CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU QUÂN SỬ – QUÂN LỰC VNCH:
Với không khí thời bình của Đệ Nhất Cộng
Hòa, tiểu đoàn trưởng đã quyết định cấp phép thường niên cho một số sĩ
quan, hạ sĩ quan và binh sĩ của đơn vị. Nằm ứng chiến có nghĩa là tiểu
đoàn phải được cấm trại 100% trong căn cứ. Tuy nhiên, theo thói quen,
một số sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ cũng lẻn ra phố Thủ Đức và Saigon.
Có lệnh gì đi nữa, thông thường cũng phải đến ngày hôm sau đơn vị mới
lên đường hành quân.
Chỉ một ngày sau khi cấp phép nghỉ, Tiểu Đoàn 4
TQLC được lệnh lên xe cấp tốc vào Bình Giả (thuộc tỉnh Bà Rịa) nhằm phản
công khi Cộng quân đột ngột phục kích Chi Đoàn Thiết Giáp ở Bình Ba,
trên Liên Tỉnh Lộ 15 nối liền Phước Tuy và Long Khánh.
Cuộc trực
thăng vận đã diễn ra suốt từ sáng sớm đến tờ mờ tối mới hoàn tất. Mỗi
đợt chuyển vận chỉ đủ cho một đại đội. Không có phản ứng gì của Cộng
quân được ghi nhận. Sau khi gom quân, chỉnh đốn đội hình, Tiểu Đoàn 4
tiến về hướng Bình Ba. Khi đơn vị chuyển quân ngang làng Bình Giả, dân
chúng đã đốt đuốc, cầm đèn rọi sáng hai bên đường. Họ vừa chào hỏi vừa
biếu trái cây, kẹo bánh cho binh sĩ khiến ai cũng nức lòng hăng hái tiến
lên mặt trận dù trời đã sụp tối hẳn. Ra khỏi làng đến lúc gặp liên tỉnh
lộ, đơn vị chuyển hướng về phía tỉnh lỵ Phước Tuy với đội hình dang
rộng vào hai bên cánh rừng cao su bỏ phế vì mất an ninh.
Thêm một giờ
đồng hồ di hành trong bóng đêm, tiểu đoàn trưởng đã quyết định dừng
quân bố trí phòng thủ qua đêm giữa vườn cao su. Không có dấu hiệu xuất
hiện của quân Cộng sản suốt đêm hôm ấy. Rạng sáng sớm, Tiểu Đoàn 4 TQLC
tiếp tục mở đường về phía nam. Chỉ đi them vài cây số đường, đơn vị đã
phát giác ra vị trí Chi Đoàn Thiết Giáp bạn bị phục kích ngày hôm trước
khi toán quân đầu thấy xác các thiết vận xa M-113 nằm trơ trụi ở ven
đường bên vườn cao su. Cộng quân đã tháo gỡ các khẩu súng nặng trên xe
thiết giáp. Tử thi của quân bạn bị họ lột cả quần áo và giầy cùng với vũ
khí cá nhân còn nằm la liệt trên trận địa. Phảng phất chung quanh vẫn
còn mùi thuốc súng, mùi cháy khét lẹt.
Tiểu Đoàn 4 đã dừng quân bố
trí và cho người thu lượm xác quân bạn đem ra vệ đường chờ xe chuyển về
Phước Tuy. Mãi đến xế trưa hôm ấy, Tiểu Đoàn 4 tiếp tục mở đường về
Phước Tuy để truy lùng CS . Địch quân dường như đã rút khá xa như con
thú dữ đã no mồi. Ngày kế tiếp, Tiểu Đoàn 4 được lệnh di chuyển mở đường
phía bắc quốc lộ số 4 từ Phước Tuy về Long Thành. Hoàn toàn không có
dấu vết hoạt động của địch. Tại Long Thành, đơn vị lại được lệnh càn
quét về phía Nam giáp với Rừng Sát ngập nước. Ở mục tiêu, Tiểu Đoàn 4
chỉ chạm súng nhẹ với quân du kích lẻ tẻ.
