Vũ đình Hiếu
- Loại trừ Việt cộng, thiết lập vùng an ninh.
- Bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền quốc gia đối với dân trong vùng.
- Động viên những người dân hăng hái, sẵn sàng tham gia trong các chương trình của chính quyền quốc gia.
- Kiểm soát và theo dõi biên giới.
- Hoạt động nơi các đường xâm nhập.
- Hành quân nơi chiến khu, căn cứ của địch.
Cuối
cùng là những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị chính quy bạn.
Hành quân Nathan Hale phối hợp giữa DSCĐ, sư đoàn 1 Không Kỵ và sư đoàn
101 Nhẩy Dù Hoa Kỳ. Hành quân Henry Clay và Thayer. Hành quân Rio Blanco
ở vùng I bao gồm các đơn vị thuộc DSCĐ, Điạ Phương Quân, Biệt Động Quân
Việt Nam, Thuỷ Quân Lục Chiến Đại Hàn, và TQLC/HK. Hành quân Sam
Houston trên vùng II phối hợp giữa sư đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ và DSCĐ.
IV. HÀNH QUÂN NGOẠI LỆ.
Với
sự thành lập các đơn vị du kích lưu động và hành quân Sigma, Omega
trong thời gian từ tháng Tám cho đến tháng Mười năm 1966, khả năng về
Chiến Tranh Ngoại Lệ của LLĐB gia tăng. Một trong những đặc tính của
LLĐB là khả năng mở các cuộc hành
quân ngắn hoặc lâu dài nơi vùng địch kiểm soát.
Lực
lượng Du Kích Lưu Động được thành lập vào mùa thu năm 1966, cải tiến và
phát triển từ quan niệm về đơn vị xung kích lưu động. Những đơn vị du
kích này được tổ chức, huấn luyện và trang bị để hoạt động xa, nơi Việt
cộng hoặc Bắc quân xem như thiên đàng. Trang bị nhẹ, các quân nhân thuộc
đơn vị này xâm nhập vào vùng địch, do thám đường mòn, tìm kiếm dấu vết,
căn cứ địch, thâu lượm tin tức tình báo về những cuộc chuyển quân của
địch. Khi phát giác ra nơi đóng quân của địch, toán du kích sẽ theo dõi
các hoạt động của địch, phục kích lẻ tẻ, quấy rối, đặt mìn bẫy. Trường
hợp tìm thấy kho tiếp liệu, toán sẽ tìm cách phá hủy hoặc hướng dẫn phi
cơ oanh
kích.
Một
đơn vị du kích thường được đưa vào vùng hoạt động bằng tất cả mọi
phương tiện có sẵn. Khi đã vào vùng địch kiểm soát, đơn vị thực sự trở
nên du kích quân. Đồ tiếp tế được thực hiện qua không trợ. Đơn vị này
thường hoạt động trong lòng địch một thời gian từ ba mươi đến sáu mươi
ngày. Họ trở thành những “Chủ nhân ông” trong khu vực hoạt động, được
toàn quyền hành động kể cả vấn đề không trợ, để đạt mục tiêu. Để tránh
bị lộ hành tung, đôi khi phải cho đồ tiếp tế vào bom Napalm giả do khu
trục cơ A1E Skyraider thả xuống trong một phi vụ oanh kích gỉa tạo.
Ngoài
việc phát triển đơn vị du kích cho mỗi vùng chiến thuật. Liên đoàn 5
LLĐB/HK còn tổ chức thêm những cuộc hành quân ngoại lệ khác
như hành quân Omega và Sigma. Hai tổ chức hành quân trên làm tăng thêm
khả năng viễn thám, thâu lượm tin tức tình báo của liên đoàn ngoài
chương trình hành quân Delta đã có sẵn. Mỗi tổ chức có quân số khoảng
600 người, gồm một đơn vị viễn thám và một đơn vị xung kích tiếp ứng,
thêm một toán cố vấn tổ chức như BCH B của LLĐB.
Hành
quân Delta được đặt dưới quyền chỉ huy hỗn hợp LLĐB Việt Mỹ và theo
lệnh trực tiếp của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và BCH Quân Viện Hoa Kỳ
(MAC-V). Các toán hành quân Delta được tiểu đoàn 91 Biệt Cách Dù sẵn
sàng làm lực lượng tiếp ứng yểm trợ. Các toán hành-quân Omega và Sigma
được LLĐB trực tiếp chỉ huy và chỉ chịu trách nhiệm hoạt động ngoài vùng
I và II chiến thuật. Các toán này được các đơn vị
xung kích lưu động thuộc lực lượng DSCĐ yểm trợ.
V. HUẤN LUYỆN VÀ KHÔNG TRỢ.
Chương
trình huấn luyện cho các cuộc hành quân ngoại lệ trước hết là phần huấn
luyện về bộ binh, kỹ thuật tác chiến trong vùng Đông Nam Á. Những quân
nhân được tuyển chọn cho hành quân ngoại lệ thường đã trải qua thời gian
phục vụ trong lực lượng DSCĐ và đã có kinh nghiệm chiến đấu. Phần huấn
luyện kỹ thuật hành quân ngoại lệ bắt đầu từ giai đoạn này. Đầu tiên là
phải qua khóa huấn luyện nhẩy dù, sau đó là các môn học đặc biệt về hành
quân như: di chuyển lặng lẽ, bí mật, phương pháp tìm dấu vết, theo dõi,
cách xử dụng bản đồ, điạ bàn, dụng cụ làm dấu, những kỹ thuật xâm nhập,
triệt thoái vùng
thám sát, hoạt động, xử dụng các loại vũ khí đặc biệt, cứu thương, kỹ
thuật đột kích, phục kích.
