên lạc những người Công giáo yêu nước và yêu hòa bình,” nhằm “tuyên truyền chính sách của chính quyền đối với người Công giáo và động viên các tín hữu ủng hộ chế độ Cộng sản.”
Hội nghị đầu tiên của Ủy ban được nhóm họp lần đầu tại Hà Nội từ ngày 8 đến 11 Tháng Ba 1955, với 191 đại biểu trong đó có 46 linh mục, 8 tu sĩ và 137 các vị đứng đầu ban hành giáo các giáo xứ. Hội nghị bầu ra một ủy ban chấp hành, đứng đầu là một nhóm nhỏ các linh mục ủng hộ Việt Minh gồm có Cha Vũ Xuân Kỷ (65 tuổi, xuất xứ tỉnh Nam Định) làm chủ tịch, Cha Hồ Thành Biên (65 tuổi, xuất xứ tỉnh Sóc Trăng) làm phó chủ tịch. Các linh mục khác đảm nhiệm các vai trò nổi bật trong ủy ban gồm có Cha Nguyễn Thế Vịnh (tỉnh Ninh Bình) và một người miền Nam tập kết, Cha Võ Thành Trinh.
Mục tiêu của ủy ban này, như được hội nghị dự kiến, là giúp xây dựng chủ nghĩa xã hội và nhằm “giải thoát người Công giáo Việt Nam khỏi ảnh hưởng chủ nghĩa đế quốc ngõ hầu phục hồi tư cách xứng đáng cho Mặt trận Tổ Quốc và quốc gia.” Một xuất bản phẩm hằng tuần, tờ Chính Nghĩa, được Ủy ban thành lập, truyền thông suốt ba thập niên sau đó các quan điểm của người Công giáo “tiến bộ” và chỉ trích các giám mục và linh mục bị phán đoán là quá bảo thủ. (x. Pedro Ramet… “Catholicism and Politics in Communist Societies – Công Giáo Và Đời Sống Chính Trị Trong Các Xã Hội Cộng Sản”, pp. 270-295).
Việc thành lập cái gọi là Ủy ban Liên lạc những người Công giáo Việt Nam yêu nước, mà di chứng và những hậu quả của nó để lại còn lâu mới xóa nhòa trong ký ức của người Công giáo Việt Nam, thực ra, mới chỉ là khúc dạo đầu trong chính sách hạn chế sự phát triển của Công giáo tại Miền Bắc của nhà nước cộng sản.
Theo Stephen Denney, cuộc “cải cách ruộng đất long trời lở đất” mà cộng sản áp dụng từ năm 1953 và đỉnh cao là năm 1956, cùng với chiến dịch “Cải tạo Công Thương nghiệp” sau đó, mới là cú đánh kinh hồn gây chia rẽ giữa một bộ phận giáo dân Công giáo và các chủ chăn của họ.
Trong giai đoạn này, nhiều linh mục bị bắt giam. Các giáo dân nhiệt thành cũng chịu chung số phận với các chủ chăn của họ. Nhiều cơ sở tôn giáo bị cướp đoạt cách trắng trợn. Chủng viện bị đóng cửa. Đất đai, tài sản của Giáo hội bị tịch thu, chỉ riêng tại thành phố Hà Nội đã có khoảng gần 100 cơ sở bị nhà cầm quyền cưỡng chiếm cách trái pháp luật (x. Ibid.).
Song song với việc cưỡng chiếm tài sản hợp pháp của Giáo hội, chính quyền cộng sản, ngay từ những năm 1954 bắt đầu chiến dịch tuyên truyền đả kích Giáo hội, nhiều nhà văn, nhà thơ được huy động làm bồi bút cho chế độ và đích nhắm là đánh phá Giáo hội Công giáo.
Những câu nói như: “Vì đạo mà mất nước,”“theo đạo là theo Tây,”“theo đạo là phản động,” “đạo Công giáo vứt bỏ bàn thờ ông bà,”… là những câu nói cửa miệng của những cán bộ tuyên huấn và ngay cả những người được gọi là trí thức của chế độ đang giảng dạy tại các trường đại học.