Ngày hôm sau, đơn vị được
di chuyển bằng xe vận tải GMC về lại căn cứ Dĩ An. Mỗi ngày, Tiểu Đoàn 4
phối trí một đại đội Bộ Binh lên phi trường Biên Hòa nằm ứng chiến tại
chỗ cho Quân Đoàn 3.
Trong khi đó, tại Saigon, không khí chuẩn bị đón
đêm Giáng Sinh và Tết Dương Lịch đang tưng bừng náo nhiệt. Các phòng
trà ca nhạc và vũ trường đã được mở cửa lại. Các tướng lãnh cầm quyền
còn đang ” say men ” sau ngày lật đổ anh em ông Diệm , ông Nhu .
Đột nhiên, ngày 31 tháng 12 năm 1964, Tiểu
Đoàn 4 TQLC, là đơn vị trừ bị cuối cùng của Quân Đoàn 3, được lệnh cấp
tốc chuyển quân lên phi trường Biên Hòa. Tại đây, phi đoàn trực thăng
Hoa Kỳ đã sẳn sàng chờ trên phi đạo. Lại một lần nữa, mỗi đợt trực thăng
khi chở được một đại đội tác chiến của Tiểu Đoàn 4. Từ phi trường Biên
Hòa đến điểm đổ quân ở làng Bình Giả, trực thăng phải bay mất một tiếng
đồng hồ cho một chuyến đi. Đại Đội 1 của Tiểu Đoàn 4 do Trung Úy Trần
Ngọc T. chỉ huy, được giao phó đáp chuyến bay đầu để lập đầu cầu trực
thăng vận và bảo vệ bãi đáp.
Trước đấy, vào ngày 30 tháng 12 năm
1964, Tiểu Đoàn 30 Biệt Động Quân (BĐQ) được đổ trực thăng vào trận địa
Bình Giả sau khi Chi Khu Bình Ba cấp báo lên cấp trên là Cộng sản đã xua
quân vào chiếm đóng trọn làng Bình Giả. Đây là một ấp chiến lược kiểu
mẫu được xây dựng hai bên một trục lộ trải đá trên hướng trục đông-tây
nối liền Bình Ba với khu rừng cao su Quảng Giao và làng Xuyên Sơn.
Làng
Bình Giả trải ra theo hình chữ nhật với bề ngang khoảng 4 trăm thước
tây và chiều dài độ một cây số. Với ngôi nhà thờ chính nằm ở khoảng
giữa. Dân chúng gồm hầu hết là giáo dân di cư từ Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh
vào Nam năm 1954. Để chống lại cuộc hành quân trực-thăng vận, CS đã đào
hầm chu đáo ở ven rừng giáp với quãng đất trống ngoài chu vi phòng thủ
của làng Bình Giả. Vòng đất trống khai quang quanh làng nhằm tránh địch
xâm nhập và tiếp tục chu vi phòng thủ với hàng rào kẽm gai, với bụi cây
mắc cỡ giăng mắc và bãi gài mìn, lựu đạn.
Trực thăng vừa cất cánh rời
bãi đáp, Tiểu Đoàn 30 BĐQ đã bị hỏa lực rất mạnh của Cộng sản từ các
hầm hố áp đảo gây thương vong nặng nề. Lực lượng Biệt Đông Quân vừa
chống trả vừa mở đường vào làng. Nhờ dân chúng trong làng trợ giúp, Biệt
Động Quân rút được vào ngôi nhà thờ chính. Họ cố thủ trước lực lượng
của Cộng quân bao vây bốn bề. Một số dân đã thu lượm vũ khí đạn dược của
lính Biệt Động Quân bị tử thương và kéo những người bị thương vào dấu
trong nhà họ. Quân số của Tiểu Đoàn 30 BĐQ chỉ còn hơn 100 người. Tiểu
đoàn trưởng và viên sĩ quan cố vấn Mỹ bị thương nặng.
Ngày kế tiếp,
Tiểu Đoàn 38 BĐQ đã được trực thăng vận xuống khoảng đất trống phía tây
nam của Bình Giả. Cuộc đổ quân không gặp sức phản kích của CS. Nhưng
trọn ngày, Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân không phá thủng được tuyến phòng
thủ của địch quân để bắt tay được với các binh sĩ còn lại của Tiểu Đoàn
30.
