Văn Nguyên Dưỡng
Tác giả tên thật là Nguyễn Văn Dưỡng,
tự Vĩnh Định cựu Sinh Viên Sĩ Quan TĐ8/ĐĐ2/BB/ Khoá V-Vì Dân/Thủ Đức
cũng là người từng cộng tác với Sử gia Phạm văn Sơn, bị giam 13 năm trong các
trại tù cộng sản Việt Nam từ Nam ra Bắc, đã ghi nhận về những ngày cuối cùng
của ông Phạm Văn Sơn tại Trại K2/Tân Lập.
Bạn đọc có thể xem “The Death Of
Historian Pham Van Son”, cùng tác giả tại
đây .
Sau khi ra khỏi các trại tù cộng sản
Việt Nam năm 1988, Văn nguyên Dưỡng sang định cư ở Hoa Kỳ năm 1991. Ông cũng là
tác giả của quyển sách viết bằng Anh ngữ về Chiến Tranh Việt Nam “The
Tragedy of the Vietnam War: A South Vietnamese Officer’s Analysis ” do McFarland &
Company xuất bản năm 2008.
Một số tác phẩm của nhà sử học Phạm Văn Sơn. Nguồn:
OntheNet
Trước năm 1975, ở miền Nam, ông Phạm
Văn Sơn là một trong rất ít những vị viết sử. Bộ sử được nhiều người biết đến
nhất của ông là bộ Việt Sử Tân
Biên.
Tôi hân hạnh được làm việc dưới quyền
chỉ huy của ông từ năm 1958 đến 1960. Thời gian này ông mang cấp bậc Thiếu tá,
giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Quân Báo & Chiến Tranh Tâm Lý Cây Mai; tôi
mang cấp bực Trung úy, là huấn luyện viên và sĩ quan an ninh của Trường. Chính
trong thời gian này, ông đã tu chỉnh bộ sử nói trên và cho tái
bản.
Những thì giờ nhàn rỗi, tôi đã tình
nguyện giúp ông. Tôi được ông giới thiệu đến gặp ông Lê Ngọc Trụ, công chức làm
việc ở Thư Viện Quốc Gia –lúc đó còn nằm trên đường Gia Long– để nhờ hướng dẫn
sưu tầm tài liệu. Ông Lê Ngọc Trụ còn là một học giả, giảng sư Ngữ học của Đại
học Văn khoa Saigon, đã chỉ dẫn cho tôi tìm được khá nhiều tài liệu và sách viết
bằng tiếng Pháp về thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Các tài liệu này cũng như những
tài liệu quí giá khác, giúp cho ông Phạm Văn Sơn tu chỉnh Việt Sử Tân Biên. Thời
gian làm việc với ông, tôi đã học được ở ông nhiều điều về viết
lách.
Năm 1961, trường Cây Mai đổi tên, chỉ
còn là trường Quân Báo. Ngành Chiến Tranh Tâm Lý tách ra riêng, đuợc dạy riêng ở
một trường của ngành này, mới thành lập, ở một địa điểm khác; do đó, Thiếu tá
Phạm Văn Sơn cũng được thuyên chuyển về ngành Chiến Tranh Chính Tri… Sau đó
không lâu, ông được bổ nhậm vào chức vụ Trưởng Ban Quân Sử của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa, thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. Ông lần lượt được thăng đến cấp Đại tá
và giữ nhiệm vụ này cho đến trước ngày miền Nam sụp đổ.
Tôi nghĩ rằng, với khả năng của ông và
và dưới sự chỉ đạo của người viết sử sở trường và kinh nghiệm như ông, hẳn là
Ban Quân Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã viết được những bộ sử chiến tranh
Việt Nam cận đại quí giá, nhất là binh sử thời kỳ sau năm 1954 trở đi. Tôi nghĩ
như vậy vì tôi biết ông Phạm văn Sơn rất thận trọng, không thể khinh xuất trong
nhiệm vụ của mình và càng không thể để cho thuộc cấp khinh xuất. Ngày trước ông
thường bảo tôi:
“Phải cố gắng làm sao cho mức độ trung
thực và chính xác cao chừng nào tốt chừng đó, như vậy những điều mình viết về sử
mới mong có thêm một chút giá trị. Việc sưu tập những sự kiện, chứng tích, tài
liệu có độ xác tín cao nhiều chừng nào thì việc so sánh, nghiên cứu, lượng giá,
đối chiếu… dễ chừng nấy”
Đó là lề lối làm việc nghiêm cẩn, thận
trọng của ông. Vì vậy sau này, năm 1972, tôi đã không ngạc nhiên khi chiến
trường An Lộc còn đang sôi động với những trận đánh đối tuyến chỉ cách nhau có
một con đường, giành nhau từng góc phố –giữa các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa và
quân cộng sản Bắc Việt– khi những cơn pháo kích dữ dội của địch quân chưa
giảm, khi không một chiếc trực thăng nào đáp xuống An Lộc mà không sợ tan xác,
tôi đã thấy ông hiện diện ở chiến trường này để tìm hiểu sự thật viết về trận
chiến khốc liệt đó.
Quân Chiến Trường An Lộc– của tướng Lê
Văn Hưng, đã cung cấp cho Đại tá Phạm văn Sơn những tài liệu, sự kiện “sống”
nóng bỏng, chính xác và đầy đủ. Tuy nhiên, muốn viết cho trung thực hơn, ông đã
ở lại trong hầm chống pháo với tôi một đêm thức trắng để nghe tiếng đạn pháo của
địch quân rơi trên đầu mình và xung quanh đâu đó, vừa hỏi tôi thật chi tiết về
những sự kiện ghi trong nhật ký hành quân (mỗi phòng của Bộ Tư Lệnh Hành Quân
đều có) kể cả tài liệu, cung từ tù binh của địch bắt được trong các trận đánh
trước ở đó.
Sau khi ông rời An Lộc, không bao lâu
mặt trận được giải tỏa, tôi đến Bộ Tổng Tham Mưu để gặp ông thì được biết ông đã
ra Quảng Trị (*) làm nhiệm vụ như đã làm ở An Lộc. Như vậy ông và những
sĩ quan thuộc cấp trong Ban Quân Sử đã hiện diện ở khắp chiến trường lớn để tìm
sự thật viết binh sử… Tôi nêu lên những chi tiết trên đây mong các bạn hình dung
được tư cách khả trọng của một người viết sử chân chính, ông Phạm văn Sơn, một
người đã thành danh trong giới trí thức Việt Nam, để rồi tôi xin kể lại những
ngày cuối cùng bi đát trước cái chết thảm thương của ông trong lao tù, dưới chế
độ bất nhân, tàn độc của cộng sản Việt Nam.
