Bác sĩ Phùng Văn Hạnh
Sau khi thỏa hiệp Paris ký kết, Mỹ xuống
thang chiến tranh. Dân sự bị thương cũng giảm. Các bác sĩ AMA giảm dần. Ban mê
Thuột rồi Pleiku mất. Cao nguyên di tản. Quảng trị, Thừa thiên mất. Những ngày
cuối tháng ba, 1975, Đà- nẵng đầy người chạy giặc. Cộng sản có biết tại sao mà
lắm người sợ họ thế? Ông bác tôi đã từng nếm mùi trại giam cộng sản, đã đứng
tim chết khi nghe cộng sản trở lại. Cha tôi cũng thế. Lính khắp nơi ùn về đầy
đường. Tôi gặp một tiểu đội Địa phương quân. Họ vẫn còn kỷ luật lắm. Anh tiểu
đội trưởng đi đầu, súng mang trên vai. Các đội viên đi hàng một, mũi súng chúc
xuống đất. Chắc họ từ một đồn nhỏ ở ngoại ô vào thành phố. Mắt họ buồn và sợ
sệt. Họ đi mất hút ở cuối đường. Có súng nổ lẻ tẻ. Xe tăng, súng ca-nông bỏ lại
trên đường phố. Dân sự di tản từ Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngãi, ngủ
trên lề đường. Một thiếu phụ gia tài chỉ là đôi thúng gánh trên vai. Trong mỗi
thúng là một em bé 2 đến 4 tuổi. Rất nhiều gia đình đã đi bộ vượt đèo Hải vân
20 km đường dốc núi. Bên Sơn Chà xe nhà binh nghẹt đường. Ngoài bờ biển, bến
cảng mọi người ùn ra tìm ghe để có thể ra tàu lớn đậu ngoài khơi. Gia đình tôi
lên phi trường. Lúc gần đến, gặp cả đoàn xe cộ của một ông tướng sư đoàn cũng
chạy giặc, phải tránh ra bên đường, nhường cho họ qua. Ngay cổng phi trường, xe
dân sự sắp hàng dài hai bên đường. Chỉ đi bộ vào cổng. Một ký giả ngoại quốc
chận tôi lại phỏng vấn. Tôi đã nói gì, bây giờ chẳng nhớ. Song một người bạn ở
Thụy sĩ lúc đó có thấy tôi xuất hiện trên truyền hình. Máy bay hàng không dân
sự đã ngừng bay. Một nhóm người thiện chí đứng ra liên lạc với Saigon. Họ tổ
chức ra máy bay trong trật tự. Có hai chuyến cất cánh suông sẻ. Song Việt cộng
bắt đầu pháo kích vào phi trường. Mọi người tìm chỗ núp, rồi ùn ùn rời phi
trường vì Saigon cho biết là máy bay không ra nữa. Chúng tôi đi bộ về nhà. Nửa
đường gặp xe của một nha sĩ bạn. Anh ta chở gia đình tôi về đến nhà. Súng lính
vất lại, nghẹt cả đường cống sâu trước nhà. Vào nhà, vợ tôi chia cho mỗi đứa
con một xách áo quần và một ít tiền. Tất cả quì xuống trước bàn thờ Chúa. Nhà
tôi dặn: “đang loạn lạc như thế nầy, chúng ta có thể bị ly tán. Nếu may ra các
con đi chung với nhau, nhớ đứa lớn che chở đứa bé. Anh em nhớ yêu thương nhau”.
Thấy cảnh đau lòng, tôi rời nhà lên bệnh viện, định phi tang những bài viết
chống cộng mà tôi bỏ lại ở văn phòng, trong ấy có một bài đả kích Hồ chí Minh.