Chương
trình huấn luyện kéo dài năm hay sáu tuần lễ, sáu ngày một tuần và
khoảng mười tiếng đồng hồ mỗi ngày. Các buổi huấn luyện trong căn cứ và
thực tập ngoài bãi tập.
Vấn
đề hành quân ngoại lệ rất cần phần không trợ. Phi đoàn không yểm thuộc
lục quân Hoa Kỳ biệt phái cho liên đoàn 5 LLĐB đã yểm trợ trực tiếp bằng
những trực thăng võ trang và chuyển vận. Ngoài ra Không Lực Hoa Kỳ cung
cấp phương tiện chuyển vận, đổ quân cấp đơn vị lớn và về tiếp liệu.
Không Lực Hoa-Kỳ và Việt Nam còn yểm trợ thêm về phần oanh kích hoặc
chuyển tiếp công điện qua hệ thống truyền tin. Ngoài vùng I chiến thuật,
máy bay của
Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ cũng cung cấp những phương tiện yểm trợ
tương tự.
VI. SOẠN THẢO KẾ HOẠCH HÀNH QUÂN.
Chiến
tranh ngoại lệ là một vai trò rất quan trọng của LLĐB trên chiến trường
nam Việt Nam. Ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, mỗi cuộc hành quân đều
được soạn thảo, điều nghiên kỹ lưỡng trước khi thực hiện và lực lượng
tham dự được di chuyển đến căn cứ tiền phương trước khi ra tay. Thời
gian dành cho soạn thảo kế hoạch, chuyển quân tuỳ theo mỗi loại hành
quân và độ khẩn của cuộc hành quân.
Soạn
thảo lệnh hành quân bắt đầu với đầy đủ chi tiết tình báo về khu vực
hành quân. Mọi dữ kiện về điạ thế, thời tiết và những nơi tình nghi có
quân địch đều
được thâu thập và phân tích. Tất cả những chi tiết đó đều được ghi trên
bản đồ, những lộ trình chính và phụ cho nhiệm vụ trinh sát đều được
chọn lựa và đánh dấu. Nguồn tin tức thường được lấy từ các bản báo cáo
về tình báo, không ảnh, thẩm vấn tù binh, và những bản báo cáo của các
đơn vị bạn đã hành quân qua trước đây. Nếu cần, ban tham mưu soạn thảo
lệnh hành quân bay những phi vụ thám thính khu vực hoạt động trước.
Những chuyến bay này rất quan trọng cho quyết định cuối cùng chọn điểm
xâm nhập, triệt xuất, chính và phụ.
Khi
việc soạn thảo, điều nghiên đã hoàn tất, lệnh hành quân sẽ được ban ra.
Kế tiếp là việc chuẩn bị hành quân, trường hợp cần thiết phải chuyển
quân, vật liệu đến một căn cứ tiền
phương đã có không yểm. Nếu chỉ là một toán nhỏ, ít vật liệu, phi cơ
trực thăng của lục quân, TQLC/HK hoặc phi cơ nhỏ được xử dụng. Nếu cuộc
hành quân với quân số cấp đại đội hoặc lớn hơn sẽ được Không Lực Hoa-Kỳ
cung cấp với loại phi cơ vận tải C-7A hoặc C-130.
Khi
đến căn cứ hành quân tiền phương, đơn vị sẽ bị thanh tra để có thể
trong vị thế sẵn sàng. Các sĩ quan thuộc quyền sẽ được nghe thuyết trình
về mục đích, nhiệm vụ của cuộc hành quân cùng vớí mệnh lệnh chi tiết
cho từng trung đội, tiểu đội hoặc các toán.
Trong
những nhiệm vụ thám sát, các phương pháp, thủ tục cho mỗi hoạt động sẽ
được trình bầy chi tiết tùy theo cuộc hành quân. Khi vào vùng địch, lúc
ra khỏi phi cơ, di chuyển trong khu vực hành
quân, trường hợp chạm địch, và giờ giấc cho vấn đề triệt xuất.
Kinh
nghiệm cho biết, thời gian hữu hiệu nhất để thả toán xâm nhập vào lúc
trời sắp tối, đủ thì giờ cho toán lẩn vào bóng tối và trực thăng được
bảo vệ bởi bầu trời đen. Tuy vậy, địch quân vẫn khám phá ra phương pháp
thả toán của ta và tìm cách đối phó. Do đó phải đánh lừa địch về điểm
thả quân, trực thăng sẽ đáp xuống ba chỗ hay hơn nữa trước khi thực sự
thả toán. Điều này làm cho địch phân vân không biết đâu là điểm thả quân
một cách chính xác. Một phương pháp khác là đoàn trực thăng ba chiếc
bay thấp, nối đuôi nhau, chiếc bay đầu bất ngờ đáp xuống thả toán biệt
kích trong chớp nhoáng rồi bốc lên nhanh nối vào đuôi hai chiếc kia làm
thành hợp đoàn ba chiếc trở lại.
