Saturday, November 20, 2021

Trung Tá Trần Ngọc Huế Hắc Báo Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH

Cựu Trung Tá Trần Ngọc Huế Chỉ huy trưởng Đại Đội Hắc Báo thuộc SĐ1BB.
Trung tá Trần Ngọc Huế sinh năm 1942. Ông tốt nghiệp khóa 18 trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, trở thành sĩ quan tác chiến và được thăng cấp rất nhanh trong thời chiến. Một đêm cuối tháng 3 năm 1971, trong khuôn khổ chiến dịch Lam Sơn 719, ông lúc đó đang ở Tchepone, bị thương và ngất lịm. Ông ra lệnh cấp dưới mở đường máu thoát thân, để ông lại trận địa nhằm tránh gây cản trở trên đường tháo lui. Sau đó, ông bị phía Bắc Việt bắt làm tù binh. Sau nhiều lần chiêu dụ trung tá Huế hợp tác, nhưng bất thành, phía miền Bắc giam giữ ông cho đến năm 1983. Sau đó ông được trả tự do, về sống tại Sài Gòn cho đến ngày sang định cư ở Virginia, Hoa Kỳ.

(Hình chụp Đại Úy Trần Ngọc Huế,lúc 26 tuổi, Chỉ huy trưởng đại đội Hắc Báo của SĐ1 BB Quân lực VNCH và Cố vấn Mỹ Đại úy Roger V. Wellbrook.

  Phỏng vấn Người Việt TV

 Quốc Dũng/Người Việt

FALLS CHURCH, Virginia (NV) – Từ ngày 22 đến 24 Tháng Năm tới đây, cựu Trung Tá Trần Ngọc Huế sẽ từ Virginia đến The Lowell Milken Center for Unsung Heroes, có trụ sở tại tiểu bang Kansas, để phát biểu trong ngày khánh thành Phòng Triển Lãm Những Người Hùng Thầm lặng, nơi vinh danh ông.

Ông được vinh danh nhờ cuốn phim tài liệu do hai cô nữ sinh Hailey Reed và Andrea Sodergren của trường trung học Seaman, thành phố Topica, tiểu bang Kansas, thực hiện kể về cuộc đời binh nghiệp, những chiến công cùng những năm tháng tù đày của ông. Và tại viện bảo tàng, ông được dành một góc trang trọng để trưng bày hình ảnh về mình.

Trong cuộc chiến Việt Nam, ông Huế được Hoa Kỳ tặng thưởng huy chương Ngôi Sao Bạc (Silver Star) và huy chương Ngôi Sao Đồng (Bronze Star). Ngoài ra, ông cũng được chính phủ VNCH tặng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương cùng nhiều huy chương cao quý khác.

Phóng viên nhật báo Người Việt đã có cuộc trao đổi với cựu Trung Tá Trần Ngọc Huế, còn có tên thân mật khác là Harry, do các cố vấn Mỹ đặt cho ông.

Quốc Dũng (NV): Thưa ông, ông có thể chia sẻ cảm xúc của ông khi được vinh danh là “Người Hùng Thầm Lặng?”

Ông Trần Ngọc Huế: Tôi cảm động vô cùng. Cảm động vì một thế hệ người Mỹ trẻ đã nhớ đến, trong khi tôi chỉ là một người lính của Quân Lực VNCH. Tôi rất cảm ơn những người Mỹ trẻ, đặc biệt là thế hệ thứ ba sau chiến tranh Việt Nam. Cảm ơn hai cô nữ sinh Hailey Reed và Andrea Sodergren, dưới sự hướng dẫn của giáo viên dạy sử Susan Sittenauer, đã thu thập thông tin và dựng một cuốn phim tài liệu ngắn về tôi.

NV: Họ đã liên lạc với ông như thế nào?

Ông Trần Ngọc Huế: Cô giáo Susan Sitternauer, ngoài việc dạy học, còn là thành viên của The Lowell Milken Center’s Hall of Unsung Heroes (Phòng Triển Lãm Những Người Hùng Thầm Lặng), thuộc The Lowell Milken Center for Unsung Heroes (LMC), có trụ sở tại Fort Scott, tiểu bang Kansas. Cô Susan, Hailey và Andrea đã đọc cuốn “Vietnam’s Forgotten Army, Heroism and Betrayal in the ARVN” (Một Quân Đội Bị Quên Lãng, Anh Hùng Và Kẻ Phản Bội Trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) của Giáo Sư Sử Học Andrew Wiest, trường đại học University of Southern Mississippi, một cuốn sách viết về cách quân đội miền Nam Việt Nam hỗ trợ binh sĩ Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Sau đó, họ liên lạc với tác giả của cuốn sách, và tiếp theo là tôi.

NV: Ông có biết vì sao họ chọn ông?

Ông Trần Ngọc Huế: Theo như cô giáo Susan Sitternauer nói thì cô có người chú từng là phi công trực thăng trong chiến tranh Việt Nam và bị tử thương trong cuộc chiến này, vì vậy cô rất quan tâm đến chiến tranh Việt Nam nên khi đọc tác phẩm của Giáo Sư Andrew Wiest, cô đã liên lạc với tôi. Bởi vì như cô nói, mục đích của LMC là tìm những người có thành tích khác thường trong cuộc sống của họ, nhưng không được công nhận công khai, hoặc trong sách giáo khoa, nhằm phổ biến những câu chuyện lịch sử đó đến người khác.

NV: Ông nhận xét cuốn phim tài liệu ngắn về ông như thế nào?

Ông Trần Ngọc Huế: Hai cô nữ sinh trung học này đã làm một cuốn phim tài liệu về cuộc đời binh nghiệp, cùng những năm tháng tù đày của tôi làm tôi rất hãnh diện, tự hào, vì đã có một sự ghi nhận cho thế hệ hôm nay và mai sau nhớ đến. Tuy nhiên, người được vinh danh xứng đáng nhất phải là Quân Lực VNCH, một quân lực bất hạnh, hy sinh rất nhiều, chiến đấu rất anh dũng nhưng cuối cùng đã bị quên lãng.