Ngày 30/4/75, như mọi người đều biết,
Dương Văn Minh, một tổng thống phi hiến (**), tuyên bố đầu hàng cộng
sản Bắc Việt vô điều kiện, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, buông súng,
tan rã. Một số tướng lãnh, sĩ quan cấp tá, cấp úy tuẫn tiết. Tất cả những sĩ
quan còn lại ở miền Nam vào lúc đó, bị dồn vào các trại tập trung tạm trong lãnh
thổ miền Nam, cùng với các cấp chỉ huy cảnh sát, công chức cao cấp, các nhà hoạt
động chánh trị trong các đảng phái miền Nam và các vị tuyên uý Công giáo, Tin
Lành và Phật giáo trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Một năm sau, cộng sản
Bắc Việt đưa tất cả những người mà họ gọi là có “nợ máu nhiều nhất với nhân
dân” ra miền Bắc, giam giữ và bắt lao động khổ sai ở những trại giam trong rừng
sâu nước độc Thượng du và Trung du Việt Bắc. Một số sĩ quan và công chức khác
còn bị giam giữ ở các trại cải tạo miền Nam.
Tháng 6, năm 1976, đợt tù nhân đầu
tiên bị đưa ra Bắc, trong đó có tôi, bị dồn cứng dưới khoang của những chiếc tàu
thủy cận duyên cỡ nhỏ, loại chuyên chở của quân đội cộng sản Bắc Việt. Sau 4
ngày 4 đêm, tàu cập ở Bến Thủy thuộc Vinh. Từ đó vào nửa khuya, chúng tôi bị
chuyển vào bờ, lần này thì bị dồn vào các toa tàu hỏa dùng để chở súc vật, lên
phía Bắc. Ngày 15/6/76 — ngày duy nhất mà tôi nhớ suốt 13 năm tù– đúng một năm
sau ngày tôi đưa đầu vào cùm ở trường Don Bosco ở Gò Vấp, trên chuyến tàu hỏa
nói trên, qua một kẽ hở thật nhỏ của toa tàu, tôi đã nhìn thấy nhà thương Bạch
Mai và ga Hàng Cỏ, những địa danh của Hà Nội mà tôi đã được đọc qua trong các
tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn thuở tuổi học trò. Hai sĩ quan tù nhân cấp Tá đã
ngộp thở chết trong toa chở súc vật, quãng giữa đường Việt Trì – Yên Bái. Kể từ
đó, có thêm hàng trăm tù nhân đi trên những chuyến tàu định mệnh này đã ngã
xuống ở các trại tù miền Bắc, vĩnh viễn không còn thấy được những chuyến tàu
xuôi Nam…Trong sốnhững người này có Sử gia Đại Tá Phạm Văn Sơn.
Sử gia Phạm Văn Sơn (1915-1978),
cựu Đại tá trưởng Khối Quân Sử (Nghiên cứu), phòng 5/ Bộ TTM Quân lực Việt Nam
Cộng Hòa. Nguồn OntheNet
Một số tù nhân trên dưới một ngàn
người trên các toa tàu này được đổ xuống ga Yên Bái; tôi cũng nằm trong số “tù”
này. Từ ga Yên Bái, bộ đội cộng sản dùng xe quân sự Molotova chuyển chúng tôi
theo đường bộ lên Sơn La giam giữ ở các trại giam “quân quản” dành cho các sĩ
quan miền Nam. Tôi ở đó được một năm rồi bị chuyển sang trại giam công an, cũng
ở Sơn La, trong 2 năm nữa.
Năm 1979, trước cuộc chiến ngắn ngủi
giữa Trung cộng và cộng sản Việt Nam không bao lâu, tất cả chúng tôi — những
tù nhân chính trị — ở những trại giam trên các tỉnh biên giới phía Bắc và Tây
Bắc được chuyển về các trại giam vùng Trung Du và các tỉnh phía nam, tây nam Hà
Nội, như các trại giam Tân Lập (Vĩnh Phú), Nam Hà (Nam Định), Thanh Phong (Thanh
Hóa, Nghệ Tĩnh)… Sự chuyển dồn trại như vậy làm cho đời sống lao tù chúng tôi đã
cơ cực càng cơ cực hơn, ăn đã đói càng đói hơn, mỗi người không có được đến 4
tấc chiều ngang để có thể nằm ngửa, phải nằm nghiêng chen chúc lẫn nhau mà ngủ
sau mỗi ngày lao động nặng nhọc, nên phòng giam nào cũng hôi hám, thiếu ánh
sáng, thiếu không khí đến ngộp thở. Bao nhiêu chứng bệnh ngặt nghèo nguy hiểm đã
bộc phát trong anh em chúng tôi, thuốc men không có để trị bệnh. Mạng sống của
mọi người bị Tử Thần rình rập từng ngày, từng đêm.
Đa số anh em chúng tôi được đưa về
trại giam Tân Lập do công an quản chế, bây giờ đặt dưới sự chỉ huy của Trung
Tá Công an Nguyễn Thùy. Tân Lập là một hệ thống trại gồm một trại chính và
nhiều phân trại thường được gọi là K, đánh số từ K1 đến K7, nằm rải rác hai bên
bờ một nhánh sông bắt nguồn từ sông Lô, chảy qua xã Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú. Tôi
đến Tân Lập ngày nào năm đó, đã không còn nhớ nữa, chỉ nhớ là lúc đó trời đã bắt
đầu trở lạnh… Dù vậy, sau mỗi buổi lao động vẫn phải theo mọi người ra những bãi
vắng trên sông này để tắm trước khi về trại. Chính ở các bãi tắm này chúng tôi
mới thấy hình hài khốn khổ của nhau, vì mọi người đều trần truồng. Trong khi số
tù nhân từ Sơn La mới chuyển về, người ngợm còn chút thịt da, thì, những anh em
tù đã ở trại giam K2/Tân Lập từ mấy năm trước thân thể chỉ còn da bọc xương… Đến
hai bên mông là nơi lý ra phải còn có chút thịt, cũng chỉ thấy có xương xẩu nhô
hẳn lên, trông thật thảm não. Khi tắm ai cũng rét run, vì cái lạnh của trời và
nước làm cho mọi người thấu buốt ruột gan…bởi trong người không còn năng lượng
đề kháng nào nữa.