Vào hành lang, thấy người ta nằm la liệt. Kẻ thủng bụng, ruột lòng thòng. Người
bể đầu, gảy tay chân, băng quấn sơ sài, đẫm máu. Một bạn giáo sư trung học, ôm
chầm lấy năn nỉ:
“vợ tôi bị bắn thủng ruột đã 6 giờ rồi,
chưa được ai chăm sóc”. Lúc ấy nhà thương không còn một bác sĩ nào cả. Tôi ghé
văn phòng làm việc trống trơn, huỷ diệt bức thư điều trần, đưa kế sách cứu miền
Nam, và những bài báo chống Cộng do tôi viết. Tôi xé nhỏ, bỏ vào nhà cầu và dội
nước. Xong tôi vào khu giải phẫu. May sao nhân viên còn tại chỗ một nửa. Tôi
cho mang vợ người bạn vào mổ. Sau đó các ca khác lại tuần tự mang vào. Chiều
hôm đó BS Phạm văn Lương vào phòng mổ thăm tôi. Tôi hỏi sao không lo trên BV
Duy Tân mà xuống đây. Ông y tá trưởng nói nhỏ vào tai tôi là BS Lương nay làm
thị trưởng, đi thị sát BV toàn khoa đó. Sau nầy tôi mới biết là BS Lương được
tỉnh hội Phật Giáo đưa lên làm thị trưởng Đà-Nẵng trong những ngày cuối tháng
ba, 1975(đài BBC có loan tin).
Một mình mổ đến chiều hôm sau thì ông y tá
trưởng gỏ cửa phòng mổ và nói: “có ông sĩ quan cách mạng nói bác sĩ hãy ngừng
mổ cho dân sự, và mổ cho các chiến sĩ cách mạng bị thương”. Hởi ôi, thế là cộng
sản đã vào thành phố! Tôi nói với ông y tá trưởng là cứ ca nào nặng thì đem vào
trước, không phân biệt dân sự, cách mạng. Đó là va chạm đầu tiên mà sau nầy tôi
bị kiểm điểm là có lập trường nhân đạo chung chung, không có quan điểm cách
mạng. Chừng 10 ngày sau, thì các bác sĩ cách mạng ở trên núi xuống tiếp thu
bệnh viện. Lúc đó các ca cấp cứu đã giải quyết xong. Cả khu giải phẩu nhận giấy
khen của Ủy ban quân quản Đà-nẵng là đã có công trong sự ổn định y tế thành
phố.
Các bác sĩ bị kẹt lại dần dà đến nhận việc
và được gọi là lưu dung. Xưa kia đi làm hơi tùy tiện vì đôi khi phòng mạch tư
nhiều khách. Nay ai đến cũng đúng giờ. Bắt đầu là giao ban, toàn thể bác sĩ họp
lại với bác sĩ giám đốc để trình bày phiên trực ngày hôm trước, nghe chỉ thị
mới và phê bình những thiếu sót nếu có. Cách làm việc nặng phần trình diễn, phí
phạm thì giờ. Sau giao ban, đi khám bệnh phòng rồi đi mổ những ca lên chương
trình từ cuối tuần trước. Có điều đặc biệt là bác sĩ cách mạng chuồn đâu mất
lúc 10 giờ sáng. Tìm không ra. Sau nầy hỏi ra mới biết đó là thói quen đã có tự
ngoài Bắc. Vì sáng không ăn, hoặc ăn ít nên 10 giờ đói, phải tìm chỗ kín nằm
nghĩ. Có một bác sĩ thuốc mê đã được đào luyện ở Tiệp khắc, được nhân viên
phòng mổ cho ăn xoài. Anh ta trầm trồ khen ngon hết lời vì chưa bao giờ nếm thứ
trái cây ngon như thế. Một anh khác kể là ngày Tết được chia bồi dưỡng một gói
tiêu nhỏ. Về nhà rủi làm đổ. Phải thắp đèn lên kiếm từng hạt. Họ nói ở ngoài
Bắc nghe tuyên truyền là trong Nam cực khổ lắm. Bây giờ mới tỉnh ngộ. Vào
Saigon chơi về, họ khoe là như ra ngoại quốc. Nói là phồn vinh giả tạo, song
toàn là đồ thiệt đẹp và tốt.
