Friday, May 10, 2024

(Tiếp theo Chương 2...) Ngày 16.10.1972 Những Ngày Cuối Của VNCH - Nguyên Tác: The Final Collapse Của Đại Tướng Cao Văn Viên. Dịch Giả: Nguyễn Kỳ Phong

 
(Tiếp theo Chương 2...)

Ngày 16 tháng 10, 1972, Kissinger trở lại Ba Lê gặp Xuân Thủy, trong khi Lê Đức Thọ trên đường về Hà Nội. Lần đi họp này Kissinger đem theo hai khuôn mặt mới, William Sullivan và George Alrich. (12) Gặp nhau, hai bên ngồi lại duyệt xét bản hiệp định từng câu, từng chữ. Có hai phần trong bản hiệp định gây ra vấn đề bàn cãi sôi nỗi giữa hai phía. Vấn đề thứ nhất là việc thay thế các quân dụng, chiến cụ bị hư hay mất. Về điểm này, cộng sản Bắc Việt chỉ muốn có một kiểm soát lấy lệ khi vũ khí và quân cụ được thay thế; trong khi Hoa Kỳ muốn thấy một sự kiểm soát chặt chẽ. Vấn đề thứ hai là phóng thich tù nhân chính trị: Bắc Việt muốn tù binh Hoa Kỳ và tù nhân cộng sản phải được phóng thích /trao trả cùng lúc. Cuộc hội đàm bị bế tắc thêm lần nữa khi Hoa Kỳ không chấp nhận đòi hỏi của phía bên kia. Lo sợ sẽ trễ với chương trình nằm trong thời khoá biểu đã định sẵn, Kissinger rời Ba Lê đi Saigon để gặp tổng thống Thiệu.
Tác giả nhớ rõ, Kisinger đến Saigon ngày 18 tháng 10, với ý định ở lại hai ngày hội họp. Sáng hôm sau, phái đoàn Hoa Kỳ gồm Kissinger, đại sứ Ellsworth Bunker, đại tướng Creighton W. Abrams và William Sullivan đến họp ở dinh Độc Lập. Phía bên VNCH gồm có tổng thống Thiệu, phó tổng thống Trần Văn Hương, thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Ngoại Trưởng Trần Văn Lắm, ông Nguyễn Phú Đức, Hoàng Đức Nhã, và tác giả.
Kissinger trao tổng thống Thiệu bản sơ thảo viết bằng Anh ngữ của hiệp định để bắt đầu buổi họp. Tiếp theo Kissinger nói đến những ưu điểm ông ta nghĩ có lợi cho VNCH. Kissinger nhấn mạnh, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục giữ các căn cứ không quân ở Thái Lan, và hạm đội ngoài khơi Việt Nam để ngăn chặn các cuộc xâm lăng của cộng sản. Viện trợ kinh tế và quân sự vẫn tiếp tục cho VNCH, trong khi qua những thương lượng bí mật viện trợ của Nga và Trung Cộng cho Bắc Việt sẽ giảm lần, để Hoa Kỳ có thể rút quân và đem được tù binh trở về trong danh dự. Ký hiệp định với cộng sản trong lúc này, theo Kissinger, có lợi cho VNCH. VNCH đang có trên một triệu quân và đang giữ 85 phần trăm của tổng số 19 triệu dân. Kissinger tin tưởng miền Nam sẽ phát triển và thịnh vượng trong thời hậu chiến. Tóm lại, Kissinger kết luận, bản hiệp định có lợi và chấp nhận được. Tuy nhiên Kissinger không nói đến chi tiết của những vấn đề vẫn còn đang bàn cãi. Quan trọng nhất là thời khóa biểu thực thi hiệp định. Tổng thống Thiệu trả lời cho Kissinger là ông sẽ nghiên cứu bản hiệp định. Nội dung bản hiêp định được trao cho Hoàng Đức Nhã, cố vấn đặc biệt của tổng thống Thiệu, nghiên cứu.
Một cuộc họp đặc biệt của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia được triệu tập để nghiên cứu và thảo luận về bản hiệp định. Ông Hoàng Đức Nhã là thuyết trình viên của buổi họp. Về phương diện quân sự đây là một cuộc ngưng bắn tại chỗ: trong khi quân đội Hoa Kỳ và đồng minh sẽ rút đi; các căn cứ quân sự bị tháo gỡ, nhưng bản hiệp định không nói gì đến việc giảm thiểu khả năng quân sự của Bắc Việt. (Theo ước lượng, Bắc Việt có 10 sư đoàn ở miền Nam. Thêm vào đó các đơn vị cộng sản địa phương có đến 60 phần trăm quân chính quy Bắc Việt).