Tôi nói lên những điều này để chỉ rõ
chế độ quản chế, đối xử với tù nhân chính trị của trại giam Tân Lập cay nghiệt
hơn bất cứ trại giam nào mà chúng tôi đã trải qua trước đó, mặc dù chúng tôi
biết rằng với chế độ tập trung cải tạo, trại giam là nơi cộng sản Việt Nam
giết người kín đáo nhất, ít đổ máu nhất, bằng áp đặt khổ sai vắt sức, bằng bỏ
đói trường kỳ… khiến cho tù nhân chết mỏi mòn vì kiệt sức, vì bệnh hoạn hay vì
những lý do mờ ám khác nữa. Không một ai trong chúng tôi, lúc đó, thoát khỏi sự
thách đố của định mệnh, của cái chết đến bằng nhiều cách ở bất cứ lúc nào. Ở Tân
Lập, Trung tá Nguyễn Thùy và cán bộ Công an trại giam đã làm hơn những điều
chúng tôi đã nghĩ, đã biết. Vì thế các tù nhân chính trị chết trong các phân
trại Tân Lập nhiều hơn bất cứ nơi nào khác. Riêng ở phân trại K2, mấy tháng mùa
đông cuối năm 1979, đầu năm 1980, mỗi ngày ít nhất cũng có 1 đến 2 tù nhân chết;
con số tù nhân đến bệnh xá (không có một thứ thuốc men nào để trị bệnh), hằng
ngày hơn 200 người, mục đích không phải là để xin trị bệnh, nhưng để được khám,
chứng nhận là là “có bệnh”–khỏi đi lao động– được ngày nào đỡ ngày đó, mặc dầu
họ là những người bệnh thực sự cần phải được điều trị và miễn làm việc… chớ đừng
nói là lao động nặng.
Tại K2/Tân Lập, trong hoàn cảnh chung
như vậy, tôi đã gặp lại Đại tá Sử gia Phạm Văn Sơn. Tôi đã nhìn thấy tận mắt
những ngày sống bi đát cuối cùng của đời ông.
Chừng một tháng sau khi đến K2, một
buổi trưa, tôi và một người bạn tù khác cùng đợi đến phiên phải lên phạn xá gánh
cơm về cho anh em trong đội ăn sau buổi lao động; trong khi chờ đến lượt mình
nhận cơm, tôi đã vơ vẩn đến bên ngoài hành lang của một căn phòng nhỏ cạnh phạn
xá. Tôi thấy một người, nhận ra ông, mà cứ ngỡ là đôi mắt mình đã nhìn lầm. Ông
chính là Đại tá Phạm Văn Sơn, vị chỉ huy trưởng ngày xưa của tôi. Ông chỉ còn là
cái bóng âm thầm, một cái xác sắp mục nát, bất động, câm nín sau chấn song sắt,
bên trong cửa sổ của căn phòng “cách ly”. Duy đôi mắt hiền hòa thì vẫn tinh anh
như thuở nào. Rõ ràng ông đang hiện hữu như một tĩnh vật có linh hồn sáng suốt,
đang nhìn ngắm mọi sự vật đổi thay, quay cuồng điên đảo với những nhận định
xuyên suốt, những ý nghĩ sâu sắc, cao xa nào đó một cách hữu thức… Vì chính đôi
mắt nhìn lắng sâu và sáng kia là “cửa sổ linh hồn” cho tôi biết điều đó về
ông.
Tôi nhìn ông và ông nhìn
tôi.
Trong một thoáng, quá khứ như chổi
dậy; không biết vì mừng rỡ hay vì ngỡ ngàng xúc động, tôi chợt buột miệng gọi
lên:
- Thầy!
Chỉ một tiếng rồi lặng thinh. Tôi còn
biết nói gì hay làm gì hơn khi mà… ai cũng biết rằng mình bất lực trước hoàn
cảnh bất hạnh nào riêng của mỗi người. Mắt ông hình như sáng hơn, ông đã nhận ra
tôi. Trong gương mặt đã biến dạng, sần sùi của ông, với đôi môi khẽ chớp động,
tôi đã nhìn thấy một nụ cười. Ông đã hiểu rõ tâm trạng của tôi, tuy ông lặng lẽ
không nói một lời nào.
Không một dấu hiệu, ông rời song cửa
sổ. Chỉ chưa đầy một phút sau, cánh cửa ra vào của căn phòng nhỏ –đang khép hờ–
mở rộng ra. Ông đứng ở ngưỡng cửa, thẳng thớm như đứng giữa giang san của mình,
một giang san thu hẹp đến thật nhỏ nhoi, lạnh lẽo, cô đơn… Với thế đứng vững
vàng như vậy, ông đã cho tôi ý nghĩ là, chính nơi này, nơi thật nhỏ nhoi này, là
nơi ông đã tìm ra nguyên ủy, phương trình giải quyết và kết luận cho một nan đề
khó giải quyết nhất, hay ông đang ấp ủ một điều gì thật to tát trong tư tưởng
của ông. Nhận xét của tôi không thể nhầm lẫn vì ngày xưa nhiều lần tôi đã nhìn
vào mắt và tư thế của ông mà đoán đúng những gì ông định ra lệnh cho tôi hay
muốn nói cùng tôi. Ở lần gặp lại này, tôi cũng cảm nhận được ý nghĩ của ông như
thuở đó.