Trong
trường hợp thả toán bằng
đường bộ, các toán “Chạy đường mòn” (Roadrunner), viễn thám xâm nhập
vùng địch dễ dàng lúc trời tối hoặc ngay lúc ban ngày, trong trường hợp
căn cứ vẫn thường tung các toán ra tuần tiễu, lục soát mà không theo một
phương hướng nhất định. Trong trường hợp khác, toán viễn thám đi xen
vào với một đơn vị lớn. Khi thấy an toàn, toán biệt kích lặng lẽ di
chuyển đến vùng hoạt động đã được trao phó nhiệm vụ từ trước. Tất cả mọi
sự di chuyển trong chiến tranh ngoại lệ đều được soạn thảo cẩn thận. Sự
sống còn của một toán viễn thám nhỏ tùy thuộc vào mỗi cá nhân trong
toán. Sự hiểu biết về nhiệm vụ của từng người, đề cao cảnh giác, theo
đúng thời khóa biểu lúc di chuyển. Trong kế hoạch hành quân đôi khi có
dặn dò thêm trường
hợp toán phải phân tán tạm thời trước áp lực của địch, thời gian, vị
trí của điểm hẹn, tập-họp. Bí mật là đặc tính căn bản trong vấn đề di
chuyển của các đơn vị hành quân ngoại lệ. Mặc dầu địch cũng đề phòng về
sự hiện diện của biệt kích quân, điều quan trọng là địch vẫn không biết
rõ vị trí chính xác của toán. Mọi di chuyển phải im lặng, bàn tay và thủ
hiệu được xử dụng để truyền tin và ban lệnh thay cho lời nói, ít xử
dụng máy truyền tin và để độ âm thanh tối thiểu, súng đạn đồ trang bị
gọn gàng không gây tiếng động khi chạm vào cây lá hoặc đá và tuyệt đối
giữ im lặng khi di chuyển.
Về
vấn đề tái tiếp tế cũng được đặt ra, các quân nhân trong chiến tranh
ngoại lệ không thể mang theo đồ ăn, đạn
dược và vật dụng quá năm ngày. Tùy theo mỗi cuộc hành quân, kế hoạch
hành quân cũng nói đến vấn đề tái tiếp tế trong vòng từ ba đến năm ngày
tại một địa điểm định trước. Vấn đề đặt ra là sự an toàn, không để lộ vị
trí của toán. Thả dù tiếp tế ban ngày sẽ làm cho địch báo động, đề
phòng. Thả ban đêm trong vùng rừng núi, cơ hội thâu hồi kiện hàng rất
ít.
Triệt
xuất theo đúng hạn kỳ hoặc trong trường hợp khẩn cấp phải đem về một
người bị tai nạn bất tử hay bị thương, cả toán cũng phải tính trước. Lực
Lượng Đặc biệt rất thành công từ lúc đầu cho đến giữa năm 1967, hầu hết
các toán đều thi hành nhiệm vụ đúng theo hoạch định, hết thời gian, ra
điểm hẹn để trực thăng bốc đem về. Những toán “Chạy
đường mòn”, viễn thám rất dễ bị địch tiêu diệt do đó nhân viên trong bộ
chỉ huy có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của toán biệt kích, phải chuẩn
bị sẵn sàng vấn đề triệt xuất toán trong vùng địch ngay tức khắc khi
nhận được báo cáo “khẩn”.
VII. CÁC CĂN CỨ / BỘ CHỈ HUY LỰC LƯỢNG ĐẶC-BIỆT.
B-50 LLĐB (HÀNH QUÂN OMEGA).
Dựa
trên sự thành công của các cuộc hành quân Delta và nhu cầu chiến
trường, bộ chỉ huy B-50 Lực Lượng Đặc Biệt tổ chức chương trình hành
quân Omega vào tháng Bẩy năm 1966 và đặt tại Nha Trang. Hành quân Omega
trực tiếp đảm nhận những cuộc hành quân viễn thám, thâu thập tin tức
tình báo tác chiến, tuy nhiên không như Delta trực thuộc bộ
Tổng Tham Mưu và bộ tư lệnh Quân Viện Hoa Kỳ, hành quân Omega được thực
hiện trên vùng I chiến thuật kể từ ngày 1 tháng Chín năm 1967.
B-50
LLĐB tuyển mộ các sắc tộc thuộc bộ lạc người Jah, Rhade và Sedang,
người gốc Chàm và Tầu. Ban đầu gồm có tám toán viễn thám và bốn toán
“Chạy đường mòn”, sau đó tăng lên mười sáu toán viễn thám và tám toán
“Chạy đường mòn”. Trong năm 1968, các toán “Chạy đường mòn” thuyên
chuyển qua B-57 LLĐB, tiếp tục các hoạt động tuần tiễu lấy tin tức. Hành
quân Omega có ba đại đội xung kích làm thành phần tiếp ứng, trừ bị. Bộ
chỉ huy B-50 chấm dứt nhiệm vụ tại Việt Nam vào tháng Sáu năm 1972.
B-51 LLĐB TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN ĐỘNG BA THÌN.
Động
Ba Thìn là
trung tâm huấn luyện của QLVNCH. Đến năm 1964, bộ chỉ huy B-51 LLĐB đến
cố vấn cho chương trình huấn luyện tại trung tâm. Nhiều chương trình
huấn luyện được cải tiến theo thời gian, khóa căn bản LLĐB Việt Nam,
khóa học nhẩy dù của LLĐB, huấn luyện cho DSCĐ, võ Tae Kown Do Đại Hàn,
truyền tin và các khóa huấn luyện khác.