Giá trị của cuốn phim nói lên một điều, đã đến lúc người Mỹ nghĩ đến công lao của những người lính VNCH đã bỏ mình, đã hy sinh để chiến đấu dũng cảm cho quê hương, cho sự tự do của miền Nam Việt Nam, cho sự tự do của thế giới. Tuy nhiên, suốt một thời gian dài sự hy sinh đó không được nghĩ đến, tưởng nhớ đến. Bây giờ, hai cô nữ sinh trung học tại thành phố Topica, là quê hương của cựu Tổng Thống Dwight D. Eisenhower, đã nói lên được tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” đó. Đồng thời, tôi cũng vui khi biết rằng cuốn phim này đã giúp hai cô nữ sinh nhận được giải thưởng $10,000 từ LMC, và Tháng Giêng vừa rồi tôi đã đi Topica để trao giải thưởng cho hai cô.

Ông Trần Ngọc Huế cùng hai nữ sinh Hailey Reed (giữa) và Andrea Sodergren trong ngày hai cô nhận giải thưởng $10,000. (Hình: Trần Ngọc Huế cung cấp)

NV: Ông có thể nói rõ hơn việc những người lính VNCH bị quên lãng?

Ông Trần Ngọc Huế: Từ ngày 22 đến 24 Tháng Năm tới đây, Phòng Triển Lãm Những Người Hùng Thầm Lặng dành một góc để trưng bày hình ảnh về tôi, đồng thời trình chiếu cuốn phim tài liệu này. Tại đây, tôi sẽ cảm ơn người Mỹ đã nhớ đến tôi, nhưng tôi xin trân trọng nói với họ rằng, người được vinh danh xứng đáng nhất là Quân Lực VNCH, đó mới là một tập thể anh hùng vĩ đại nhưng bị quên lãng. Còn tôi chỉ là một cá nhân góp phần nhỏ bé trong sự hy sinh đó mà thôi.

Chế độ Cộng Sản đã sụp đổ ở Đông Âu, Liên Xô, và một số nước khác ở Châu Mỹ La Tinh, không phải ngẫu nhiên mà có, mà phải có sự đấu tranh, sự hy sinh xương máu trong đó. Và trong cuộc chiến tranh Việt Nam cũng vậy, đã có những người lính VNCH anh hùng, chiến đấu anh dũng, đã nằm xuống hoặc đã hy sinh một phần thân thể để bảo vệ cho tự do, dân chủ của miền Nam Việt Nam nhưng không bao giờ được nghe nhắc đến.

NV: Trong cuộc trò chuyện với hai nữ sinh, ông đã chia sẻ điều gì với họ?

Ông Trần Ngọc Huế: Tôi kể về trận chiến một mất một còn với quân đội Bắc Việt để lấy lại quyền kiểm soát Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, nơi đầu não chỉ huy tái chiếm lại Huế vào Tết Mậu Thân 1968. Trận đánh kéo dài 26 ngày đêm, cuối cùng giải phóng được thành phố Huế, treo lại cờ VNCH tung bay trên đỉnh Kỳ Đài – Phu Văn Lâu.

Cộng Sản Bắc Việt gian ác ở chỗ, thời điểm Tết là lúc hai bên đồng ký thỏa thuận hưu chiến, tức những ngày đó không đánh nhau. Những ngày hưu chiến đó quân nhân về quê ăn Tết. Thê nhưng Cộng Sản lợi dụng thời điểm đó để chuyển vũ khí vào thành phố, ém binh, đến đêm Giao Thừa thì khai hỏa. Khi đó tôi là đại đội trưởng Đại Đội Hắc Báo, lực lượng tổng trừ bị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh Quân Lực VNCH. Đại Đội Hắc Báo của chúng tôi là Lực Lượng Phản Ứng Cấp Thời (Fast Reaction Forces) đóng tại phi trường Thành Nội.

Lúc đó lực lượng chỉ còn hơn 200 người, lính tráng vừa nghỉ phép nữa, nên lực lượng rất mỏng. Khi đó Cộng Sản tấn công rất dữ, đã chiếm được phi trường. Giờ đây tôi còn nhớ như in cảnh anh em hy sinh lúc đó. Một tấc đất là máu đổ xuống, vì tự do, vì sống còn. Trận đó tôi nói với anh em rằng, “Chiến đấu để mà tự do, còn hơn là khuất phục thì cũng bị giết.”

Và anh em đều rất thiện chiến, anh dũng lắm, đánh rất hay, đối đầu với Cộng Sản. Sau đó chúng tôi làm chủ tình hình và tấn công lại. Đại Đội Hắc Báo đã dũng cảm chiến đấu và đánh bật đối phương ra khỏi phi trường, đồng thời cứu được hai lính Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, lúc đó có nhiệm vụ bảo vệ phi trường, khỏi tay quân địch.

NV: Ông có thể kể thêm về chuyện giải cứu hai lính Mỹ như thế nào không?

Ông Trần Ngọc Huế: Tại phi trường Thành Nội có hai chiếc trực thăng của Mỹ, vì họ tin rằng lực lượng VNCH bảo vệ được. Khi đánh nhau, họ cũng phản công nhưng không mạnh lắm, lúc đó Đại Đội Hắc Báo chúng tôi kịp lúc yểm trợ. Sau đó tôi dặn hai người lính Mỹ phải đi phía sau trong đại đội của tôi, bởi vì nếu chạy phía trước thì nhiều khi đạn bắn lầm. Tôi thương họ và cảm ơn nước Mỹ vì không những cung cấp vũ khí, mà còn gửi con em qua cho mình, nên mình phải bảo vệ họ. Xương máu của họ còn quý hơn vũ khí mà họ cấp cho mình, nên mình phải trân trọng. Và hơn hết đó là tình đồng đội nữa.