Những ngày đầu tháng tư, 1975, các bác sĩ
VC trên núi về, tiếp thu TTYTTK Đà-Nẵng và Bệnh viện Đức. Họ chỉ lo về hành
chánh, chứ chuyên môn thì đợi các bác sĩ Hà-Nội vào. Về giải phẫu thì họ chỉ
đứng xem Vài người tỏ ra hiếu học, vào phụ mỗ với các bác sĩ lưu dung. Tôi nhớ
có Bác sĩ cấp bực Đại úy, vào phụ tôi để tái tạo một ống chân vỡ nát vì mìn.
(Hắn ta là bác sĩ riêng cho thầy cũ Tám Trinh, nay đổi tên Nguyễn xuân Hữu, Phó
bí thư đảng bộ Liên khu V. Phải mất ba giờ và nhiều cố gắng mới giữ được cái
chân. Cuối ca mỗ, đáng lý nói: ca nầy khó ác liệt, tôi tự nhiên buông câu nói
theo thói quen: ca nầy khó ác ôn côn đồ Việt Cộng. Anh ta nhìn tôi không nói
gì. Các y tá quanh tôi đều sững sốt. Không biết anh ta có báo cáo gì không.
Song sau nầy không thấy ai nhắc đến chuyện đó.
Trong suốt hơn một năm làm việc với CS,
tháng ngày cũng qua nhanh, vì rất bận rộn. Những ngày đầu, mổ liên miên để giải
quyết xong nhiều ca cấp cứu, Những tháng kế tiếp là mổ cho dân quê trở về làng
khai khẩn nhưng đồng ruộng bỏ hoang trong chiến tranh, vướn phải mìn hay đạn
ca- nông chôn dưới đất. Giải phẩu tái tạo tiếp theo cho những tật nguyền do vết
thương chiến tranh gây ra. Ngoài ra nào giao ban, nào học chính trị mỗ tuần vài
lần. Làm việc trong không khí u uất, vì nghe lắm lời phi lý, ngu xuẩn của bọn
cán bộ, lắm chế độ hà khắc, kiểm soát tư tưởng, việc làm, những tranh cải lý
thuyết v.v..
Bất hạnh thường không đến một mình. Đã
buồn bực vì phải kẹt ở lại với CS, lại càng buồn thêm vì sự ra đi của người cha
thân yêu. Ngày tôi chở vợ con lên phi trương để di tản, tôi đã năn nỉ cha mẹ
tôi cùng đi, nhưng cha tôi một mực từ chối vì ông đã bị bại hai chân từ ba năm
nay, hậu chứng xuất huyết não, và phải di chuyển trên xe lăn. Ông không muốn là
gánh nặng cho tôi. Mẹ tôi thì chỉ chịu đi khi cha tôi cùng đi, vì bà phải săn
sóc cha tôi tật nguyền. Khi chúng tôi không di tản được, từ phi trường trở về,
hai ông bà đã khóc sướt, và lo cho tương lai chúng tôi. Hai ngày sau cha tôi
chết êm thắm. Ông đã bị đứng tim trong giấc ngủ. Buổi sáng mẹ tôi mang sửa lại
cho ông uống, thì thấy ông nằm bất động, tay chân lạnh ngắt. Cũng như bác tôi,
cha tôi vì sợ quá, tim già đã ngưng đập khi nghĩ đến những hình phạt khủng
khiếp trong tù CS. Mặc dù mới trải qua một cuộc đổi đời chưa hết bàng hoàng,
tôi vẫn tổ chức ma tang thật chu đáo, với rất nhiều bà con thân thuộc theo linh
cửu ra nghĩa địa. Tôi phải mướn nhiều xe ca, trong khó khăn hiện tại. Cha ơi,
xin yên nghỉ bằng an trong nước Chúa.