Năm
1968, B-51 LLĐB dời các khóa huấn luyện đi An Khê, nhưng đến tháng Mười
1969 quay trở lại Động Ba Thìn và căn cứ được gọi là trung tâm huấn
luyện quốc gia. Sau đó B-51 được bộ chỉ huy Quân Viện giao cho nhiệm vụ
huấn luyện quân đội Campuchia. Bộ chỉ huy B-50 LLĐB rời Việt Nam tháng
Ba năm 1971.
B-52 LLĐB HÀNH QUÂN DELTA.
Vào
tháng Năm 1964, cơ quan tình báo CIA khởi đầu chương trình
Leaping Lena dùng LLĐB/HK huấn luyện cho LLĐB/VN và lực lượng DSCĐ
trong những nhiệm vụ thám sát thâu thập tin tức. Khi chương trình phát
triển, nhu cầu về nhân lực của LLĐB/HK tăng lên cho đến tháng Sáu năm
1965, khi liên đoàn 5 LLĐB/HK được giao phó thêm trách nhiệm và bộ chỉ
huy B-52 được thành lập để chỉ huy và theo dõi các hoạt động viễn thám.
Chương trình này được gọi là hành quân Delta, mỗi toán thường gồm có hai
quân nhân LLĐB/HK và bốn LLĐB/VN, ngoại trừ các toán “Chạy đường mòn”
có từ bốn đến sáu quân nhân Việt, thường mặc quần áo, trang bị như quân
cộng sản hoạt động trong vùng địch kiểm soát.
Bộ
chỉ huy B-52 vẫn thường thay đổi lề lối làm việc, tổ chức tùy theo nhu
cầu đòi hỏi, mới đầu chỉ có mười hai toán viễn
thám LLĐB Việt Mỹ và mười hai toán DSCĐ “Chạy đường mòn”, một đại đội
phòng thủ người Nùng và tiểu đoàn 81 Biệt Cách Dù với năm đại đội làm
đơn vị xung kích tiếp ứng. Những nhiệm vụ được trao phó cho hành quân
Delta gồm có: Xác định vị trí đơn vị địch, thâu thập tin tức tình báo
chiến lược, thẩm định sự tàn phá cho các trận thả bom, lùng và diệt
địch, đột kích và phá hoại. Bộ chỉ huy B-52 rất nổi tiếng trong suốt
trận chiến.
Đến
năm 1966, chương trình Delta làm việc trực tiếp với bộ chỉ huy Quân
Viện (MACV), thi hành những sứ mạng trên khắp Việt Nam. Cũng trong năm
này hai chương trình khác, Sigma và Omega được phát triển với nhiệm vụ
tương tự, hoạt động trên lãnh thổ vùng I và vùng II chiến thuật. Bộ chỉ
huy B-52
còn được MACV giao cho nhiệm vụ huấn luyện lính Hoa Kỳ về kỹ thuật viễn
thám. B-52 đồn trú tại Nha Trang cho đến tháng Sáu năm 1970 khi chương
trình Delta chấm dứt.
B-53 NHÓM CỐ VẤN HÀNH QUÂN ĐẶC BIỆT.
Bộ
chỉ huy B-53 được chính thức thành lập tại Việt Nam vào tháng Hai năm
1964. Lúc đó đặt trong căn cứ huấn luyện LLĐB Việt Nam ở Long Thành.
Trong thời gian tại đó, nhiều sứ mạng của đơn vị được đề cao và bảo trợ
bởi đơn vị Nghiên Cứu Quan Sát (SOG) thuộc bộ chỉ huy Quân Viện
(MACV-SOG).
Khi
liên đoàn 5 LLĐB/HK rời Việt Nam năm 1971, vấn đề huấn luyện quân Việt
Nam về chiến tranh ngoại lệ vẫn cần thiết. B-53 LLĐB trở thành hạt nhân
cho chương trình này và vào tháng Giêng năm 1971 được gọi
là nhóm Cố Vấn Sứ Mạng Đặc Biệt (SMAG). Nhóm mới thành lập này, lúc đầu
di chuyển đến trường huấn luyện viễn thám (MACV RECONDO), sau đó lấy bộ
chỉ huy liên đoàn 5 LLĐB làm bộ chỉ huy vào tháng Ba.
Nhiêm
vụ của nhóm cố vấn này là huấn luyện, cố vấn và phụ giúp cho đơn vị
Dịch Vụ Sứ Mạng Đặc Biệt (Special Mission Service - SMS) của Việt-Nam,
đơn vị này là tiền thân của LLĐB/VN trong chiến tranh ngoại lệ. Vào
tháng Chín năm 1971, đơn vị SMS được lệnh làm việc với đơn vị 1, Sở Liên
Lạc QLVNCH đóng tại Đà Nẵng, hậu thân của bộ chỉ huy Bắc (Sở Bắc) của
nhóm Nghiên Cứu, Quan Sát MACV (MACV-SOG). Cho đến tháng Ba năm 1972,
trong vòng mười một tháng, nhóm Cố Vấn Sứ Mạng Đặc Biệt (SMAG) hoàn tất
việc huấn luyện cho 27 toán hoạt động
và 15 toán viễn thám. Nhóm cố vấn này chấm dứt nhiệm vụ vào tháng Tư
năm 1972 và bộ chỉ huy B-53 rời Việt Nam.
B-55 TOÁN LIÊN LẠC TẠI SAIGON.