Ông Trần Ngọc Huế hiện nay. (Hình: Trần Ngọc Huế cung cấp)

NV: Và tình đồng đội của ông còn quyết liệt hơn ở trận đánh bên Nam Lào?

Ông Trần Ngọc Huế: Sau trận đánh Tết Mậu Thân 1968, tôi lần lượt làm tiểu đoàn trưởng các tiểu đoàn 1/3, 5/2 và 2/2 thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Tháng Ba, 1971, Tiểu Đoàn 2/2 của tôi cùng với các tiểu đoàn khác, được điều động tham gia cuộc hành quân Lam Sơn 719 với nhiệm vụ đột kích bằng trực thăng vận vào mục tiêu chiến lược Tchepone, Nam Lào, giải vây cho hai tiểu đoàn 3/3 và 4/3. Sau khi giải vây được cho tiểu đoàn bạn, chúng tôi bị địch bao vây.

Lúc đó tôi bị thương nặng ở mặt, đầu, và cổ, anh em tìm cách đưa tôi lên “dust off” (gọi chung các trực thăng tải thương Hoa Kỳ). Tôi mới nói anh em đừng kêu, vì chưa chắc bốc tôi ra được, mà lại hy sinh cả phi hành đoàn gồm hai phi công, hai y tá nữa. Chưa kể, muốn trực thăng cứu thì phải ra hiệu để họ biết, nhưng chẳng khác nào “lạy ông tôi ở bụi này,” vì Cộng Sản cũng biết nơi mình trú ẩn.

Khi trực thăng xuống đâu phải dễ, phải bay vòng vòng nữa, nên tôi nói đừng vì tôi mà phải hy sinh nhiều người khác. Mặc dù bị phòng không và súng cối địch vây chặt nhưng máy bay tải thương vẫn can đảm cứu lao xuống để cứu người bằng mọi giá. Trực thăng tải thương có dấu hiệu là chữ thập đỏ. Theo công ước quốc tế thì không bao giờ được bắn rơi chiếc máy bay loại đó, nhưng Cộng Sản thì phi luật pháp nên cứ bắn xối xả.

Khi đó pháo bắn vào dữ quá, ban chỉ huy ra lệnh mở đường máu rút lui. Anh em đòi khiêng tôi rút lui, nhưng tôi không chịu. Tôi ra lệnh cho anh em để tôi lại đó và mau chạy để trốn thoát. Một vài giờ sau đó, tôi bị bắt như một tù binh chiến tranh.

NV: Thưa ông, những lúc đó ông có nghĩ về gia đình, vợ con không?

Ông Trần Ngọc Huế: Tôi nghĩ nhiều lắm, nhưng biết làm sao bây giờ. Đối với tôi, nhiệm vụ với tổ quốc là quan trọng, dưới tay tôi còn biết bao gia đình nữa. Bởi vì mỗi người lính là một gia đình, họ có cha, có mẹ, có vợ, có con. Mình cũng có gia đình, mình và họ cùng thi hành nhiệm vụ với tổ quốc và quân đội giao cho. Nhưng tình thương gia đình tôi phải ôm ấp trong lòng, so với bao nhiêu tình thương khác. Ở vị trí của một người lính và một chỉ huy, tôi phải có tinh thần tự hy sinh, chiến đấu với tinh thần sống tự do hay là chết. Bởi vì, nếu nước mất nhà tan, thì chưa chắc gia đình mình yên ổn.

NV: Người Việt hải ngoại chuẩn bị tưởng niệm 41 năm Sài Gòn sụp đổ, xin ông cho biết cảm xúc của mình?

Ông Trần Ngọc Huế: Khi Sài Gòn sụp đổ, lúc đó cảm giác của tôi là buồn. Tại sao không giữ được miền Nam? Tại sao mọi người không góp sức nhau để chống cự với Cộng Sản Bắc Việt? Khi nghĩ lại Sài Gòn sụp đổ cách đây 41 năm, tôi nghĩ không chỉ đau thương và hối tiếc, mà phải ngồi lại để rút ra những bài học lịch sử cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi đoàn thể truyền lại bài học đó cho các thế hệ tiếp theo.

Truyền lại cái gì? Đó là sự đoàn kết dân tộc. Luôn luôn nghĩ rằng, đoàn kết là mấu chốt tất cả mọi sự thành công. Có đoàn kết nhìn về một hướng, có một chủ đích, thờ một quốc tổ, có những giềng mối, và biết hy sinh những quyền lợi cá nhân để cho tập thể, để cho dân tộc, để cho quê hương thì khi đó mới hòng đánh đổ những chủ nghĩa bạo tàn như Cộng Sản Việt Nam, và chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc.

Năm ngoái tôi đi Úc để quay cuốn phim thời sự dài ba tập mang tên “Vietnam, The War That Made Australia” (Việt Nam, Cuộc Chiến Định Hình Nước Úc và Tình Đồng Đội Của Những Cựu Quân Nhân Úc-Việt) do Hội Cựu Chiến Binh Úc thực hiện, chiếu trên đài truyền hình SBS, nói về chiến tranh Việt Nam mà quân đội Úc từng tham chiến. Tôi đã chứng kiến sự tôn trọng của quân đội Úc đối với Quân Lực VNCH. Dù muốn dù không, không ai chối cãi được sự hy sinh lớn lao của Quân Lực VNCH và thành công mà họ đã làm cho thế giới.

NV: Cuộc sống hiện tại của ông thế nào?