Với tư cách Tổng Tham Mưu Trưởng, tôi phát biểu ý kiến trong buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Ý kiến của tôi là rất khó kiểm soát vấn đề ngưng bắn; ngưng bắn tại chỗ kiểu "da beo" có nhiều nguy hiểm. Lối ngưng bắn này không có nơi tụ quân riêng và không có giới tuyến phân biệt đôi bên. Trong tình trạng này, lực lượng địch được quyền đóng quân nơi họ đang có mặt, nhưng dĩ nhiên cộng sản sẽ không đứng yên một nơi. Với bản tính xâm lăng tự tại đã có từ lâu, họ sẽ phân tán ra từng đơn vị nhỏ, xâm nhập vào làng xã và cứ điểm đồn trú của quân ta, và họ sẽ đánh dấu sự hiện diện của họ bằng cách treo cờ cộng sản. Như vậy, Ủy Ban Kiểm Soát và Giám sát Quốc Tế không có ý nghĩa vì chúng ta đã có đủ chứng cớ để thấy đây là một tổ chức nằm dưới ảnh hưởng của cộng sản từ lâu. Trong chiến tranh bất quy ước, sự kiểm soát dân và đất rất khó khăn vì không có ranh giới rõ giữa ta và địch trường hợp ngưng bắn đang đề nghị lại càng khó khăn hơn gấp bội. Lối ngưng bắn kiểu như vậy được dân miền Nam diễu với nhau qua câu: "Trước đây chúng ta vào rừng săn thú dữ. Bây giờ chúng ta phải đem con thú dữ đó về ở chung nhà." Đó chỉ là một cách nói đùa, nhưng câu nói cho thấy tâm lý của người dân khi phải đối diện với cộng sản.
Việt Nam Cộng Hòa biết chắc chắn cộng sản sẽ không thi hành cuộc ngưng bắn tại chỗ. Kinh nghiệm về hành vi của cộng sản sau năm 1954 cho ta biết rõ cộng sản sẽ làm gì trong lần đình chiến này. Thêm vào đó, tài liệu chúng ta tịch thu được từ một chính ủy tỉnh Quảng Tín vào ngày 10 tháng 10, 1972, cho thấy cán bộ các cấp cộng sản đã được chỉ thị học tập văn kiện hiệp định để chuẩn bị hành động. (13) Tài liệu nói trên được tổng thống Thiệu trao cho Kissinger. Đưa cho Kissinger đọc tài liệu, ý tổng thống Thiệu muốn Kissinger thấy khi VNCH nhận được bản sơ thảo của hiệp định vào ngày 18, thì phía cộng sản đã phân phối tài liệu đó xuống đến tất cả cán bộ các cấp để học tập và chuẩn bị phản ứng. Cùng thời gian đó, tin tình báo của chúng ta ở Tây Ninh báo cáo cho thẩm quyền quân sự VNCH và Hoa Kỳ biết cộng sản đã có một khóa học tập đặc biệt về bản sơ thảo hiệp định tại bộ chỉ huy Trung Ương Cục Miền Nam.
Một vấn đề quân sự quan trọng nhất là sự hiện diện của quân đội cộng sản ở miền Nam. Cán cân quân sự hai bên ngang nhau vào tháng 9 năm 1972. Nhưng khi tất cả quân đội Hoa Kỳ rút đi rồi, nếu cộng sản vẫn còn quân ở miền Nam, thì cán cân quân sự chắc chắn sẽ nghiêng về phía địch.
Về phương diện chính trị, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia chú ý đến đề nghị thành lập một Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia. Lực lượng chính trị thứ ba này đưa đến nhiều tranh luận và nghi vấn. Nếu Hội Đồng này có thể tổ chức một cuộc bầu cử trong tương lai, thì nền tảng của Hội Đồng đó là gì" Nếu Hội Đồng được thành hình, thì chính quyền đang hiện hữu của VNCH sẽ ra sao, và sẽ hoạt động như thế nào" Đó là những điểm cần phải được giải thích và trên hết, phải được quyết định trên ý nghĩa của bản văn viết bằng tiếng Việt. Trong cuộc họp tiếp theo tổng thống Thiệu hỏi Kissinger về những vấn đề đó. Hai mươi bốn giờ sau, Kissinger trao cho VNCH bản hiệp định soạn thảo bằng tiếng Việt.
Khi phân tách hiệp định sơ thảo bản tiếng Việt, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia biết rằng đây là bản văn do cộng sản Bắc Việt soạn chớ không phải bản dịch ra từ bản văn Anh ngữ. Văn phong của bản hiệp định sơ thảo chứa đầy ngôn ngữ cộng sản kiểu Bắc Việt. Bản văn có nhiều từ ngữ đặc thù, với ý nghĩa gây nhiều tranh luận. Thí dụ, danh xưng của quân đội Hoa Kỳ dùng đúng, nhưng trong một ý nghĩa miệt thị: Quân Mỹ. Phía VNCH nhắc phái đoàn Hoa Kỳ nên yêu cầu sửa lại thành Quân Đội Hoa Kỳ cho nghe được lịch sự hơn. Mọi người dân có trình độ ở miền Nam đồng ý chữ Quân Mỹ không phải là sai trong ngôn từ, nhưng đó là một lối gọi bất lịch sự và miệt thị.