Lúc say sưa làm việc những năm chiến
tranh, theo lời khuyên của một bác sĩ Mỹ, tôi gom góp hồ sơ các ca chữa thương
vơí đầy đủ phim, ảnh, ghi chú theo dõi. Ông cho tôi một máy ảnh, và tôi thuê
một thợ chụp ảnh phụ tá cho tôi chụp hình bệnh nhân trước và sau khi mổ, diễn
tiến bệnh khi nằm tại nhà thương và tái khám. Hồ sơ được lưu trử trong một căn
phòng lớn của bệnh viện. Tôi định khi nào rảnh rổi sẽ viết bài, dựa trên nhận
xét lâm sàng để rút ra những kết luận hữu ích. Hai tháng sau khi cộng sản vào,
thấy rảnh, tôi xuống phòng lưu trữ hồ sơ thì thấy các hộc trống trơn. Hỏi ra
mới biết là tổ nhà bếp trên núi xuống nấu cơm cho bệnh nhân, vì thiếu củi đun,
nên lấy hồ sơ nhóm lửa. Bao nhiêu tâm huyết đổ sông. Xưa kia nhà thầu cung cấp
cơm nước cho bệnh nhân. Họ đâu có nấu nướng trong bệnh viện.
Tôi có nhiều giấc mơ đơn giản. Song đều
thất bại. Lúc còn hoạt động trong đoàn Sinh viên công giáo, có đọc thuyết “Kinh
tế và nhân bản” ( économie et humanisme) của cha Lebret, có dự định cùng các
bạn đồng chí hướng lập những đoàn thiện chí gồm nhiều chuyên viên về thôn quê
chia xẻ đời sống của nông dân. Bác sĩ lo chữa bệnh, truyền bá vệ sinh. Kỷ sư
nông nghiệp, cơ khí, chăn nuôi, tìm cách nâng cao sản xuất. Tổ chức hợp tác xã,
tiếp xúc với công ty ngoại quốc, tìm thị trường, vốn đầu tư..mong cho dân giàu,
nước mạnh. Song khi ra trường, thì chiến tranh tràn lan, thôn quê không còn an
ninh. Cuối năm 1974, thấy tình hình miền Nam sắp có nguy cơ rơi vào tay Việt
cộng, mà trí thức thì chơi mạt chược và trùm chăn quá nhiều, định đi khắp các
tỉnh, diễn thuyết, kết hợp những người thiện chí, cố nổ lực tối đa để trong
sạch hoá bộ máy chính quyền, tất cả mọi người có thể cầm súng được phải chia
phiên nhau ra trận. Không có nạn con ông cháu cha. Trí thức phải xuống xã ấp,
phá vòng vây nông thôn bao vây thành thị. Chính phủ tuyên bố tình trạng quốc
gia lâm nguy, đóng cửa Trung học và Đại học. Đưa người qua Mỹ diễn thuyết hầu
giành hậu thuẩn dân Mỹ. Nếu cần cầu viện Tây âu. Sắp xếp các ý tưởng, trình bày
trong một bức thư điều trần gửi quốc hội và tổng thống với đề tài “Tổ Quốc lâm
nguy, đề nghị biện pháp giải cứu”. Giáng sinh 1974, tôi vào Sài-gòn, đưa thư
điều trần cho bạn bè xem, song không ai hưởng ứng, vì họ đoan chắc với tôi là
Mỹ sẽ không bỏ miền Nam. Sau đó tình hình Miền Nam suy sụp quá nhanh. Tuy thế
lúc Việt cộng vào, đã có người muốn lập công, đưa cho chúng tài liệu, nên bị
hạch hỏi. Phải làm kiểm điểm vài lần, nhận có nêu lên vấn đề, song chưa phổ
biến sâu rộng. Cuối cùng muốn viết vài bài về chuyên môn mình cũng không được,
vì tài liệu đã bị đốt cháy ra tro.
Khi sang Canada, đi Mỹ chơi gặp một đồng
nghiệp cũ ở Bệnh viện Đà-nẵng, nay hành nghề ở Westminster, Cali. Anh ta nói
với tôi: “người chống cộng có hệ thống như anh, thì lại kẹt ở lại. Còn lè phè
như chúng tôi, thì lại thoát. Oái ăm thiệt!”
Kể ra cũng tại số mình long đong, chạy
trời không khỏi nắng. Tôi đã bỏ lở nhiều dịp may: năm 1973, cộng đồng người Hoa
ở Đà-Nẵng muốn có một nhà thương riêng cho họ, nên dạm hỏi tôi có muốn bán
đưỡng đường của tôi với giá 20 triệu. Vì đang làm ăn phát đạt tôi từ chối. Nếu
tôi chịu bán, tôi sẽ trích ra độ một triệu, mua thông hành cho cả gia đình, lấy
cớ đi Mỹ học rồi ở lại luôn. Một bác sĩ bạn tôi đã ra đi như thế.