Ông Trần Ngọc Huế: Tháng Ba, 1971, tôi bị bắt khi bị thương và bị nhốt ở nhiều nơi như Yên Bái, Cao Bằng, Hà Nội, Sơn Tây… Đến Tháng Tư, 1982, tôi được chuyển về Hàm Tân, và Tháng Bảy, 1983, tôi được thả. Về Sài Gòn, tôi bị quản thúc tại gia trong nhiều năm cho đến năm 1991 thì tôi qua Mỹ theo diện HO và cư ngụ tại tiểu bang Virginia cho đến nay.

Khi mới sang đây tôi làm bất cứ việc gì để lo cho gia đình gồm vợ và ba con gái. Tôi nghĩ rằng, phải gác lại những chuyện ngày xưa, làm gì để có tiền cho con cái học hành là được. Tôi biết mình thân phận của kẻ mất nước, qua đây đất khách nơi người, nương nhờ người ta, nên phải chú tâm đi làm. Đến năm 1994, nhờ bạn bè Mỹ giúp đỡ, tôi vào làm cho ngân hàng Navy Federal Credit Union và sau đó xin cho các con vào làm cho đến nay.

Tôi đã về hưu vài năm, năm nay tôi 74 tuổi. Nhớ lại thời gian sinh ra và lớn lên tại Huế, rồi năm 12 tuổi vào trường Thiếu Sinh Quân học. Sau khi đậu tú tài, tôi vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, khóa 18. Ra trường năm 1963, tôi được phục vụ ngay cho Quân Lực VNCH, và tôi tự hào là người lính VNCH. (Quốc Dũng)


Anh hùng và bội phản
Huy Phương

Trước tháng 4 năm 1972, Trung Tá Trần Ngọc Huế và Trung Tá Phạm văn Ðính đều là hai anh hùng của Quân Lực VNCH, cả hai đều đã từng chỉ huy đơn vị tinh nhuệ của SÐ IBB là Ðại Ðội Hắc Báo. Năm 1971, Trung Tá Trần Ngọc Huế là Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ 2/2 đánh vào Shépone trong cuộc hành quân Lam Sơn 719.
Vị trí của ông đã bị cộng sản tràn ngập và ông bị bắt làm tù binh và bị đưa ra Bắc và ở trong nhà tù 13 năm. Kẻ bội phản là cựu Trung Tá Phạm Văn Ðính, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 56 (Sư Ðoàn 3BB) tại căn cứ Tân Lâm (Carrol), cuối tháng 4, 1972 đã đầu hàng trước quân đội, không những chỉ đầu hàng mà Trung Tá Ðính đã theo giặc, vì sau đó ông đã lên đài phát thanh Hà Nội kêu gọi các chiến hữu ngày trước của ông buông súng theo “cách mạng” và đeo “quân hàm” trung tá của “Quân Ðội Nhân Dân”.
Ông “được” cộng sản cho làm “quản giáo” tại một trại tù (học tập cải tạo) đang giam giữ những chiến hữu của ông ngày trước.

Sau tháng 4, 1975, ông “Trung Tá” Phạm Văn Ðính vào miền Nam, nhưng sau đó không nghe nói ông nắm đơn vị nào trong quân đội Bắc Việt. Tôi nghĩ dù ngày nay miền Nam đã bị cộng sản thôn tính, dân chúng Huế-Thừa Thiên cũng như người miền Nam đã nhìn ông với đôi mắt ghẻ lạnh, cho đến khi ông qua đời, không biết ông có ngượng ngùng với cái cấp bậc trung tá ông đeo trên cổ áo hay không.
Sau năm 1975, tôi nghe những người cộng sản gọi những nhân vật trong hàng ngũ “chiêu hồi” là những kẻ “đầu hàng phản bội”, không biết họ dùng danh từ gì để gọi ông Trung Tá Phạm Văn Ðính.

Andrew Wiest là một giáo sư sử học tại Ðại Học Southern Mississippi, tác giả nhiều cuốn sách về chiến tranh, trong đó đã có hai cuốn viết về Việt Nam như “The Vietnam War, 1956-1975” (2002), “Rolling Thunder in a Gentle Land: The Vietnam War Revisited” (2006). Năm nay (2008), ông vừa xuất bản một cuốn sách nhan đề “Vietnam's Forgotten Army- Heroisme anh Betrayal in the ARVN” để nói đến hai nhân vật Trần Ngọc Huế và Phạm Văn Ðính.
Thoạt đầu người ta giới thiệu Trung Tá Phạm Văn Ðính với ông, cuộc đời của một sĩ quan xuất sắc của VNCH trở thành một kẻ bỏ súng chạy theo địch quân là một đề tài khá hấp dẫn để trở thành một cuốn sách hay về chiến tranh Việt Nam. Giáo Sư Andrew Wiest đã mời ông Phạm Văn Ðính sang New Orleans Hoa Kỳ và tổ chức các buổi nói chuyện tại các đại học Hoa Kỳ về đề tài chiến tranh Việt Nam, tuy nhiên ông đã được sự góp ý của nhiều giới chức Hoa Kỳ hủy bỏ dự định này. Các sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ hiện nay đã từng là cố vấn trong các đơn vị mà ông Phạm Văn Ðính phục vụ trước kia, đã giới thiệu đến tác giả Andrew Wiest, Trung Tá Trần Ngọc Huế, đã xuất thân từ những đơn vị tương tự như ông Ðính, nhưng đã xứng đáng hơn với danh vị anh hùng.
Cuốn sách được hoàn tất với cuộc đời của hai Trung Tá Trần Ngọc Huế và Phạm Văn Ðính với những chiến trận lớn tại Vùng I Chiến Thuật mà cả hai đều đã đổ máu cho miền Nam nhưng về sau quyết định của hai người đã đưa họ về những lối rẽ khác nhau.