Khi Đại Đội 1 của Tiểu Đoàn 4 TQLC nhảy xuống từ trực thăng ở bãi
đáp phía tây bắc của làng Bình Giả, một vài thanh niên trong làng đã
tìm đến bắt liên lạc và tình nguyện dẫn quân xuyên qua bãi mìn an toàn.
Dù
vậy, vị sĩ quan đại đội trưởng Đại Đội 1 cũng cẩn trọng không thúc quân
lên, ra lệnh đơn vị bố trí giữ an ninh bãi đáp cho quân số tiểu đoàn
còn lại. Khi Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đã đổ bộ, Thiếu Tá Nho phái Trung Úy
Phil Brady (phụ tá cố vấn) lên gặp Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 để chuyển
lệnh tiến quân vào mục tiêu. Đội hình tấn công của đại đội đã tỏa rộng
và tiến thẳng về hướng nóc nhà thờ để giải vây quân bạn. Không đầy nửa
tiếng đồng hồ, cánh quân đầu của Tiểu Đoàn 4 TQLC đã bắt tay được với cả
Tiểu Đoàn 30 và 38 Biệt Động Quân đã phối hợp xua quân giải tỏa địch
quân ra khỏi làng Bình Giả. Dân làng đã bất kể hiểm nguy, xông ra tiếp
tay với quân đội.
Đến xế chiều hôm ấy, làng Bình Giả được giải tỏa.
Hơn một trăm tay súng sóng sót của Biệt Động Quân đều mang thương tích
trên người sau hai ngày chống cự với quân số Cộng sản đông gấp ba, bốn
lần. Ai cũng công nhận Tiểu Đoàn 30 Biệt Đông Quân còn sống sót là nhờ
vào sự che chở và tiếp tay của dân chúng làng Bình Giả.
Khuya hôm ấy,
Cộng sản trở lại mở cuộc tấn công vào phía đông nam của làng. Dân chúng
phát hiện được đã nổi chiêng khuya trống báo động rền trời. Sau đó, lực
lượng đột kích của Cộng sản bị đẩy lui bởi cuộc phòng ngự của quân đội
và sự yểm trở của trực thăng võ trang Hoa Kỳ bay lên từ phi trường Vũng
Tàu, dưới sự điều động của Thiếu Tá Eller là viên sĩ quan cố vấn trưởng.
Rạng
ngày 31 tháng 12 năm 1964, từ Saigon, Phái Bộ Cố Vấn Thủy Quân Lục
Chiến Hoa Kỳ đưa đến Tiểu Đoàn 4 một sĩ quan và ba hạ sĩ quan Mỹ với
nhiệm vụ “quan sát chiến trường Việt Nam.” Họ đến từ Sư Đoàn 3 TQLC đồn
trú tại Okinawa, Nhật Bản. Đại Úy Cook nguyên là sĩ quan truyền tin đã
được phái đến Đại Đội 1 do Trung Úy Trần Ngọc T. chỉ huy.
Đồng thời
tin ở trên cho biết, đêm hôm trước, trong khi truy kích địch quân rút
lui, một chiếc trực thăng võ trang của Hoa Kỳ đã bị bắn rơi trong rừng
cao su Quảng Giao bên cạnh làng Xuyên Sơn. Lệnh từ Quân Đoàn 3 đưa
xuống, Tiểu Đoàn 4 hành quân vào trận địa tìm xác chiếc trực thăng với
phi hành đoàn gồm 4 người Mỹ đã tử thương như tin tức ghi nhận.
Dù
hôm trước, vị linh mục của làng đã cho biết quân số của CS lên đến cả
trung đoàn (sau này được biết là Trung Đoàn tân lập Q276) khi tiến chiếm
Bình Giả, Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Nho đã ra lệnh cho Đại Đội 2 do
Trung Úy Đỗ Hữu Tùng chỉ huy, tiến quân vào Quảng Giao. Khoảng cách
đường chim bay từ làng Bình Giả đến Quảng Giao độ chừng hai cây số vời
rừng thưa, đồi thấp và vườn cao su già bỏ hoang. Đại Đội 2 với quân số
khoảng 120 người mở đường vào mục tiêu. Khoảng một tiếng đồng hồ sau,
trên hệ thống máu vô tuyến ANPRC10, Trung Úy Tùng báo cáo đã thấy xác
chiếc trực thăng bị bắn rơi và cả bốn tử thi người Mỹ. Tức thời, từ phía
mục tiêu, tiếng súng nổ ran xen lẫn với lựu đạn và đạn pháo ầm ĩ vang
vọng về làng Bình Giả.
Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 tức tốc ra quân
sau khi gặp người sĩ quan bạn đồng khóa ở Trường Võ Bị là Trung Úy
Nguyễn Đằng Tống, Đại Đội Trưởng Đại Đội 4. Họ quyết định cùng nhau lên
đường tiếp cứu quân bạn, trong khi chưa có lệnh hành quân của Tiểu Đoàn
Trưởng ban ra chính thức. Với hai đại đội mở rộng hai bên trục lộ rải
đá, từ Bình Giả đến Quang Giao, và Đại Đội 3 làm trừ bị, Tiểu Đoàn 4
TQLC xua quân lên trận địa. Đề phòng chiến thuật “công đồn đả viện” của
Cộng sản , hai đại đội tiền phong của Tiểu Đoàn 4 đã mở rộng hơn cánh
quân lục soát vào sâu trong rừng hai bên trục lộ. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn
và Đại Đội Chỉ Huy di chuyển ở đoạn giữa. Đại Đội 3 do Thiếu Úy Nguyễn
Văn Huệ bọc hậu làm trừ bị.
Nữa đường tiến quân, Đại Đội 1 gặp cánh
quân của Đại Đội 2 đang rút lui từ rừng cao su Quảng Giao trở ra. Một số
binh sĩ của Đại Đội 2 tình nguyện hướng dẫn vào nơi chạm súng để thu
hồi xác chết đồng đội và phi hành đoàn Hoa Kỳ. Trung Úy Tùng cho biết
quân số của CS rất đông và có cả một số mặc quân phục chính quy của quân
đội Cộng sản . Địch quân dùng cả pháo bắn vào trước khi bộ đội xung
phong. Như vậy, lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam, Cộng quân đã
tập trung lên đếp cấp Trung Đoàn để tấn kích. Trong khi ấy, Tiểu Đoàn 4
TQLC hành quân vào trận địa khong có phi cơ lẫn pháo binh yểm trợ. Nơi
xảy ra trận đánh nằm ngoài tầm pháo binh 105 ly tại Phước Tuy, Bà Rịa.
Cuộc
tiến quân dè dặt của hai cánh quân đầu chỉ phát hiện một vài cán binh
Cộng sản thấp thoáng trong vườn cao su bỏ hoang với cỏ tranh cao ngang
ngực người lớn. Các sĩ quan đại đội trưởng phải kềm quân không cho rượt
đuổi sợ địch dụ vào ổ phục kích. Giữa vườn cao su già Quảng Giao, trung
đội do Thiếu Úy Nguyễn Văn Hùng, vừa tốt nghiệp Khóa 19 Võ Bị, chỉ huy
đã ngã gục dưới lằn đạn của địch nằm rải rác dài một hàng ngang của đội
hình đang xung phong. Tiểu Đoàn ra lệnh dừng quân bố trí, chờ trực thăng
đến tản thương và lấy xác. Lúc ấy vào khoảng 2 giờ chiều ngày 31 tháng
12 năm 1964.
Độ một giờ sau, một chiếc trực thăng Hoa Kỳ từ Vũng Tàu
bay lên đáp xuống ở bìa rừng. Họ chỉ nhận 4 tử thi người Mỹ rồi cất
cánh. Còn lại mười mấy xác của Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam đều được gói
trong poncho chờ chuyến bay khác đến. Mãi đến 4 giờ chiều, sốt ruột vì
chờ đợi, Thiếu Tá Nho đã cho lệnh Đại Đội 3 và Đại Đội 2 còn lại trở về
về làng Binh Giả. Công tác chuẩn bị vừa xong thì đợt pháo đầu tiên rớt
xuống vị trí của Tiểu Đoàn 4 rầm rầm. Đạn nổ cả trên ngọn cây cao su làm
gẫy cành đổ xuống. Ở phía trước trục tiến quân, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn
gồm Thiếu Tá Nho, Đại Úy Hoán và y-sĩ của tiểu đoàn Trương Bá Hân vội di
chuyển về phía làng Bình Giả. Nhưng đã quá muộn, vòng vây của Cộng sản
bên ngoài đã khép kín.