Với
sự hiện diện của LLĐB/HK từ năm 1962, nhu cầu phải có một ban liên lạc
gần bộ chỉ huy Quân Viện Hoa Kỳ tại Saigon để dễ dàng trong việc soạn
thảo, huấn luyện và chuyển những tin tức tình báo. Đó là nhiệm vụ của
toán Liên Lạc LLĐB B-55, thường được gọi là Trung Tâm Hành Quân Chiến
Thuật (TOC), nhưng trên thực tế, cơ quan này làm nhiệm vụ giải đoán tin
tình báo. Được huấn luyện, hướng dẫn bởi ban Cố Vấn Kỹ Thuật hỗn hợp
(JTAD) và phối hợp với ban Nghiên Cứu hỗn hợp (CDS). Sau khi sở Nghiên
Cứu, Quan Sát (MACV-SOG) hoạt động, B-55 làm nhiệm vụ phối
hợp giữa hai tổ chức LLĐB tại Việt-Nam.
Là
cơ quan liên lạc tại Saigon, B-55 phải lo thủ tục giấy tờ cho các quân
nhân LLĐB/HK tại Việt Nam. Tham dự các buổi họp, thuyết trình giữa các
bộ chỉ huy, tuyển mộ lính đánh thuê. Vào ngày 23 tháng Năm 1968, B-55
đảm nhận thêm nhiệm vụ chỉ huy Lực Lượng 5 Xung Kích Lưu Động (Mike
Force). B-55 giữ trách nhiệm này cho đến ngày lên đường về Hoa Kỳ vào
năm 1970.
B-56 HÀNH QUÂN SIGMA.
Khi
mức độ chiến trường leo thang, nhu cầu tình báo tác chiến đòi hỏi qúa
nhiều, đặt nặng vấn đề cho chương trình Delta. Liên đoàn 5 LLĐB/HK thành
lập bộ chỉ huy B-56 vào tháng Tám 1966 để phụ trách chương trình hành
quân Sigma đặt căn cứ trong trại Hồ Ngọc Tảo. Hành quân Sigma
được tổ chức tương tự như những chương trình thám sát khác, gồm có tám
toán viễn thám và ba đại đội xung kích tiếp ứng. B-56 ít tuyển mộ người
Thượng, dùng lính đánh thuê người Nùng hoặc Miên. Những toán “Chạy đường
mòn” của chương trình Sigma được chuyển qua bộ chỉ huy B-57 vào năm
1967.
Sigma
tham gia trong nhiều cuộc hành quân Blackjack trong vùng trách nhiệm
hoạt động. Thường làm nhiệm vụ viễn thám cho các cuộc hành quân, đôi khi
xử dụng lực lượng cơ hữu của Sigma phối hợp với lực lượng tiếp ứng Mike
Force.
Đến
tháng Mười Một 1967, vấn đề chỉ huy hành quân của B-56 được đặt dưới sự
kiểm soát của MACV và thuộc quyền xử dụng của viên tư lệnh Quân Đoàn
II. Trong năm 1969, B-56 dời đi Ban Mê Thuột, cuối cùng trở
lại Hoa Kỳ vào tháng Năm 1971.
B-57 CHƯƠNG TRÌNH GAMMA.
Từ
khi có nhiều đơn vị trinh sát, viễn thám hoạt động trên chiến trường
Việt Nam, nhu cầu giải đoán những nguồn tin tình báo thâu thập được và
cung cấp tin tức, hướng dẫn về các mục tiêu trở nên hiển nhiên. Vào
tháng Sáu 1967, bộ chỉ huy B-57 chương trình Gamma được thành lập. Bộ
chỉ huy đặt tại Saigon, B-57 có nhân viên làm việc rải rác khắp các vùng
chiến thuật II, III, và IV. B-57 đặc biệt tuyển mộ, điều hành những
người lấy tin tức (điệp viên) hoạt động trong vùng địch. Để trợ giúp
nhân viên tình báo của LLĐB, lục quân Hoa Kỳ biệt phái một số chuyên
viên tình báo gọi là nhóm Cố Vấn Kỹ Thuật Hỗn Hợp. Tổ chức này đã hoạt
động hơn
một năm và đã thiết lập một hệ thống gián điệp nằm vùng, có sẵn những
nguồn tin tình báo. B-57 còn giữ sự liên hệ mật thiết với các cơ quan
khác của chính quyền nhằm mục đích trao đổi, thẩm định tin tức và phối
hợp các hoạt động tình báo. Chương trình Gamma chấm dứt vào tháng Ba năm
1970, khi B-57 rời Việt-Nam.
TRƯỜNG VIỄN THÁM (RECONDO SCHOOL).
Khi
chương trình hành quân Delta tăng thêm quân số, nhu cầu huấn luyện về
kỹ thuật tuần tiễu thám sát được đặt ra. Vào tháng Năm 1964, chương
trình Delta bắt đầu huấn luyện trong phạm vi căn cứ tại Nha Trang. Một
thời gian ngắn sau, các đơn vị bắt đầu nghe đến khóa huấn luyện viễn
thám và được phép gửi quân nhân về học. Khi cơ quan MACV được báo cáo
kết qủa tốt đẹp của việc huấn luyện, ra chỉ thị cho liên-đoàn 5 LLĐB
đảm trách về khóa học.
Ngày
15 tháng Chín năm 1966 là ngày chính thức khai giảng trường huấn luyện
Viễn Thám MACV với ban huấn luyện thuộc bộ chỉ huy B-52. Khóa học dài ba
tuần về kỹ thuật tác chiến, tuần tiễu, trinh sát. Khóa sinh phải đầy đủ
sức khỏe, đã ở Việt Nam tối thiểu một tháng và còn sáu tháng phục vụ.