Ở trong trại tù tập trung của cộng sản dựng lên đầy dẫy ở hai miền Nam Bắc sau tháng 4 năm 1975, các chiến hữu ngày trước của chúng ta cũng đã có rất nhiều anh hùng nhưng không thiếu kẻ bội phản.
Những anh hùng của chúng ta đã đứng thẳng trước kẻ thù, có người đã chấp nhận gông cùm và đã có người hiên ngang trước cái chết. Trong khi đó có những người gọi là bạn tù của chúng ta đã cam tâm chịu sự sai khiến của bọn cai tù, nhận những chức vụ “tay sai” để hành hạ, đánh đập anh em không thương tiếc, hoặc hèn hạ làm những tên chỉ điểm, mà chúng ta thường gọi chúng là “ăng ten”. Ra hải ngoại, những người cựu tù nhân chính trị cũng đã nhận định rõ, ai là anh hùng mà ai là những kẻ đầu hàng phản bội trong các nhà tù cộng sản trước đây, chỉ tiếc là những những người này cũng cùng đi một chuyến tàu với chúng ta đến đây, lẫn lộn trong cộng đồng này.
Tuy đã tha thứ nhưng thực là chúng ta không bao giờ quên những khuôn mặt này, và hy vọng họ sẽ thức tỉnh và biết thế nào là và sự khinh rẻ của đồng đội hay đồng bào dành cho những hành vị bội phản, nhất là trong bối cảnh của cộng đồng tỵ nạn cộng sản hiện nay đang manh nha những thái độ đầu hàng hay thỏa hiệp đáng khinh miệt.

Tr/T Huế, chiến binh anh dũng và trung thành với Tổ Quốc

FALLS CHURCH, Virginia (NV) - “Harry Trần Ngọc Huế là một chiến binh lỗi lạc và ông đã phải trả giá đắt cho sự trung thành với tổ quốc mình trong cuộc chiến Việt Nam.” Ðó là lời mà Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ James Webb (Dân Chủ-Virginia) viết về người cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) này trong một bức thư đề ngày 4 Tháng Tư vừa qua.

Qua một người bạn giới thiệu, tôi được gặp người đàn ông mà nhiều người trong Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, trong đó có Thượng Nghị Sĩ Webb, từng là bộ trưởng Bộ Hải Quân, gọi là “anh hùng của những anh hùng (Hero of the Heroes).”

Tướng cao to, khỏe mạnh, mặc dù tuổi đã ngoài 60, bàn tay trái chỉ còn hai ngón nguyên vẹn, cộng với một vài vết thẹo trên khuôn mặt và phía dưới cằm, ít ai ngờ rằng, con người này đã từng vào sinh ra tử biết bao lần, nhất là cuộc chiến lấy lại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh và Ðại Nội Huế, hồi Tết Mậu Thân 1968.

Vì những hành động anh hùng của mình, ông Harry Trần Ngọc Huế đã được Hoa Kỳ tặng thưởng một huy chương “Ngôi Sao Bạc” (Silver Star) và một huy chương “Ngôi Sao Ðồng” (Bronze Star). Ngoài ra, ông cũng được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tặng Ðệ Ngũ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương cùng nhiều huy chương cao quý khác. Harry là tên các cố vấn Mỹ đặt cho ông.