Tôi định bước vào hành lang, tiến đến gần ông nhưng kịp
thấy ông nhìn tôi khẽ lắc đầu. Tôi dừng lại và ghi nhận đầy đủ hơn tín hiệu của
căn bệnh ghê gớm đã và đang tàn phá cơ thể của ông. Ông đứng thẳng, hai tay chập
lại để trước người. Những ngón tay đan chéo vào nhau. Chỉ nhìn tôi không nói một
lời nào. Ngày đó, trời vẫn lạnh căm. Tuy nhiên, tôi nghĩ không phải vì trời lạnh
mà ông trùm kín đầu bằng một chiếc khăn lông trắng đã trở màu vàng, bẩn và lấm
tấm những vệt máu, mủ. Vòng khăn quấn kín cổ chỉ chừa có đôi mắt, mũi, miệng và
một phần rất nhỏ ở hai bên má. Ông trùm kín mặt như vậy có lẽ để che bớt đi
những vết lở lói trên mặt mình, bởi chứng bệnh nan y của ông. Thân thể gầy gò
nhưng cộm lên vì mặc nhiều lớp áo quần bên trong. Bên ngoài, ông mặc một chiếc
áo mưa màu nhà binh đã thật cũ, sờn rách một đôi nơi. Chân được bó lại bằng
những mảnh vải quần áo cũ xé ra, dính đầy bụi đất và những vết máu, vết mủ. Chỉ
có một phần mặt mũi và hai tay của ông lộ ra, các phần thân thể khác không thấy
được. Và chỉ có vậy thôi, tôi cũng nhận ra rằng không phải ông mang chứng lở lói
bình thường mà tôi đã từng thấy, từng biết. Mũi ông đỏ ửng, bóng; hai má cũng
vậy, cộng thêm một số vết lở lói; lông mi ở mắt đã rụng. Hai bàn tay cũng có
những vết lở tấy, nhưng các ngón tay đã co lại, móng tay nhiều ngón đã bị khuyết
lại hay mất hết: Ông bị chứng phong hủi (leprosy) ở thời kỳ trầm trọng. Vì không
có thuốc điều trị và vì điều kiện vệ sinh không thể có được trong tù nên bệnh
phát triển rất nhanh. Đó là lý do tại sao chỉ mới đi tù trong vòng bốn, năm, năm
ông đã trở thành người tàn phế, bị cách ly riêng biệt. Có lẽ người ta gán cho
ông chứng bệnh lở lói là để tránh sự loan truyền căn bệnh cùi trong trại giam.
Vả lại ông bị “cách ly” chỉ được ra ngoài vào những giờ mọi người đã đi lao
động, không còn ai trong trại, nên ít ai biết rõ. Nhưng chính ông, ông biết rõ
bệnh trạng của ông. Tôi nhìn ông thật lâu, trong lòng xót xa, không biết phải
nói gì, làm gì. Vị sĩ quan cao cấp chững mực với quân phục chỉnh tề trang nghiêm
ngày xưa nay đã mang hình hài của một người tàn phế mà ai cũng có thể gặp ở đâu
đó. Đôi mắt tôi nói rõ sự thương cảm của tôi đối với ông. Và một lần nữa ông
cười, nụ cười nhăn nhún với một chiếc răng khểnh trong môi, như ông muốn nói với
tôi rằng:
-Tôi chấp nhận định mệnh của tôi,
nhưng tư tưởng của tôi đã vượt khỏi thân xác nhỏ nhoi tàn phế của tôi rồi. Anh
đừng thương hại cho tôi.
Sau nụ cười là ánh mắt nhìn tôi sâu
hơn. Trong ánh mắt đó, tôi đã ghi nhận được sự thương xót của ông đối với tôi.
Hình như ông đã nhìn thấy lại người sĩ quan thuộc cấp trẻ tuổi của ông ở những
ngày xưa, còn độc thân, mặt còn non sữa, nhưng sáng sủa và nhanh nhẹn, đã từng
lúc làm ông hài lòng, cùng từng khi khiến ông phải chỉ bảo…Ngày nay, hắn ta đã
trở thành một người cằn cỗi, gầy ốm, lam lũ với áo quần chùm đụp rách rưới, má
hóp, mắt thâm vì những ngày thiếu ăn, những đêm thiếu ngủ. Hơn thế nữa, hắn ta
còn chưa biết phải làm gì trong cảnh tù đày và trong tương
lai.
Tôi chưa biết nói gì thêm, làm gì
thêm, ở buổi gặp lại ông trong hoàn cảnh khốn khổ đó, thì anh bạn cùng tôi đi
lãnh cơm, tìm được tôi, thấy tôi đang đứng “nói chuyện” với Đại tá Sơn. Anh đến
gọi tôi vì cơm anh đã lãnh xong để ngoài sân phạn xá. Tôi tần ngần một phút
nhưng rồi cũng phải theo anh trở lại phạn xá gánh cơm về cho anh em ăn. Chúng
tôi chào từ giã ông, không thấy ông trả lời. Tôi quay đi, mang theo nỗi buồn
thật lớn. Anh bạn nói với tôi:
- Đại tá Sơn đó, ông ta bị chứng bệnh
nan y, vừa bị suyễn, bệnh tim và lao phổi. Ông không hề nói chuyện với
ai.
Tôi trả lời
ngắn:
- Ông là boss cũ của
tôi.
Suốt ngày hôm đó tôi thẫn thờ vì những
ý nghĩ miên man trong đầu óc tôi. Đêm đó cũng không thể ngủ được. Tôi suy nghĩ
về ông và những ngày tù đày của chính bản thân tôi. Quả thật, trong lần đối
thoại bằng mắt ở buổi gặp lại lạ lùng này, ông đã nói với tôi thật nhiều về thân
phận của ông và của tôi. Tôi biết rõ ông đã vượt khỏi cái thân xác bệnh hoạn yếu
đuối nhỏ nhoi của con người, dẫn phần tâm linh của ông đến một cõi an bình nào
đó, như một tín đồ công giáo tin tưởng sự an bài của Đấng Tạo Hóa về định mệnh
của mình. Hơn thế nữa, trong tư tưởng, ông không chỉ còn là một người viết sử
bình thường, một sĩ quan bình thường, mà đã trở thành một triết gia lớn biết cả
cội nguồn của dân tộc và tổ quốc. Tâm trí ông đã đi ra ngoài thân thể ông để đến
một khung trời bao la nào đó, cao rộng, hay ít nhất cũng phủ trùm trên bờ cõi
Việt Nam. Rõ ràng ông đã tìm được cho ông một lối thoát, sau khi đã trải qua
đau khổ đến tột độ: thể xác nứt nẻ, nhức nhối vì bị gặm nhấm, rút tỉa bởi con
máu độc hại của chứng bệnh nan y; bị bỏ đói khát lạnh lẽo, cô độc trong một nơi
cách biệt đến trở thành câm nín. Bao nhiêu tháng ngày đau đớn oằn oại mà ông
phải chịu đựng từng phút từng giây đó không đủ để ông trở thành một triết nhân
hay sao, vả lại ông là một người thâm trầm, hiểu sâu học rộng…Dù sao thì ông
cũng đã vượt thoát được đau khổ và tìm ra cho mình một con
đường.