Ưu tiên dành cho những quân nhân đến từ các toán A LLĐB, các đại đội
Biệt Động Quân, các toán viễn thám và các đơn vị trinh sát khác.
Sau
này trường huấn luyện thêm khóa hướng dẫn về chiến đấu cho các quân
nhân LLĐB/HK mới đến Việt Nam. Trường chính thức đóng cửa vào tháng Mười
Một năm 1970.
LỰC-LƯỢNG DU KÍCH LƯU ĐỘNG.
Ý
tưởng về Lực Lượng Du Kích Lưu Động (MGF) dựa trên quan niệm đặt những
đơn vị sâu trong vùng địch kiểm soát trong một khoảng thời gian, nhằm
khuấy phá căn cứ và các hoạt động của địch. Bắt đầu từ năm 1966, đơn vị
Du Kích Lưu Động gồm có một toán A LLĐB và một đại đội 150 người DSCĐ
hoặc Mike Force, đã được huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu lâu dài và một
trung đội trinh sát 34 người. Dưới danh hiệu Blackjack, những đơn vị
này được đưa sâu vào vùng địch và nhận tiếp tế bằng phương tiên thả dù.
Hành quân Blackjack 21 xử dụng đơn vị đặc nhiệm 777 gồm 15 quân nhân
LLĐB/HK và 249 quân nhân Thượng. Blackjack 22 gồm có một đại đội xung
kích Mike Force và một đại đội Du Kích Lưu Động.
Blackjack 33 gồm đại đội 3 xung kích Mike Force và đại đội du kích 957.
Có
nhiều cuộc hành quân Blackjack được tổ chức trong năm sau, cuối cùng
các đại đội Du Kích kết hợp với các đại đội xung kích Mike Force thành
đơn vị cấp tiểu đoàn Xung Kích Lưu Động.
LỰC LƯỢNG XUNG KÍCH LƯU ĐỘNG (Mobile Strike Force).
Mặc
dầu các trại LLĐB đều có lực lượng xung kích cơ hữu để trả đủa tức
thời, tuy nhiên vẫn phải có thêm lực lượng tiếp ứng khác đặt dưới quyền
điều động trực tiếp của LLĐB trong trường hợp khẩn cấp, giải vây trại
LLĐB trước áp lực nặng nề của địch. Một quyết định được tiến hành vào
tháng Sáu năm 1966, thành lập một đơn vị trừ bị cho mỗi quân khu và đặt
trực thuộc
bộ chỉ huy LLĐB quân khu (Bộ chỉ huy C). Các tiểu đoàn tiếp ứng được
huấn luyện và bắt đầu hoạt động từ mùa thu 1966. Mới đầu gọi là Lực
Lượng Trừ Bị Lưu Động, sau trở thành “Mike Force” (Mobile Reaction
Forces - MRF). Năm 1967, tên gọi chính thức cho các đơn vị trên là Lực
Lượng Xung Kích Lưu Động (Mobile Strike Force - MSF), mỗi quân khu đều
có một đơn vị riêng và đơnvị thứ năm được thành lập xử dụng cho bốn quân
khu.
Mặc
dầu dự định là một đơn vị trừ bị đa dụng, đơn vị xung kích trước tiên
được xử dụng như lực lượng bảo vệ căn cứ. Mỗi đại đội có 184 người, được
tổ chức như đơn vị chính quy trang bị súng cộng đồng. Những đại đội này
được gom lại thành tiểu đoàn 552 người. Tiểu đoàn xung kích thường
có thêm đại đội trinh sát 135 người và bộ chỉ huy, đại đội công vụ 227
người. Nhiệm vụ chính là giải vây cho các trại LLĐB, trong năm đầu, lực
lượng xung kích phối hợp với lực lượng du kích trong nhiều cuộc hành
quân. Về sau thường được xử dụng tiếp ứng cho toán Nghiên Cứu, Quan Sát
(MACV - SOG) khi khẩn cấp. Đến năm 1967, lực lượng du kích sát nhập vào
lực lượng xung kích và hoạt động cho đến khi LLĐB/HK bàn giao cho
QLVNCH.
Chiến
đoàn 1 Xung Kích trực thuộc B-16 LLĐB, thành lập vào tháng Hai 1966 và
đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C1/LLĐB tại Đà Nẵng. Trong 5 năm
hoạt động trên chiến trường vùng I, chiến-đoàn 1 Xung Kích gồm có hai
tiểu đoàn, một đại đội trinh sát, bộ chỉ huy và đại đội công vụ. Chiến
đoàn 2 Xung Kích
trực thuộc B-20 LLĐB ở Pleiku, B-23 ở Ban Mê Thuột và B-24 trên Kontum.
Tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C2/LLĐB trách nhiệm trên
lãnh thổ quân khu II. Trong 5 năm hoạt động, chiến đoàn 2 Xung Kích gồm
có năm tiểu đoàn, một đại đội trinh sát, bộ chỉ huy và đại đội công vụ.
Chiến
đoàn 3 Xung Kích thành lập vào tháng Mười Một năm 1967 và đặt dưới
quyền điều động của bộ chỉ huy C3/LLĐB, chịu trách nhiệm trên lãnh thổ
quân-khu III. Bộ chỉ huy B-36 LLĐB chỉ huy trực tiếp chiến đoàn 3 Xung
Kích gồm có ba tiểu đoàn, đại đội trinh sát, bộ chỉ huy cùng đại đội
công vụ. Vào cuối năm 1970, chiến đoàn dược chuyển giao cho QLVNCH, B-36
trở về Hoa-Kỳ tháng Hai năm 1971.