Cuộc tái chiếm Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh
Là đại đội trưởng Ðại đội Hắc Báo, lực lượng tổng trừ bị của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh QLVNCH, Trung úy Trần Ngọc Huế đã khôn khéo và dũng cảm chỉ huy trận chiến một mất một còn với quân đội Bắc Việt để lấy lại quyền kiểm soát Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1, nơi đầu não chỉ huy tái chiếm lại Huế vào Tết Mậu Thân 1968.
Người cựu chiến binh này kể: “Lúc đó, Ðại đội Hắc Báo của chúng tôi là Lực Lượng Phản Ứng Cấp Thời (Fast Reaction Forces) đóng tại sân bay Thành Nội. Ðêm đó là mùng một Tết và quân đội Bắc Việt đã tấn công nhà đèn, Thiết Ðoàn 7 Thiết Giáp, Phú Văn Lâu, Tòa Hành Chính Tỉnh và Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1. Ngoài đường phố tràn ngập lính Bắc Việt, phi trường bị pháo kích dữ dội...”
Ông kể tiếp: “Chúng tôi có 6 trung đội, sau khi bố trí quân, tôi về nhà nghỉ. Một lúc sau, thấy pháo dữ dội quá, tôi trở dậy, mặc đồ lính đi. Trong đêm tối, tôi thấy đặc công Bắc Việt đi hàng hàng lớp lớp ngoài đường.”
“Lúc đó, tôi rất lưỡng lự, không biết có nên đi hay không vì con gái đầu lòng của tôi mới sinh được một tháng. Tôi có thể trở về nhà với vợ con, nhưng nghĩ lại trách nhiệm của người lính và một chỉ huy. Hơn nữa, nếu nước mất nhà tan, thì chưa chắc gia đình tôi yên ổn. Thế là tôi tiếp tục đi phía sau họ để đến phi trường,” người anh hùng này kể tiếp.
Khi đến sân bay, theo lời ông kể, đặc công Bắc Việt đã tiếp cận bộ chỉ huy Ðại đội Hắc Báo của Trung úy Huế.
“Họ chiến đấu rất hăng say. Họ mặc quần đùi, đeo súng AK bá xếp. Tuy nhiên, các anh em Hắc Báo đã dũng cảm chiến đấu và đánh bật đối phương ra khỏi phi trường. Chúng tôi cứu được hai lính thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, lúc đó có nhiệm vụ bảo vệ phi trường, khỏi tay quân địch,” ông Huế kể tiếp.
Sau đó, đơn vị Hắc Báo lại được lệnh của Trung tá Ngô Văn Chung, trưởng phòng 3, Sư Ðoàn 1, qua giải cứu Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn, đang bị địch vây hãm.
“Liền đó, tôi nghe trên điện đàm tiếng Trung tá Chung nói: Ðây là lệnh của mặt trời (ẩn danh của Tướng Ngô Quang Trưởng). Nếu không thi hành sẽ bị đưa ra tòa án mặt trận”. Ông Huế kể.
Qua hệ thống vô tuyến chỉ huy, ông Huế cũng nghe được lệnh của Trung tá Chung ra lệnh cho Thiết Ðoàn 7, đồn trú tại An Cựu, đưa xe tăng sang cứu Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn.
“Tuy nhiên, Trung tá Chí, thiết đoàn trưởng Thiết Ðoàn 7 Thiết Giáp, cho sư đoàn biết là hiện tại bộ chỉ huy của ông đang bị pháo và đặc công uy hiếp nặng nề,” ông Huế kể tiếp.
Sau khi ổn định tình hình, Trung úy Huế tập trung anh em Hắc Báo lại và ban lệnh hành quân kế tiếp.
Ông kể: “Tôi nói với anh em rằng, một nửa đại đội phòng thủ phía Nam sông Hương đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và tôi đã mất liên lạc. Nay Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn đang bị vây hãm, tình thế thập tử nhất sinh, tất cả đều trông cậy vào Hắc Báo chúng tôi. Vì sự sống còn của anh em và gia đình, vì sự sống còn của đồng bào và thành phố, chúng tôi quyết phải đánh, dù bất cứ giá nào.”
Sau khi nghe đại đội trưởng Huế nói, tất cả đều hô to “Xin thề! Xin thề! Xin thề!” và “Huế ơi, có chúng tôi đây!”
“Ðó là lời thề của các chiến sĩ Hắc Báo trước khi xung trận,” cựu đại đội trưởng Hắc Báo cho biết tiếp.
Nhờ sống ở Huế lâu và rất rành đường đi nước bước trong thành phố, nên ông Huế dễ dàng dẫn quân luồn lách qua những ngả đường, đến nơi mà địch hoàn toàn không biết.
Người cựu chiến binh QLVNCH này say sưa kể: “Khi đến bên này Cầu Kho, tôi thấy bên kia cầu, gần cổng chính vào Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn, địch đang lúc nhúc đào công sự, chuẩn bị tấn công. Bên trong bộ tư lệnh không thể nào ra được. Ngoài nhân viên Việt Nam còn có một số cố vấn Mỹ trong đó. Nếu bộ tư lệnh mà bị chiếm là coi như rắn mất đầu. Thế là chúng tôi phải dốc toàn lực đánh một mất một còn với địch.”
Theo ông Huế, Hắc Báo là đơn vị đầu tiên của Sư Ðoàn 1 có súng M16, được coi là tối tân nhất lúc đó. Họ cũng sử dụng súng phóng hỏa tiễn M72, đại liên 30ly và đại bác 57ly không giật.
“Từ bên này cầu, tôi cho bố trí ba khẩu đại liên bắn trực xạ làm quân địch rối loạn. Cùng lúc đó, chúng tôi dùng cả lựu đạn khói làm địch không thấy đường. Sau khi hy sinh một tiểu đội, chúng tôi chiếm lại cầu và mở đường vào bên trong bộ tư lệnh,” ông Huế kể tiếp như vậy.
Người đầu tiên Trung úy Huế gặp khi vào bên trong bộ tư lệnh là Trung tá Trần Văn Cẩm, tham mưu trưởng sư đoàn. Trung tá Cẩm liền chỉ cho đại đội trưởng đại đội Hắc Báo biết nơi địch quân đang chiếm đóng trong khu vực. Ðó là khu vực Ðại đội 1 Quân Y Sư Ðoàn, bệnh xá và câu lạc bộ.
“Không chần chờ, tôi cho lệnh chiến đấu,” ông Huế kể.
Ðơn vị Hắc Báo dùng lựu đạn đi đến tấn công từng phòng, giết và bắt một số tù binh một cách dễ dàng.
“Chiến thuật của Hắc Báo lúc đó là cận chiến nhằm bắt sống tù binh để khai thác. Nếu không được mới dùng lựu đạn tấn công,” ông Huế cho biết như vậy.
Tôi hỏi: “Làm sao mà đặc công có thể thoát bãi mìn để vào được bên trong bộ tư lệnh nhiều thế?”
“Ðó là một đường cống, lỗ thoát nước. Ðó chính là nơi mà đặc công bò vào,” ông trả lời.
“Sau khi chiếm cửa hậu phía Bắc của thành Mang Cá, tôi thấy một cảnh hãi hùng. Ðịch đang bò lê bò càng dọc theo bên ngoài bờ thành. Thế là các khẩu đại liên của Hắc Báo cứ thế mà ‘quét’ vào. Cuộc chiến bắt đầu từ 10 giờ sáng mà mãi đến 3 giờ chiều mới kết thúc,” ông Trần Ngọc Huế nói.

Ông nói tiếp: “Lúc đó, chúng tôi chiến đấu với tinh thần sống tự do hay là chết.”
Ngay sau đó, ông đã được tặng thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc (Gallantry Cross with Silver Star) do chính Tướng Creighton Abrams, tư lệnh Các Lực Lượng Quân Ðội Hoa Kỳ tại Việt Nam, gắn lên ngực áo. Cũng trong dịp này, ông được lên đại úy và chính Tướng Ngô Quang Trưởng gắn lon cho ông.
Ngày 19 Tháng Sáu, 1969, Ngày Quân Lực VNCH, ông Trần Ngọc Huế được thăng cấp thiếu tá.

Viên ngọc của “Huế”
Sinh ra và lớn lên tại Huế, cái tên Trần Ngọc Huế của ông còn có nghĩa là “hòn ngọc của Huế xuất phát từ nhà Trần.”