Một ngày nào thoát khỏi gông cùm cộng
sản, nếu tấm thân tàn phế của ông còn hơi thở, thì biết đâu khối óc phong phú
và tĩnh đạt của ông sẽ không giúp ông trở nên bất tử trong lòng mọi người, vì
những điều chứa đựng trong đó sẽ có thể cho chúng ta những hiểu biết về lịch sử
Việt Nam — trong thế hệ chúng ta — một cách xác đáng nhất, tường tận nhất, đáng
suy gẫm nhất vì sao chúng ta đã đau khổ triền miên trong cuộc chiến tranh tàn
khốc dai dẳng vừa qua. Hay xa hơn nữa, biết đâu ông cũng có thể cho chúng ta một
triết lý nhân sinh rút tỉa từ kinh nghiệm bản thân ông, khả dĩ giúp được nhiều
người tìm ra sự an bình trong tâm hồn ở cuộc sống nhiều đau thương
này.
Tôi yên tâm phần nào về ông, vì tôi
biết, dù ông là kẻ chiến bại trong cuộc sống, nhưng lại là người chiến thắng
chính bản thân mình. Còn tôi, ông đã nói cho tôi biết bằng ánh mắt, là ông
thương cảm cho tôi, vì hình như ông biết rõ tôi đã và đang còn mù mờ, quờ quạng
trong đáy ngục, trong lưu đàỵ Tôi chưa nghĩ gì cho hôm nay và cho ngày mai hơn
là phải sợ lao động nặng nhọc sáng nay hay sợ bị đói lạnh chiều nàỵ Tâm trí, tư
duy của tôi là một thứ bòng bong.
Tôi phải gặp lại ông, tôi phải học tấm
gương của ông, phải biết nhận chịu cái đau buốt tận xương tủy, để nghiền ngẫm về
lẽ sống và tìm cho mình một con đường thích hợp nhất mà bước đi. Từ ngày đó tôi
định bụng hôm nào thuận tiện tôi sẽ đi tìm ông, vì ông ở phòng “cách ly” không
phải lúc nào cũng tự tiện mà đến được. Cán bộ Công an trại giam cấm ngặt mọi tù
nhân đến đó. Trong mấy ngày liền, sau các buổi lao động xong về trại, tôi đi
theo các bạn lãnh cơm lên phạn xá, lảng vảng đến gần căn phòng cách ly mong nhìn
thấy ông để đến gặp, nhưng lần nào cũng trở về không. Rồi một buổi chiều tôi trở
lại đó, từ xa tôi đã thấy ông sau song cửa sổ, mắt đang nhìn ra xa xôi… cao hơn
bờ tường rào của trại trước mặt ông. Tôi muốn nhìn ông cho rõ hơn nên bước thêm
mấy bước nữa rồi dừng lại. Một chập rất lâu, ánh mắt ông vẫn thế, không thay đổi
hướng. Ở hướng đó, mặt trời chiều đã xuống thấp, nắng đã nhạt, mấy áng mây thật
mỏng, ráng hồng, còn vơ vẩn, rồi bỗng như bị gió giật xé, tan ra. Tôi chợt thấy
ông rùng mình. Tôi tự nghĩ: “Chẳng lẽ mình nhầm hay
sao khi nhận xét về ông ở buổi đầu tiên?” Không do dự nữa, tôi bước đến
gần, đứng ngoài sân, trước hành lang, chào ông và khẽ hỏi:
- Chào Thầy, hôm nay Thầy có khoẻ hơn
không?
Ông quay lại nhìn tôi, nhẹ gật đầu
nhưng không trả lời. Đôi mắt ông lại hướng về góc trời có một bóng mây vừa tan,
một thoáng như mờ đi, như nghĩ ngợi, rồi chợt sáng hẳn ra nhìn thẳng hơn vào mắt
tôi. Thầy. Thầy ơi! Tôi đã hiểu rồi. Tôi đã hiểu
trong lòng Thầy nghĩ gì và Thầy muốn gì ở tôi. Lòng tôi trong một phút cảm thấy
đau điếng. Tôi có nên nói đến những
điều này cho các bạn nghe hay không? Liệu các bạn có tin rằng tôi nói bằng sự
thật, bằng tấm lòng của tôi hay không? Thôi thì tôi cứ
nói.
Ông đã cảm nhận được định mệnh của ông
rồi. Hơn ai hết, ông hiểu rõ tình trạng sức khoẻ của ông. Ông chỉ sợ mình như
ráng mây mong manh kia, sẽ phải tan rã mất đi vội vàng. Thời gian quí báu không
còn nữa đối với ông, ngọn đèn hắt hiu trong tim ông sắp tắt, nhưng ngọn lửa lớn
trong óc ông, đang rực sáng, không có chỗ thoát ra. Bốn bức tường của nhà giam
này thật cay nghiệt; cái hoài bão của ông, niềm ấp ủ đã hình thành trong tâm não
ông cũng sẽ tan biến mà thôi. Ông không sợ bản thân ông bị tiêu hủy, ông chỉ sợ
những điều đó bị tiêu diệt, tôi nghĩ như vậy.
Với ánh mắt nhìn thẳng vào mắt tôi,
tôi nhận ra hình như ông muốn ủy thác cho tôi một việc gì đó sau này — khi tôi
ra khỏi bốn bức tường của trại giam– chẳng hạn như sẽ thay ông viết lên những gì
mà ông muốn để lại cho những thế hệ tương lai. Nếu quả thật điều này tôi đoán
đúng, tôi cam đành chịu sự thất lễ đối với ông. Dù tôi hiểu ông, nhưng làm sao
tôi có thể hiểu tường tận những gì tách bạch định hình trong tư tưởng của ông.
Ông đã nghĩ gì, ông đã biết những gì –hẳn nhiên là phải rộng lớn và khúc chiết–
ông muốn viết những gì, làm cách nào tôi có thể biết được.
Vả lại, những thứ ấy là những
điều mà ông phải phấn đấu thật cam go với bệnh tật, với chính mình bao nhiêu năm
trời, chịu đựng vô vàn đau đớn tủi nhục từ thể xác đến tâm não mới có được. Nó
là của riêng ông. Làm sao tôi có thể cảm nhận được hết, khi mức độ thương đau
của tôi có hạn; làm sao tôi có thể viết những điều ấy thành
lời.