Tiểu Đoàn Trưởng và viên y-sĩ tiểu đoàn trúng
đạn ngã chết tại chỗ. Tiểu Đoàn Phó bị thương ở ngực được người lính gốc
Nùng vực cõng lên lưng. Với khẩu súng trường và chiếc ba-lô lủng lẳng
trên hai tay, anh đã cõng người chỉ huy chạy thoát về đến tận làng Bình
Giả. Khi đặt Đại Úy Hoán xuống, người hạ sĩ này mới phát giác ông đã
chết từ lúc nào. Trong thương tiếc đớn đau, anh đã quỳ xuống một bên xác
của cấp chỉ huy cả tiếng đồng hồ.
Tại trận địa rừng cao su Quảng
Giao, sau đợt pháo mở màn, quân Cộng sản reo hò xung phong trong tiếng
kèn thúc quân dục dã từ tuyến đầu của Đại Đội 1 và Đại Đội 4 thuộc Tiểu
Đoàn 4 TQLC. Do việc dừng quân bố trí tạm thời, quân lính Thủy Quân Lục
Chiến chỉ ẩn sau từng câu cao su, trên mặt đất. Một số đã bị thương vong
sau đợt pháo mở đầu.
Phòng tuyến của Đại Đội 4 bên mạn Bắc đã bị
xuyên thủng. Từ trên đồi trong vườn cao su, Trung Úy T. thấy quân Cộng
sản lẫn lộn cả lính mặc quân phục chính quy CS với cây lá ngụy trang cài
trên người chạy lúp xúp. Dù vậy, Cộng quân đã ngưng xung kích để nã
pháo vào vị trí của Đại Đội 1 và mở cuộc xung phong lần thứ ba nhưng
không chọc thủng được phòng tuyến của quân lính nằm rải trên đồi.
Dưới
áp lực của CS , các binh sĩ Đại Đội 3 đành phải rời những xác chết của
các đồng đội và kéo rốc lên đồi để tăng cường phòng tuyến của Đại Đội 1.
Trên đường, Thiếu Úy Huệ, Đại Đội Trưởng và Thiếu Úy Dương Hoành Sơn,
Đại Đội Phó đã bị trúng đạn tử thương tại chỗ. Phòng tuyến của Đại đội 1
cũng được nối dài ra tận bìa rừng giáp với vườn cao su.
Trong lúc
ấy, Đại Úy Cook (sĩ quan được điều đến quan sát chiến trường của Sư Đoàn
3 TQLC Hoa Kỳ) đã bị trúng đạn ở đùi. Trung Úy Đại Đội Trưởng Đại Đại
Đội 1 lấy băng cá nhân cột vết thương rồi gọi người lính cận vệ là Binh
Nhất Nguyễn Văn Hai giao phó việc đưa Đại Úy Cook tìm đường về làng Bình
Giả trước. Sau này được biết, Binh Nhất Hai và Đại Úy Cook đã ra khỏi
trận địa an toàn sau đó và đã bị vòng vây thứ nhì của Cộng quân chận bắt
sống ở bìa rừng. Trong lúc bị dẫn giải ban đêm, Binh-nhất Hai đã tự cởi
trói, một mình chạy thoát về lại làng Bình Giả ngày hôm sau. Tin tức
được Hà Nội xác nhận vào ngày trả tù binh năm 1973, Đại Úy Cook bị giam
giữ luân chuyển ở Miền Nam Việt Nam, đến năm 1968 tuổi đã chết vì bệnh.
Trong khi ấy, đối với quân đội Hoa Kỳ, Đại Úy Cook vẫn được thăng cấp
lên trung tá cho đến ngày được xác nhận đã chết.