Chiến
đoàn 4 Xung Kích trực thuộc B-40, bộ chỉ huy C4/LLĐB
gồm có ba tiểu đoàn, đại đội trinh sát, đại đội xuồng bay (Air boat)
184 người, bộ chỉ huy cùng đại đội công vụ. Mới đầu chịu trách nhiệm
trên quân khu IV đến tháng Tám năm 1969, đặt dưới quyền điều động của
Biệt Khu 44. Bắt đầu từ tháng Năm 1970, chiến đoàn được bàn giao cho
QLVNCH, B-40/LLĐB/HK về nước tháng Mười Hai năm 1970.
VIII. ĐOÀN NGHIÊN CỨU, QUAN SÁT (MACV - SOG).
Liên
đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát thuộc bộ chỉ huy Quân Viện (MACV - SOG) là
một đơn vị tuyệt đối cho các hành quân đặc biệt. Ngay từ lúc khởi đầu,
danh hiệu Nghiên Cứu, Quan Sát (đôi khi gọi là Hành Quân Đặc Biệt) được
dùng làm tên che mắt (Code name - Danh hiệu) cho các cuộc hành quân tối
mật về tình báo.
Cơ
quan Trung Ương
Tình Báo CIA đã từ lâu yểm trợ cho các dịch vụ bí mật của chính quyền
VNCH cho đến năm 1963, lúc đó cơ quan trở thành bộ chỉ huy Lực Lượng Đặc
Biệt Việt Nam và thực hiện những cuộc hành quân đặc biệt. Cường độ
chiến tranh gia tăng, nhu cầu cho các hoạt động tăng lên. LLĐB/VN phát
triển trở thành Sở Khai Thác Đặc Biệt. Vào ngày 16 tháng Giêng năm 1964,
bộ chỉ huy mới Liên Đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát được thành lập trong Chợ
Lớn cho các cuộc hành quân đặc biệt. Năm 1966, bộ chỉ huy MACV-SOG dời
ra Saigon, bộ phận Bộ đóng trong phi trường Tân Sơn Nhất, bộ phận Không
Yểm dời ra Nha Trang, và bộ phận Hải Yểm đóng ngoài Đà Nẵng.
Các
sứ mạng của MACV-SOG nhắm trực tiếp vào những nơi địch kiểm soát trong
miền nam Việt Nam, và vượt biên
sang đất Lào, Campuchia, Bắc Việt và nam Trung Hoa. Những nhiệm vụ đặc
biệt bao gồm việc thu thập tin tức tình báo chiến lược, phá hoại đường
giao liên, tiếp vận của địch, chiến tranh tâm lý, cứu tù binh và phát
triển phong trào kháng chiến chống lại chính quyền, v.v... Những nhiệm
vụ thám sát của liên đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV-SOG) được chọn lựa
kỹ càng và những bản báo cáo sau chuyến xâm nhập thường được gửi về Ngũ
Giác Đài (bộ Quốc Phòng HK), để đánh gía và phân phối đi.
Năm
1967, MACV-SOG được tổ chức lại đơn vị Bộ thành ba bộ chỉ huy: Bộ chỉ
huy Bắc (CCN) ở Đà Nẵng, Trung (CCC) trên Kontum và Nam (CCS) ở Ban Mê
Thuột. Những bộ chỉ huy này được tổ chức bằng cách gom lại một số căn cứ
hành quân tiền phương (FOB), mà
trước đây được thiết lập để yểm trợ tiếp cận cho những cuộc hành quân
xâm nhập. Các căn cứ này đóng ở Phú Bài (Huế), Kontum, Khe Sanh, Non
Nước, Ban Mê Thuột và trại Hồ Ngọc Tảo. Bộ phận (Sở) Bộ gồm hơn 1600
quân LLĐB/HK, chia ra hơn 70 toán thám sát và 8000 quân LLĐB Việt Nam
(Lôi Hổ).
Cách
tổ chức cuả liên đoàn Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV-SOG) cũng gần như song
song với tổ chức của Lực Lượng Đặc Biệt với các toán xâm nhập tương
đương với các toán A LLĐB, căn cứ hành quân tiền phương tương đương với
bộ chỉ huy B LLĐB, các bộ chỉ huy Bắc, Trung, Nam tương đương với các bộ
chỉ huy C LLĐB.
Bộ
phận (Sở) Không Yểm bao gồm phi đoàn 90 Hành Quân Đặc Biệt (SOS) của
Không Lực Hoa Kỳ, đóng tại Nha Trang, cung cấp máy bay C-130. Phi
đoàn 20 (SOS) có bộ chỉ huy ở vịnh Cam Ranh, các đơn vị phụ thuộc đóng
trên Ban Mê Thuột, Đức Lập và Tiêu Atar cung cấp trực thăng yểm trợ.
Ngoài ra MACV-SOG còn có đơn vị trực thuộc là phi đoàn Đệ Nhất (First
Flight) đóng rải rác khắp nơi và Thái Lan.
Bộ
phận Hải Yểm đóng ngoài Đà Nẵng gồm có đơn vị biệt kích (SEALs) của Hải
Quân Hoa Kỳ, các siêu tốc đỉnh và các toán Người Nhái, phá hoại dưới
nước thuộc Hải Quân Việt Nam.
MACV-SOG
còn có một trung tâm huấn luyện và đơn vị xâm-nhập bằng dù ở Long
Thành. Đơn vị này gồm các quân nhân Việt Nam, được thả vào vùng địch
bằng phương tiện nhẩy dù.