Cuối 1974, nhân có người cháu, Đại uý lái
phi cơ trưc thăng, đóng ở Cần thơ, chuyển về không đoàn I. Anh ta nhờ tôi xin
về xưởng sữa chữa trực thăng, vì thấy đi bay, có nhiều hiểm nguy. Nhờ quen biết
tôi đã thoả mãn cho anh ta. Nhận thấy miền Nam sắp mất, tôi bảo anh ta sữa chữa
thật tốt một trực thăng, đổ đầy nhiên liệu, sẵn sàng chở gia đình anh ta với
gia đình tôi đi Sài gòn hoặc Thái Lan, khi Đà- Nẵng có nguy cơ mất. Hôm
27-03-75, vì quen biết với gia đình Giám đốc Hàng không Việt Nam Đà-Nẵng, chúng
tôi được họ mời chia xẻ một chuyến bay chót đặc biệt dành riêng cho gia đình
họ. Trong khi chờ đợi máy bay từ Sài-gòn ra, tôi đến thăm người cháu gần đó, để
xin ít nước uống cho các con tôi, vì đêm qua ra đi vội vã quên mang nước theo.
Vào nhà tôi thấy gia đình nó chuẩn bị lên trực thăng mà tôi đã dặn để dành cho
việc tẩu thoát, nếu Đà-Nẵng mất. Nó nói: “con có điện thoại lại nhà dượng, kêu
dượng lên đi, nhưng không ai trả lời. Thế bây giờ dượng đi với chúng con?”. Tôi
từ chối vì cho rằng đi máy bay tiện lợi hơn là trực thăng. Tôi trở lại với gia
đình và ra ra sân bay, vì máy bay đã đáp xuống ở một chỗ hẹn trước. Nhưng
chuyến bay ấy bị quân nhân phi trường tước đoạt. Cảnh súng bắn đì đoàng, người
đạp lên người, chen lấn lên máy bay, làm cả hai gia đình chúng tôi đứng xa mà
ngó. Cuối cùng máy bay cất cánh có cả người đeo tòn teng vào bánh xe, rụng rơi
dần. Cùng lúc ấy, đạn pháo Việt cộng nổ gần đường băng chúng tôi hoảng hốt dắt
díu nhau chạy. Sau nầy gặp lại ở Mỹ, nó tiếc hùi hụi là hôm đó trực thăng nó
trực chỉ Sài-gòn mà không có gia đình ông dượng ân nhân, có sáng kiến hay.
Cơ hội chót là ngày 29-03-75 vẫn còn một
bác sĩ Mỹ, môn đồ Quaker, sang Đà-Nẵng làm từ lâu, với tư cách cá nhân, và anh
ta không chịu di tản, chỉ ưng ở lại làm việc truyền đạo, chia ngọt bùi với bệnh
nhân khu bài lao. Máy bay từ hạm đội Mỹ không ngại hiểm nguy đáp xuống trên nóc
bệnh viện Việt Đức. Hai lính Mỹ vào mời bác sĩ ấy ra đi, nhưng anh ta một mực
từ chôi. Khi thấy tôi đi ngang qua, anh ta kéo tôi vào và năn nỉ tôi đi theo
trực thăng ra tàu hạm đội Mỹ. Nhưng lúc ấy gia đình tôi không có mặt ở đó và
tôi không muốn ra đi một mình, nên cũng từ chối. Nếu ngày ấy tôi ra đi. Sang Mỹ
trở lại nghề và phát đạt, sẽ có phương tiện bảo lãnh cho gia đình qua sau, chậm
lắm là vài năm sau và thoát đi tù cải tạo 12 năm. Nhưng đó chỉ là nếu, thực tế
thì bi thảm vô kể.
Bác sĩ Phùng Văn Hạnh
No comments:
Post a Comment