Tại mặt trận, sau ba
đợt tấn công bất thành, Cộng quân đẩy mũi nhọn công kích từ phía sau
lưng phòng tuyến của Đại Đội 1 và Đại Đội 3 còn lại. Người xạ thủ súng
không-giật 75 ly sống sót đã tự một mình nạp đạn và nã liên tục vào hàng
ngũ quân Cộng sản khiến đội hình của họ nhiều lần tan vỡ, rối loạn.
Được biết, sau này người hạ sĩ xạ thủ này đã một mình vác khẩu đại bác
75 ly không-giật chạy thoát về đến làng Bình Giả vào rạng sáng ngày 1
tháng 1 năm 1965.
Phòng tuyến của Đại Đội 1 vẫn giữ vững trước nhiều
đợt xung phong của CS, dù một số lớn quân sĩ đã bị thương vẫn nằm nguyên
tại chỗ. Y tá đại đội Nguyễn Em đã bất chấp hiểm nguy, xông xáo trong
màn lửa đạn, chạy quanh lo cấp cứu đồng đội bị thương. Cuối cùng, anh
cũng ngã xuống trước lằn đạn dày đặc của quân thù.
Sau gần hai tiếng
đồng hồ giao tranh ác liệt, màn đêm chợt phủ chụp xuống khu rừng già và
vườn cao su Quảng Giao. Trong thời gian ấy, khi quỳ gối thủ thế bắn,
Trung Úy Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 đã xử dụng khẩu AR-15 lần đầu tiên
được Hoa Kỳ đưa đến thử nghiệm tại chiến trường, tia hạ ngã gục từng tên
lính Cộng sản chạy lúp xúp với cây lá ngụy trang dắt trên người. Anh đã
bị trúng đạn vào bắp chân phải nhưng không còn băng cá nhân để rịt vết
thương. Hơn nữa, anh cũng không còn đầu óc đâu để bận tâm đến vết đạn.
Khi
trời đã tối sụp, trong bóng đêm đạn lửa của cả hai bên xuyên xỉa như
mưa lưới. Một số hạ sĩ quan và binh sĩ từ trên tuyến đầu của đại đội đã
rút về quanh Bộ Chỉ Huy và cho biết hầu hết quân sĩ đã nằm gục chết tại
tuyến phòng ngự, luôn cả bốn sĩ quan trung đội trưởng. Trung Sĩ Nhất
Nguyễn Văn Khiên, Trung Đội Phó, vừa nhìn quanh kiểm điểm, vừa nói: “Đại
đội của mình chỉ còn hơn một chục người rút về quanh đây thôi!” Trung
Úy T. cho lệnh tất cả sẳn sàng để cùng nhất loạt đứng lên, mở đường máu
thoát ra bìa rừng về hướng làng Bình Giả. Tất cả vừa chạy vừa bắn và ném
lựu đạn bừa tới phía trước. Còn lại theo chân Đại Đội Trưởng chỉ còn
Binh-Nhất Nguyễn Văn Khanh mang máy truyền tin liên lạc cấp đại đội và
Hạ Sĩ Nguyễn Tú, hiệu chính viên cấp tiểu đoàn.
Vừa chạy cà nhắc do
bị thương, vừa bắn về phía trước gần đến bìa rừng, Trung Úy T. bị thương
phát đạn thứ hai trên đùi phải kiến lao chao ngã sấp xuống. Đồng thời
Hạ Sĩ Tú kêu “hự” một tiếng cũng té xuống theo. Dưới ánh lửa đạn, Trung
Úy T. vội tháo máy truyền tin trên lưng Hạ Sĩ Tú rồi nã súng phá hủy.
Binh Nhất Khanh vội ngồi thụp xuống một bên Trung Úy T. hốt hoảng hỏi:
– Sao Mai có sao không? Để tôi cỏng Sao Mai chạy. Trung Úy T. xua tay nói lớn:
– Tôi bị thương nặng lắm. Chú chạy đi. Về làng Bình Giả. Để mặc tôi.
Binh Nhất Khanh khẩn khoảng:
– Tôi không bỏ Sao Mai được đâu. Để tôi ráng cõng Sao Mai đi.