Năm 12 tuổi ông đã vào trường Thiếu Sinh Quân. Sau khi đậu tú tài, chàng thanh niên Trần Ngọc Huế vào trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, khóa 18. Ra trường năm 1963, ông được điều ngay về Sư Ðoàn 1 Bộ Binh.
Kể từ năm 1969, ông lần lượt làm tiểu đoàn trưởng các tiểu đoàn 1/3, 5/2 và 2/2 thuộc Sư Ðoàn 1 Bộ Binh.
Tháng Ba, 1971, Tiểu Ðoàn 2/2 của ông cùng với các tiểu đoàn khác, dưới sự chỉ huy của Ðại tá Ngô Văn Chung, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 2, được điều động tham gia cuộc hành quân Lam Sơn 719 với nhiệm vụ đột kích bằng trực thăng vận vào mục tiêu chiến lược Tchepone, Nam Lào. Theo kế hoạch, sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiếm và kiểm soát mục tiêu chính của cuộc hành quân, ông Huế sẽ được Tướng Phạm Văn Phú đáp trực thăng xuống gắn lon trung tá và tiểu đoàn của ông sẽ được lệnh hành quân về phía Tây Nam Lào, giải vây cho hai tiểu đoàn 3/3 và 4/3.

Sau khi giải vây được cho tiểu đoàn bạn, Tiểu Ðoàn 2/2 lại bị địch bao vây.
Ông Huế kể: “Lúc đó, pháo bắn vào dữ quá. Tôi bị thương nặng nơi mặt, đầu và cổ. Ban chỉ huy ra lệnh mở đường máu rút lui. Anh em đòi khiêng tôi rút lui, nhưng tôi không chịu. Tôi không muốn anh em bị thiệt hại vì mang tôi đi. Chúng tôi xuống 600 người nhưng chỉ thoát được 50 người. Toàn bộ số còn lại bị bắt hoặc hy sinh. Ðó là ngày 21 Tháng Ba, 1971.”
Sau đó, ông Huế được anh em tù binh khiêng đi dọc đường mòn HCM về tới Vĩnh Linh. Phía địch quân đưa ông lên xe lửa và mang ra nhốt tại nhà tù Hỏa Lò. Vài tháng sau, ông bị đưa lên nhốt ở các trại tại Sơn Tây, Hoàng Liên Sơn, Yên Bái, Lạng Sơn và Cao Bằng.
Ông Huế kể tiếp: “Sau khi Hiệp Ðịnh Paris được ký kết hôm 27 Tháng Giêng, 1973, theo quy định, địch phải thả tôi. Lúc đó, tôi đang ở Kỳ Cùng thì địch đưa về Hà Tây. Sau đó, họ đưa tôi cùng một số anh em khác vào bờ sông Thạch Hãn để trao trả tù binh. Nhưng tự nhiên địch chia chúng tôi ra làm hai nhóm, nhóm bị bắt tại các nơi khác và nhóm bị bắt ở Lào. Lúc đó, tôi đã mường tượng một điều gì đó không tốt.”

“Các anh bị bắt ở Lào là thuộc quyền Mặt Trận Lào Yêu Nước,” một cán bộ Bắc Việt nói với ông Huế như vậy, theo lời kể của ông.
Ông kể tiếp: “Thế là họ đưa chúng tôi về ngã ba Ðường Thành, Hà Nội, và giam tiếp. Chúng tôi phản đối bằng cách tuyệt thực và cạo đầu. Thế là chúng còng tay và đánh đập chúng tôi. Sau đó, chúng tôi bị đưa đi Yên Bái và nhốt cách ly. Kế đến, chúng lựa ra 11 người đầu não, trong đó có tôi, đưa lên nhốt ở Cao Bằng.”
“Năm 1974, chúng tôi bị đưa về Nghĩa Lộ làm trại cải tạo chuẩn bị đón thêm tù binh. Sau đó, chúng tôi lại bị đưa trở lại về Yên Bái để làm đường chiến lược Tây Bắc,” ông kể tiếp.
Năm 1978, khi Việt Nam rục rịch chiến tranh với Trung Quốc, ông Huế lại bị đưa về Nam Hà. Ðến Tháng Tư, 1982, ông được chuyển về Hàm Tân. Tháng Bảy, 1983, ông được thả.
Về Sài Gòn, ông bị quản thúc tại gia trong nhiều năm cho đến năm 1991, ông sang Hoa Kỳ diện cựu sĩ quan chế độ cũ.

Cuộc sống mới tại Hoa Kỳ
Hồi ở Tiểu Ðoàn 2, Trung Ðoàn 2 của Sư Ðoàn 1, ông Huế có một người bạn thân là David Wiseman, lúc đó là cố vấn Mỹ. Ông Wiseman cũng từng bị thương ba lần tại Việt Nam và rất cảm kích tinh thần chiến đấu của người bạn Trần Ngọc Huế.
Sau năm 1975, ông David Wiseman không biết người bạn của mình sống chết ra sao. Ông cầm tấm hình của ông Huế đi khắp vùng thủ đô Washington D.C. và đưa cho mọi người xem. Mỗi lần ông đưa tấm hình ra, ông đều nhận được một cái lắc đầu.

Cho đến một hôm, ông Wiseman tham dự một buổi tiệc gây quỹ của Hội Gia Ðình Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam tại Virginia và gặp ông Ngô Ðức Am, em rể của bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch hội.
Thật là may mắn cho ông Wiseman vì ông Am chính là người ở chung trại tù với ông Huế.
Sau khi xem tấm hình, ông Am cho ông Wiseman biết ông Huế vẫn còn sống ở Việt Nam. Thế là ông Wiseman tìm cách liên lạc với ông Huế.
Việc đầu tiên là ông Wiseman gởi cho ông Harry một bức thư ngắn trong đó kèm theo năm tờ giấy $20. Bức thư chỉ có vài hàng: “Harry, tôi biết anh còn sống. Tôi đã tìm anh 20 năm nay. Tôi sẽ tìm mọi cách đưa anh sang Mỹ. Nếu anh qua Mỹ tôi sẽ giúp. Nếu anh muốn ở lại, tôi sẽ gởi tiền về giúp. Anh còn thích hút thuốc Salem không?”
Khi đến Hoa Kỳ năm 1991, chính ông Wiseman là người ra đón gia đình ông Huế tại phi trường Washington National Airport. Sau đó, ông Wiseman lo mướn nhà cho gia đình ông Huế, giúp mua sắm một số vật dụng cần thiết.