Sở năng của ông là viết sử. Ngay ở
công việc này, nếu tôi có hiểu biết một đôi điều, thì với khả năng của tôi, tôi
cũng không thể thay ông mà viết nổi hết cái cao xa rộng lớn của ông, cái sâu sắc
phong phú của ông, cái chiết trung tinh túy của ông, cái kinh nghiệm dồi dào của
ông về những gì phức tạp nhất, nhiêu khê nhất, khuất lấp nhất của lịch sử ở thời
đại nhiễu nhương này. Nếu tôi cần thời gian để có được những ưu điểm trên đây
như ông, thì sẽ bao lâu. Có lẽ suốt đời đến khi nhắm mắt, tôi cũng không có
được. Hôm trước tôi gọi ông bằng “Thầy” để tránh tiếng gọi cấp bậc đã trở thành
“không thích hợp” nữa. Hôm nay, tôi cũng gọi ông bằng chữ đó, cùng nghĩa. Xét
cho cùng, tôi chưa đáng là học trò của ông trên nhiều phương diện. Tôi đành cam
chịu sự bất lực rồi. Cái hy vọng giữ được cuộc sống của ông thật mong manh, cái
hy vọng giữ sự hiểu biết trong trí não ông cũng không thể có… Rồi cát bụi sẽ trở
về với cát bụi mà thôi…Bỗng nhiên tôi nghe mấy giọt nước mắt lăn trên má
tôi.
Ông nhìn tôi lặng lẽ thở dài rồi quay
đi…
Tôi trở về phòng giam của mình với tâm
trạng buồn bã, mệt mỏi. Tôi muốn làm vui lòng cố nhân, muốn làm tròn bổn phận
với một cấp chỉ huy tôi quí trọng, nhất là khi ông đang ở trong hoàn cảnh khốn
cùng, nhưng tôi biết tôi kém tài, thiếu khả năng để khả dĩ hoàn thành sự ký ủy
của ông.
Sau buổi chiều đó, lại một đêm và
nhiều đêm khác nữa tôi mất ngủ. Dù ông muốn hay không, tôi cũng thương cảm cho
ông, xót xa cho ông. Niềm trắc ẩn của tôi không ngoài việc tôi biết ông cảm thấy
sức khoẻ của ông đã cạn, ông biết ông sẽ không thể — bằng cách nào đó, phổ cập
được những gì đó thật hữu ích đã kết tinh trong não tủy của ông qua những tháng
ngày đau khổ. Niềm hy vọng cuối cùng là ký thác những điều đó cho một ai đó có
khả năng, cũng đã bị giập tắt. Sự cô đơn của ông bây giờ đã hoàn toàn. Tất cả đã
quay lưng lại với ông. Bên ông có lẽ chỉ còn Thượng Đế là vị an ủi, là vị cứu
tinh cuối cùng mà thôi. Con người đã không còn trong tầm mắt và niềm hy vọng của
ông nữa, mãi mãi…
Sau đó không lâu, một buổi tối, bọn
cán bộ trại tổ chức buổi chiếu bóng ngoài trời cho tất cả tù nhân xem ở cái sân
rộng lớn giữa trại. Đêm ấy, trời đầy trăng sáng trong sương đêm loang loáng của
mùa Đông. Hơn một nghìn tù nhân được xếp hàng ngồi theo đội của mình trong sân.
Tuy nhiên, mọi người khi cần thiết cũng có thể tách ra đứng lên đi tiểu ở một
vài nơi mà cán bộ trại giam cộng sản đã chỉ định trước. Một nơi như vậy nằm
bên trong bờ tường của phạn xá. Đây là cơ hội may mắn cho tôi. Khi phim chiếu
được chừng một giờ –phim gì đó, tôi không còn nhớ– tôi đứng lên đi về phía ở bờ
tường vào phạn xá, đến chỗ đi tiểu. Nhìn không có ai, tôi bước thêm mấy bước
nữa, dừng lại. Chỗ tôi đứng chỉ còn cách căn phòng nơi ông ở không đầy mươi
bước. Tôi không có ý định gặp ông, chỉ muốn nhìn thấy ông mà thôi, và tôi đã
nhìn thấy. Ông đứng bên trong cửa sổ, ở đó có ánh đèn le lói hắt ra, đang nhìn
lên khung trời đầy ánh trăng bàng bạc trong sương. Giờ đó cũng gần khuya, ông
vẫn thức, đứng nhìn trăng, nhìn trời. Tôi đã hiểu rõ hơn tâm sự của ông. Tôi
đứng nhìn ông một lúc khá lâu, rồi sợ bị bọn cán bộ bắt gặp, tôi quay trở ra về
chỗ ngồi của các bạn cùng đội và không xem gì được nữa ở những thước phim tuyên
truyền còn lại. Tôi lơ đãng ngắm nhìn những vì sao xa xa, ngắm vần trăng nhàn
nhạt trên nền trời nhiều sương lành lạnh, diệu vợi, buồn man
man.
Đêm trăng là khung trời của Hàn Mặc
Tử, vầng trăng và ánh trăng là thơ của Hàn Mặc Tử, không phải của ông. Ông không
là một thi nhân, ông là một nhà viết sử.