Nhiều tác phẩm văn học công kích Giáo hội Công giáo như Bão Biển của Chu Văn hay Vỡ đê của Nguyễn Khải… được đưa vào sách giáo khoa tại các trường phổ thông trung học. Có thể nói, chế độ cộng sản đã huy động một hệ thống tuyên truyền đồ sộ, với các loại hình khác nhau, từ rỉ tai tuyên truyền tới công khai thách thức, từ sách vở báo chí, cho tới phim ảnh truyền hình, bằng những ngón nghề xảo quyệt, vẽ lên hình ảnh Giáo hội Chúa Kitô ở Việt Nam là “phản động,” cần phải loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Và họ đã thành công khi tạo ra được trong con mắt người dân Việt Nam nói chung một cái nhìn thiếu thiện cảm đối với đạo Công giáo.
Đối với những người Công giáo, trước những tuyên truyền của chế độ, phần đông các tín hữu tại giáo tỉnh Miền Bắc mang nơi mình thứ mặc cảm về niềm tin của mình mà di lụy của nó còn kéo dài cho tới tận hôm nay, khi nhiều người vẫn không dám tự tin nhận mình là tín hữu Công giáo ở những nơi công cộng hay khi gặp gỡ bạn bè. Có lẽ, phải còn lâu lắm, Giáo hội Công giáo Miền Bắc mới có thể xóa nhòa được những hệ quả khủng khiếp mà chính quyền cộng sản đã gây ra cho xã hội Việt nam nói chung và Giáo hội Chúa ở Miền Bắc nói riêng.
Sau khi đã thành công trong chiến dịch tuyên truyền đả phá Giáo hội, chính quyền cộng sản đã không dừng lại, Trái lại, họ tìm cách cô lập những người công giáo, biến những làng công giáo sau di cư thành những “làng lương” trong đó người công giáo chỉ còn là thiểu số. Những làng công giáo ít người di cư, nhà cầm quyền dùng chính sách “đi kinh tế mới” đẩy họ tới các tỉnh biên giới nơi không có bất cứ bóng dáng của những giáo đường. Người công giáo bị xếp vào thành phần “những công dân hạng hai” trong xã hội, những thành phần cần thiết phải bị lưu đầy.
Mặt khác, với quyền lực trong tay, chính quyền cộng sản còn tìm mọi cách “luật hóa” những sinh hoạt của Giáo hội bằng những thứ nghị định, nghị quyết hay pháp lệnh, với những thứ phép tắc mà thực chất là những cấm đoán bất kể điều đó có vi phạm tới tự do tôn giáo của người dân hay không. Có thể thấy rõ, những lãnh vực mục vụ trước đây vốn thuộc về thế mạnh của Giáo hội như giáo dục, y tế, bác ái thì bị cấm đoán. Nhiều chức vụ xã hội, người Công giáo cho tới tận hôm nay, vẫn không thể bước chân vào nếu không tuyên bố bỏ đạo, như ngành công an, ngoại giao…
Bên cạnh những thứ gọi là “văn bản luật”, chính quyền cộng sản đã ngang nhiên tìm đủ mọi cách ngăn chặn các Giám mục, linh mục tới phục vụ con chiên ngay trong địa hạt quản lý mà Giám mục giáo phận ủy thác cho họ. Thực tế, tại Giáo phận Hưng Hóa, mãi tới năm 1987, lần đầu tiên, Đức Giám mục Giáo phận Hưng Hóa mới được phép đến thăm mục vụ và ban Bí tích Thêm sức cho một giáo xứ tại tỉnh Phú Thọ, mà linh mục chính xứ khi đó đang là ủy viên hội đồng nhân dân tỉnh. Câu chuyện Đức Giám mục Vinhsơn Phạm Văn Dụ, Giám mục Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng, phải 19 năm sau khi được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Chính tòa năm 1960, trên đường chạy loạn cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung (1979), mới được Đức Hồng y Phaolô Phạm Đình Tụng, phong chức “Giám mục chui” tại Nhà nguyện Tòa Giám mục Bắc Ninh, là minh chứng hùng hồn cho chính sách “siết chặt” mà nhà cầm quyền Hà Nội áp đặt lên Giáo hội Công giáo Miền Bắc.
(còn tiếp)
No comments:
Post a Comment