Theo ông Huế cho biết, ông Wiseman đã qua đời cách đây bốn năm.
Kể từ khi biết Harry đến Hoa Kỳ, các cố vấn Mỹ, mà nhiều người sau này trở thành bạn thân và coi Harry như anh em ruột, gọi điện thoại và đến thăm tới tấp. Ai cũng muốn giúp ông ổn định cuộc sống mới.

Năm 1994, nhờ bạn bè Mỹ giúp đỡ, cựu chiến binh Trần Ngọc Huế và ba cô con gái, Coco, Vicky và Elly, vào làm cho ngân hàng Navy Federal Credit Union cho đến nay.

Một người lính đầy danh dự
Dù trong hoàn cảnh nào, cựu chiến binh Harry Trần Ngọc Huế luôn giữ được khí tiết và danh dự của một người lính QLVNCH. Vì thế, ông được nhiều người rất kính nể.
“Mỗi người có một cách sống riêng. Bản thân tôi luôn sống với danh dự của một quân nhân QLVNCH. Người ta (các cố vấn Mỹ) đã rời bỏ quê hương sang giúp mình thì mình phải giúp họ hoàn thành nhiệm vụ. Sống với họ phải sống xứng danh quân đội VNCH. Vì thế, tôi có những cảm tình rất khó tin với các cố vấn Mỹ,” ông Huế chia sẻ như vậy.

Ông Ned Devereaux, cố vấn cũ và từng bị thương với ông cố vấn Wiseman và ông Huế ngày 8 Tháng Mười Một, 1970, cho biết: “Khi tôi gặp Harry lần đầu tiên, tôi biết ngay ông là một người lính chuyên nghiệp, một sĩ quan chuyên nghiệp, một người mà khi ra lệnh tôi sẽ theo ngay, không thắc mắc. Harry đã làm tôi cảm thấy mình là một thành viên trong gia đình quân đội của ông. Những gì ông làm đã giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ dễ dàng.”
“Nếu phải viết một câu về Harry, tôi sẽ viết, Harry thật sự là một anh hùng, một người trung thành với tổ quốc, cấp trên, gia đình và binh sĩ của mình và tôi coi Harry như một người anh em cùng huyết thống và thật sự kính nể ông,” ông Devereaux viết như vậy trong email gởi cho tôi.

Ông Thái Quang Ty, một trung sĩ đại đội Hắc Báo tham gia trận đánh lấy lại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, đang sống tại thành phố Atlanta, Georgia, kể: “Anh Huế là một chỉ huy tài giỏi và mưu lược. Lúc tôi ở cùng đơn vị với anh, Hắc Báo đánh đâu thắng đó, chưa thua một trận nào. Ở mỗi trận đánh, anh đều quan sát trước địa hình trước khi giàn quân. Các chỉ huy khác thường xua binh sĩ đi trước, riêng bản thân anh lúc nào cũng đi sát binh sĩ. Chính vì vậy làm cho tinh thần anh em hăng say.”

Qua điện thoại, ông Richard Weyand, cố vấn đại đội Hắc Báo từ năm 1967 đến 1969 và hiện sống tại thành phố Kenosha, Wisconsin, nói: “Harry là người dấn thân nhất cho cuộc chiến. Cách chỉ huy của ông, sự trung thành của ông và sự can đảm của ông làm tôi tự hào khi được làm việc với ông trong hai năm trời.”
Một cố vấn khác của đơn vị Hắc Báo, ông William Bolt, hiện là trung tướng hồi hưu sống tại thành phố Columbia, South Carolina, kể qua điện thoại: “Trong một trận đánh tại phía Nam thành phố Huế vào cuối năm 1968, chính ông Harry đã cõng ông Richard Weyand ra sau khi ông này bị thương trong một bãi mìn. Harry quả thực là một người can đảm. Ông là một người yêu nước và là người hy sinh nhiều nhất cho đất nước của ông mà tôi được biết.

Khi Giáo Sư Sử Học Andrew Wiest, trường đại học University of Southern Mississippi, chuẩn bị viết tác phẩm “Vietnam's Forgotten Army, Heroism and Betrayal in the ARVN,” ông vô tình biết được Harry Trần Ngọc Huế qua ông Jim Coolican, cựu Ðại Tá Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và là cố vấn của ông Huế hồi Tết Mậu Thân 1968.

Giáo Sư Wiest kể: “Tôi sang thăm Việt Nam năm 2000 và thấy rất nhiều. Một điều tôi ít thấy nói đến là QLVNCH. Về Mỹ tôi quyết định viết một cuốn sách về đề tài này. Trong lúc nghiên cứu tìm tài liệu, nhiều người cho tôi biết phải tìm và viết về Harry Trần Ngọc Huế. Thế là tôi nhờ cựu cố vấn Jim Coolican giúp tôi.”

“Tôi nghĩ Harry là một biểu tượng xứng đáng nhất của Việt Nam và Hoa Kỳ. Cũng như bao nhiêu người khác sau chiến tranh, đến Hoa Kỳ với hai bàn tay trắng. Giờ đây, cả ba cô con gái của ông đều tốt nghiệp đại học và có việc làm ổn định. Harry đã thực hiện được giấc mơ Mỹ của mình,” giáo sư này nói tiếp.

Ông kết luận: “Harry là người yêu nước nhất mà tôi gặp từ trước đến nay.”
Vào Tháng Mười Hai tới đây, Giáo Sư Andrew Wiest sẽ cho ra mắt tác phẩm nêu trên.

No comments:

Post a Comment