Trăng đã thức trong máu để Hàn Mặc Tử
làm thơ và ngâm thơ. Trăng đã thức trong máu của ông, chỉ để ông thấy nỗi cô đơn
của ông thấm đậm hơn mà thôi. Hàn Mặc Tử, ở những ngày cuối cùng của cuộc đời,
còn nói lên được, còn viết lên được những điều muốn nói, những điều muốn viết,
trong sự yêu chìu an ủi của một người đẹp yêu ông. Ông ta thật có diễm phúc so
với nhà viết sử Phạm Văn Sơn. Vị sử gia của tôi trong những giờ phút cuối cùng
này còn có ai đâu. Ông bị cách ly thân thể, bị chối bỏ tình cảm, tuyệt nguồn tâm
sự đến trơ trọi cả linh hồn. Ngày xưa, vua Hezekiah của Do Thái –trong Thánh
Kinh– hơn mười mấy năm bị phong hủi cũng không cô đơn bằng ông, vì ông vua này
vẫn sống trong hoàng cung lộng lẫy với hằng trăm cung tần mỹ nữ hầu hạ. Có lẽ
chỉ một người chịu sự cô đơn như ông là một vị bác sĩ nào đó — một nhân vật có
thật — trong tác phẩm “Kẻ Độc Hành” (Man Who Walks Alone) của một nhà văn Mỹ,
tôi đã quên tên, đã hy sinh suốt quãng đời đẹp đẽ nhất của mình, tình nguyện đến
một phương trời xa, phục vụ một trại hủi để chữa trị bệnh nhân bằng sự hiểu biết
và lòng tận tâm của mình, cho đến một ngày chính ông ta bị truyền nhiễm chứng
bệnh nan y này. Khi trở lại quê hương, ông lại bị hất hủi, bị bỏ quên, cô đơn
như một kẻ độc hành trong cõi đời tưởng chừng như hoang vắng. Dù sao vị bác sĩ
đó cũng đã làm tròn thiên chức của mình, đã hưởng được sự tự do để suy gẫm về
cái triết lý của cuộc sống và đã không uổng công viết lại được hồi ký về cuộc
đời nghiệt ngã của mình. Còn ông, nhà viết sử của chúng ta, ông đã cô đơn bốn bề
ở kiếp con người. Loài người dưới đất quên lửng ông, trăng sao trên trời xa lạ
với ông.
Ông là kẻ cô đơn nhất trong loài
người…ở những giờ phút sau cùng của đời người.
Đêm trăng này hay bao nhiêu đêm trăng
nữa sẽ cho ông nhìn thấy gì, hay ông chỉ nhìn thấy sự hoang mạc đến tận cùng của
cuộc đời ông trong những ngày còn lại. Hay hơn thế nữa, ông sẽ nhìn thấy nỗi
tuyệt vọng vừa nhen nhúm trong tâm sự ông, về sự không thể làm tròn thiên chức
của mình, sẽ lớn dần lên, sẽ còn đày đọa ông không biết bao lâu nữa. Đêm không
ngủ dưới trăng kia có ích lợi gì cho ông không?
Thì ra tâm sự con người thật phức tạp
trước những sự kiện tưởng chừng như vô tình nhất, giản dị nhất. Lần đầu tiên sau
khi gặp lại ông, tôi tưởng ông đã yên tâm vì đã tìm cho mình được một con đường,
một chân lý, đến độ khi nhìn ông tôi cũng cảm thấy yên tâm. Hôm nay, bởi những
sự kiện mới mẻ tưởng như vô tình, tôi mới biết ông vẫn còn ưu tư khoắc khoải,
nên lòng dạ tôi xốn xang vô cùng. Tôi đã ngu muội và thật thà ở buổi chiều hôm
trước, vì vô ý thức, tôi đã đẩy tình trạng cô đơn của ông đến cao độ nhất, bởi
sự phản ứng tự nhiên, chân tình bằng mấy giọt nước mắt dại khờ, non nớt, rơi
không đúng chỗ, đúng lúc… Một giọt nước đã làm tràn miệng
bát.
Đáng lẽ tôi phải tế nhị giữ nó lại,
tìm cách an ủi ông. Biết đâu niềm hy vọng vẫn còn là ngọn lửa, tuy nhỏ nhoi,
cũng sưởi ấm lòng ông để ông cảm thấy mình vẫn còn người tri kỷ, không cô đơn,
còn có ý nghĩa với mọi người. Biết đâu như vậy sẽ làm cho ông yên tâm hơn. Dù
cái chết có đến với ông, bằng cách nào đi nữa, ông cũng cảm thấy ấm cúng trong
tâm hồn. Niềm trắc ẩn xốn xang này đã trở thành sự hối hận triền miên trong tôi
suốt nhiều năm qua, chưa có dịp bộc lộ cùng ai. Tôi thật khổ
tâm.
Lúc đó, tôi thầm cầu nguyện Thượng Đế
xui khiến cho những người cộng sản Việt Nam thấy rõ chứng bệnh vô cùng hiểm
nghèo, nguy ngập của ông mà tha cho ông ra, cho ông được trở về với gia đình. Đó
là con đường duy nhất cứu được ông, cứu được cái hoài bão mà ông từng ôm ấp bao
nhiêu năm qua. Tôi đã thất vọng, ý trời không phải là ý người. cộng sản Việt
Nam chỉ hủy diệt những nhân tài đối lập, không bao giờ nhẹ tay với một
ai…
Rồi việc gì phải đến, đã
đến.
Một ngày, chưa hết mùa đông, đầu năm
1980 (tôi không nhớ chính xác ngày tháng), buổi sáng sớm lất phất một cơn mưa
phùn nhỏ, trời lạnh và đục, người ta đã đánh kẻng tập hợp tù nhân các đội ra
ngoài sân để tuần tự cho xuất trại đi lao động như thường lệ. Bấy giờ tôi ở
trong đội cưa xẻ gỗ súc của Trại K2/Tân Lập. Đội chúng tôi ra hiện trường làm
việc — à hai dãy nhà lợp tranh, chỉ cách cổng trại vài mươi bước– trong vòng mấy
phút. Mỗi cặp cưa gồm 2 người, tự động vào giàn cưa của mình và xẻ những thân gỗ
lớn thành những tấm ván dày hoặc mỏng dùng để đóng bàn ghế, vách nhà, sàn nằm
trong trại, hay đóng hòm chôn tù nhân, chết bởi nhiều cách, đa số là chết vì
bệnh và kiệt sức. Chừng chín giờ rưỡi hay mười giờ hôm đó, tôi đến nhận phần sắn
phụ trội (đội cưa xẻ thuộc loại lao động nặng, có thêm một phần ăn phụ trội ở
giờ giải lao, nhưng bất thường) vừa định quay về giàn cưa mình thì anh bạn hôm
trước đi lãnh cơm với tôi, hôm nay vừa đi lãnh sắn ở nhà bếp, nói nhỏ vào tai
tôi:
- Tin buồn!
Tin buồn có nghĩa là trong anh em của
chúng tôi có thêm một người vĩnh viễn nằm xuống, cũng có nghĩa là đội của chúng
tôi phải xẻ thêm những tấm ván để đóng chiếc hòm tạm bợ bọc xác bạn bè, một điều
không ai muốn, nhưng ai cũng tình nguyện làm để biểu lộ lòng thương xót với
người đã ra đi. Biết đâu rồi ngày nào cũng đến lượt mình. Tâm lý trái ngược đa
đoan là thế đó.