Cơ
quan MACV-SOG ngưng hoạt động kể từ ngày 30 tháng Tư 1971 và chương
trình được giao cho toán Yểm Trợ Nha Kỹ Thuật 158
(STDAT). Một số quân Bộ đã chuyển qua nhóm Cố Vấn Hành Quân Đặc Biệt từ
tháng Ba năm 1971. Cuối cùng chấm dứt nhiệm vụ vào ngày 12 tháng Ba năm
1972. Kết thúc một trong những huyền thoại trong ngành Lực Lượng Đặc
Biệt.
BỘ CHỈ HUY (CCN) SỞ BẮC.
Bộ
chỉ huy Bắc được thành lập vào ngày 01 tháng Mười Một năm 1967 tại Đà
Nẵng với ba bộ chỉ huy tiền phương 1 tại Phú Bài, bộ chỉ huy tiền phương
3 tại Khe Sanh và bộ chỉ huy tiền phương 4 tại Non Nước. Quân nhân
thuộc Liên-đoàn 5 LLĐB/HK và ban cố vấn Hải Quân.
Các
hành quân vượt biên do BCH Bắc tổ chức nhắm vào miền bắc Việt-Nam và
Lào. Những cuộc hành quân trong vùng nam Lào dưới danh hiệu Shining
Brass bắt đầu từ năm 1965 nhằm phá hoại đường dây xâm nhập người và vật
liệu. Sau đó đổi tên là Prairie Fire, khi chuyển qua Nha Kỹ Thuật cuộc
hành quân lấy tên là Phù Dung.
Như
tất cả các cuộc hành quân thám sát, BCH Bắc cũng có đơn vị tiếp ứng gọi
là đơn vị Cảm Tử Đặc Biệt. Ngoài ra còn thiết lập những căn cứ hành
quân bí mật bên Thái Lan. Tuy nhiên, nhiệm vụ chính vẫn là trinh sát,
thâu thập tin tức tình báo chiến lược.
BỘ CHỈ HUY (CCC) SỞ TRUNG.
Bộ
chỉ huy này đóng trên Kontum gồm quân của liên đoàn 5 LLĐB/HK, có thời
gian được xem như phần nới rộng hành quân của LĐ 5 LLĐB. Khu vực trách
nhiệm của bộ chỉ huy Trung là tam
giác Lào, Miên và Việt. Các cuộc hành quân lúc đầu lấy tên là Daniel
Boone, sau đổi thành Salem House nhằm phá hoại căn cứ, kho tiếp liệu che
dấu của quân cộng sản Bắc Việt, đặc biệt trong vùng đông bắc Campuchia.
Trong Bộ chỉ huy Trung có tất cả 30 toán thám sát, mỗi toán gồm 3 quân
nhân LLĐB/HK và chín quân nhân Việt Nam. Ngoài ra còn có bốn đại đội
khai thác, xử dụng tin tức do các toán thám sát cung cấp trong các cuộc
hành quân lùng và diệt.
BỘ CHỈ HUY (CCS) SỞ NAM.
Bộ
chỉ huy này được thành lập vào tháng Mười Một năm 1967 đồn trú tại Ban
Mê Thuột. Bộ chỉ huy này nhỏ nhất trong các bộ chỉ huy của liên đoàn
Nghiên Cứu, Quan Sát (MACV-SOG). Khu vực hoạt động chính nơi đồng bằng
Cửu Long và Campuchia. Đơn
vị gồm có một số toán thám sát và bốn đại đội khai thác. Do địa thế
dưới vùng đồng bằng, các đại đội khai thác thường xử dụng xuồng bay
trong các cuộc hành quân tiếp ứng. Sự tham chiến của các quân nhân Hoa
Kỳ trong đơn vị này chấm dứt vào tháng Giêng năm 1973, tất cả các đơn vị
Hoa Kỳ trở về nước.
IX. ĐOẠN KẾT.
Trong
chiến tranh Việt Nam, rất nhiều giai thoại nói về binh chủng Lực Lượng
Đặc Biệt. Nhưng ít người hiểu biết tường tận, ngay cả đến những quân
nhân phục vụ trong ngành LLĐB. Điều này không nên lấy làm lạ vì đó là
đặc tính căn bản (sống chết) của LLĐB... “BÍ MẬT”. Nhiều đơn vị có tên
nghe rất lạ: Lôi Hổ, Thám Sát, Sở Công Tác, Liên Lạc, Biệt Kích v. v...
Đối
với quân đội Hoa Kỳ, các quân nhân LLĐB được coi như những chiến sĩ can
trường, được tuyển chọn và huấn luyện đầy đủ nhất. Trong QLVNCH, binh
chủng LLĐB Việt Nam gồm những chiến sĩ can đảm, gan lì, đôi khi hơi bí
mật... Họ là những “Bóng ma biên giới” đối với quân cộng sản. Binh chủng
LLĐB đã đóng góp rất nhiều công lao, xương máu cho miền Nam tự do của
chúng ta, mặc dầu những chiến công, sự chiến đấu của họ cũng
thầm-lặng... bí mật.
Theo tài liệu:
- Harry Pugh, U.S. Special Forces, C&D Enterprises, Arlington, VA. 1993- Francis J. Kelly, The Green Berets, Brassey Inc., New York, NY. 1991
- Special Forces and Missions, Time-Life books, Alexandria, VA
No comments:
Post a Comment