Đại
Đội Trưởng Đại Đội 1 đã quyết định, với tay đẩy xua Binh Nhất Khanh và
nói trong tiếng súng nổ ran không ngừng của tiền quân Cộng sản:
– Chạy đi! Chạy đi!
Nghe
tiếng chân chạy lẫn tiếng réo gọi lao xao của Cộng quân, Trung Úy T.
nằm úp xuống giả chết bên xác đồng đội. Vừa đúng lúc, một tên CS ôm khẩu
tiểu liên K50 trờ tới, dùng chân đạp vào người Trung Úy T. rồi nổ một
loạt súng kết liễu. Một viên đạn sớt qua ngực trái làm cháy xém áo trận
của Trung Úy T. Anh vẫn cố trấn tỉnh nằm in giả chết. Lúc đó, quân Cộng
sản gọi nhau ơi ới rút quân.
Bổng chốc, tiếng súng ngưng bặt, trả lại sự thanh tịnh của rừng núi về đêm. Tiếng côn trùng rên rỉ vang lên thay tiếng súng.
Sau
đó, trong hai ngày và ba đêm, với hai vết thương được băng bó, Trung Úy
T. ôm khẩu súng AR-15 và một băng đạn 15 còn lại, đã bò xuyên rừng về
đến phía ngoài cổng vào hướng đông của làng Bình Giả, một mình trơ trọi.
Hai vết thương đã ung thối với giòi và kiến bu đầy đặc.
Rạng ngày 1
tháng 1 năm 65, tại làng Bình Giả, với Tiểu Đoàn 30 bị hao hụt và Tiểu
Đoàn 38 Biệt Động Quân, Trung Úy Nguyễn Đằng Tống đã cùng Trung Úy Đỗ
Hữu Tùng gom quân sống sót của tiểu đoàn được suýt soát hơn một trăm tay
súng. Họ đã phối hợp lập vị trí phòng thủ chờ quân tiếp viện, dù không
còn có dấu hiệu hoạt động của Cộng sản quanh quẩn.
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù thuộc lực lượng tổng trừ bị của quân đội VNCH đã được trực thăng vận xuống Bình Giả.
Rạng
sáng ngày 3 tháng 1 năm 1965, trong vườn chuối ngoài bìa làng, Trung Úy
T. nhận diện ra quân bạn đã lên tiếng kêu gọi nhưng cổ họng bị tắt
tiếng khiến anh phải đập ầm ĩ vào thân chuối. Tiểu đội Nhảy Dù tiền
phong đã xông vào bế sốc anh ra. Có người lính Nhảy Dù buộc miệng nói:
– Anh lính Thủy Quân Lục Chiến này còn cả súng bên người.
Một người khác khi cuối xuống vực Trung Úy T. lên đã la hoảng lên:
– Vết thương thối quá. Như mùi chuột chết.
Khi
được trực thăng chuyển về Quân Y Viện Đại Hàn tại Vũng Tàu, người hạ sĩ
quan Trưởng Văn Phòng Đại Đội 1 cũng không nhận ra viên sĩ quan quan
Đại Đội Trưởng của chính mình, dù ông đã len lỏi qua đám đông của vợ con
lính Thủy Quân Lục Chiến đến tận chân người nằm trên chiếc cáng do lính
Quân Y Đại Hàn tải đi. Gương mặt của Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 đã bị bụi
gai chằng chịt của cây mắc cỡ cào nát với những vết ngang dọc của máu
bầm đen.
Nói không ra tiếng, Trung Úy T. đã ra hiệu xin tờ giấy và
cây bút của một Nữ Trợ Tá điều dưỡng Đại Hàn, là Trung Úy Chung Do Lin,
để tự giới thiệu mình bằng Anh ngữ: “Tôi là Trung Úy Trần Ngọc T., số
quân 60A/701163, thuộc Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến, bị thương ngày
31 tháng 12 năm 64 tại Bình Giả. Xin nhờ thông báo cho đơn vị của tôi.
Cám ơn.”
Bút ký: Trần Ngọc Toàn.
No comments:
Post a Comment