Tôi nghe anh nói xong, định hỏi xem là
ai, nhưng anh đã bảo tôi:
- Đi đi..!
Trở về chỗ, vừa ngồi xuống đã thấy anh
theo đến, ngồi sát bên, nói vừa đủ cho tôi nghe:
- Đại tá Sơn, “boss” cũ của anh, chết
rồi!
Tôi sững sờ, tưởng chừng như ai tạt
một gáo nước lạnh vào mặt, hỏi lại anh:
- Anh nói… ai chết rồi, tại sao, hồi
nào?
Anh buồn bã thuật lại câu chuyện anh
vừa nghe ở nhà bếp:
- Sáng nay, sau khi các đội đã xuất
trại hết, ‘tụi nó’ ra lệnh cho ông đem giỏ ra sân mang than đá vào bếp trại như
những ngày trước. Không biết ông bưng vác đến giỏ thứ mấy thì kiệt sức, hộc máu
tươi, ngất xỉu bất tỉnh. Khi chúng hay được cho mang ông lên bệnh xá thì chỉ mấy
phút sau ông mất; cả người nhầy nhụa máu me, hình như bao nhiêu máu mủ trong các
phần thân thể lở lói tuôn tràn ra hết…
Anh nói tiếp:
- Giờ này có lẽ họ đã đem ông xuống
nhà xác rồi!
Anh lặng lẽ bỏ đi, không nói thêm gì
nữa. Tôi như một kẻ mất hồn. Tôi đã
hiểu…
Tác giả Văn Nguyên
Dưỡng
Từ lâu nay, thỉnh thoảng chúng tôi
thấy một chiếc xe tải chở vào trại loại than đá vụn vo thành viên tròn to như
những trái “poids” lớn, dùng làm chất đốt ở bếp. Mỗi lần như vậy, họ đổ than đá
ở phần sân ngoài bức tường, trước cửa vào nhà bếp. Bọn cán bộ ra lệnh cho ông
hằng ngày dần dà chuyển hết những đống than đá đó vào bếp, trừ trường hợp trời
mưa, phải chuyển gấp, chúng cho người phụ. Như vậy, một người bệnh trầm kha như
ông vẫn bị chúng vắt sức lao động đến giọt máu cuối cùng. Hôm nay ông đã ngã
xuống như trăm ngàn nạn nhân khác dưới chủ trương giết người siêu dã man này
trong các trại giam cộng sản Việt Nam.
Sau buổi giải lao, tất cả anh em trong
đội cưa xẻ đều biết về cái chết thảm thương của ông. Ông đã mất rồi, đã về cõi
thiên đường, đã mang theo sự chịu đựng và sự hiểu biết của ông vốn dĩ không hề
tưởng là đã có trong con người mang nhục thể. Cái gì của Thượng Đế trả về cho
Thượng Đế.
Người ta ra lệnh xẻ gỗ đóng quan tài
cho ông. Tôi nhận việc ấy với những giọt nước mắt chảy dài trên má. Chỉ còn một
chút đáp đền này thôi, cố nhân ơi…
Nguồn: Tủ sách Tiếng Quê Hương
DCVOnline
(*) “Văn Nguyên Dưỡng ca tụng người chỉ huy cũ của mình là đúng. Chính trong cách nhìn như thế, Văn Nguyên Dưỡng cho rằng sau chuyến đi An Lộc, đại tá Sơn lại tiếp tục đi ra Quảng Trị để quan sát, ghi nhận và thu thập tài liệu của mặt trận vùng giới tuyến. Nhưng điều này hoàn toàn sai lầm vì đi ra mặt trận Quảng Trị, chỉ có trung tá Lê Văn Dương và tôi.” (Trích, Huỳnh Hữu Ủy, Vài điều tản mạn nhân đọc bài viết “Cái chết của sử gia Phạm Văn Sơn”, Diễn đàn Thế kỷ. Chủ Nhật, ngày 22 tháng 4 năm 2012).
(*) “Văn Nguyên Dưỡng ca tụng người chỉ huy cũ của mình là đúng. Chính trong cách nhìn như thế, Văn Nguyên Dưỡng cho rằng sau chuyến đi An Lộc, đại tá Sơn lại tiếp tục đi ra Quảng Trị để quan sát, ghi nhận và thu thập tài liệu của mặt trận vùng giới tuyến. Nhưng điều này hoàn toàn sai lầm vì đi ra mặt trận Quảng Trị, chỉ có trung tá Lê Văn Dương và tôi.” (Trích, Huỳnh Hữu Ủy, Vài điều tản mạn nhân đọc bài viết “Cái chết của sử gia Phạm Văn Sơn”, Diễn đàn Thế kỷ. Chủ Nhật, ngày 22 tháng 4 năm 2012).
(**) Tổng thống Dương Văn Minh, hợp hiến hay
không hợp hiến?
Điều 39 Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967) ghi rõ Quốc hội không
có thẩm quyền bầu một tổng thống.
Điều 56 của Hiến pháp 1967:
Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng
Thống có thể chấm dứt trước hạn kỳ trong những trường hợp:
a)
Mệnh chung.
b)
Từ chức.
c)
Bị truất quyền.
d)
Bị bệnh tật trầm trọng và kéo dài không còn năng lực để làm tròn nhiệm
vụ. Sự mất năng lực này phải được Quốc Hội xác nhận với đa số ba phần tư (3/4)
tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ sau các cuộc giám định và phản giám định y
khoa.
Tất cả những trường hợp a, b, c và d đều
không áp dụng được với Tổng thống Trần Văn Hương. Truất phế Tổng thống là thẩm
quyền của Tòa án đặc biệt được quyết định bởi các Điều 85 và 87. Như vậy, hành
động của Quốc hội cử Tướng Dương Văn Minh thay thế Tổng Thống Trần Văn Hương vào
ngày 26 tháng tư năm 1975 có thể được coi là không hợp
hiến.
[Tài
liệu tham khảo: Text of the New Constitution, Vietnam Perspectives. Vol. 3,
No. 1 (Aug., 1967), pp 24-40. Một phiên bản tiếng Việt của “Hiến Pháp Việt Nam
Cộng hòa 1967” có thể xem được ở đây: http://snipurl.com/24o4sn5]
~~~~~~~~~~~~~
No comments:
Post a Comment