Một vấn đề quan trọng khác, liên hệ đến ý nghĩa của từ ngữ, khi nói về cơ cấu Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia. Định nghĩa của cơ cấu này, trong bản tiếng Anh viết là "administrative structure". Khi chuyển sang tiếng Việt, từ đó trở thành cơ cấu chính quyền. Đây là lối chuyển ngữ đầy ẩn ý và nguy hại về sau. Đối với Bắc Việt, một cơ cấu chính quyền như Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải có đầy đủ thẩm quyền như một chính phủ. Và với một tập hợp của ba lực lượng chính trị, cơ cấu đó không khác gì hơn là một chính phủ liên hiệp. Có phải đây là ý định thật sự của hiệp định không" Bản hiệp định bằng tiếng Việt đồng thời nói đến ba quốc gia Việt Nam: Bắc và Nam Việt Nam là hai quốc gia; quốc gia thứ ba ở đâu" Nếu miền Nam có hai quốc gia, vậy thì chủ quyền của VNCH phải chia với một lực lượng khác. Đó là những điểm trở ngại quan trọng trong bản sơ thảo hiệp định.
Sau khi duyệt xét kỹ càng, chính phủ VNCH đưa ra 26 điểm cần được thay đổi trong bản sơ thảo. (14) Trong khi cuộc hội thảo giữa VNCH và Hoa Kỳ đang diễn ra, tòa đại sứ VNCH ở Hoa Thịnh Đốn báo cáo về Saigon là, trong một cuộc phỏng vấn với báo chí ngoại quốc, thủ tướng Phạm Văn Đồng tuyên bố hòa đàm ở Ba Lê đang tiến triển với nhiều kết quả tốt đẹp, và chánh phủ lâm thời trong tương lai sẽ là một chánh phủ liên hiệp của ba thành phần. Báo cáo từ Hoa Thịnh Đốn tăng thêm sự hoài nghi về một sự lừa dối: ai đang lừa ai, và ai là kẻ bị lừa. Đây là một lý do nữa để tổng thống Thiệu chống lại hiệp định mạnh hơn khi VNCH và Hoa Kỳ thảo luận trở lại vào ngày 22 tháng 10. Đêm đó, tổng thống Thiệu viết cho tổng thống Nixon một bức thư, trao qua tay Kissinger. Lá thư đề cập đến những khiếm khuyết của bản hiệp định, và lý do tại sao VNCH không thể nào chấp nhận bản hiệp định đó.
Với những phỏng đoán về sự chấp nhận và ký kết bản sơ thảo hiệp định bị lỡ dở, Kissinger đánh điện tín cho Lê Đức Thọ, nói là lịch trình ký kết bản hiệp định quá cấp bách để Hoa Kỳ có thể ký hiệp định vào ngày 31 tháng 10 như đã định. Cùng lúc, Kissinger thông báo cho Bắc Việt biết Hoa Kỳ sẽ ngưng mọi oanh tạc từ vĩ tuyến thứ 20 trở ra vào ngày 25/10.
Về phần tổng thống Thiệu, ông lên đài truyền thanh và truyền hình thông báo cho toàn quốc biết VNCH không thể chấp nhận một chính phủ liên hiệp. Cùng lúc, Bắc Việt không đứng yên: Họ tung ra quả bom tuyên truyền. Bắc Việt đưa ra công chúng nội dung của bản hiệp định sơ thảo, lịch trình ký kết hiệp định, và lên án tổng thống Thiệu là người phá hoại hòa bình. Bắc Việt đòi hỏi Hoa Kỳ ký hiệp định vào ngày 31 tháng 10, 1972 như đã hứa theo lịch trình. Đối diện với những biến chuyển mới, Kissinger mở cuộc họp báo để giải thích nội dung của bản hiệp định. Kissinger tuyên bố "Hòa bình đang trong tầm tay," và chỉ cần họp mặt với Bắc Việt một lần nữa thì hòa đàm Ba Lê sẽ kết thúc.
Trong tháng 11, nhiều cuộc trao đổi qua lại giữa Hoa Thịnh Đốn và Saigon, nhưng nội dung của bản hiệp định vẫn không thay đổi. Trong tháng 11, qua chương trình quân viện có tên là ENHANCE PLUS, Hoa Kỳ viện trợ cho VNCH một số lượng quân cụ, chiến cụ quan trọng. Vận tải cơ C-5 Galaxy và vận tải hạm đem đến Việt Nam chiến đấu cơ A-37, F-5, xe tăng M-48, vận tải cơ C-130, trực thăng, và đại pháo 175 ly. (15) Cộng thêm vào số chiến cụ, Hoa Kỳ chuyển lại cho quân đội VNCH tất cả các căn cứ và đồ trang bị ở các nơi đồn trú. Với số quân viện đó, Bộ Tổng Tham Mưu lập thêm các đơn vị pháo binh nặng, phòng không và thiết giáp. Những phi đoàn không quân C-130A và F-5A cũng được thành lập. Tuy nhiên một số chiến cụ chưa dùng ngay được. Đây là số chiến cụ dùng để thay thế chiến cụ cũ hay bị hư trong tương lai theo những qui ước ghi trong hiệp định. Chương trình quân viện qui mô và cấp tốc ENHANCE PLUS này có hai mục đích: về quân sự, chương trình gia tăng khả năng và sức mạnh của quân đội ta; về chính trị, Hoa Kỳ muốn chứng tỏ họ là một đồng minh tin tưởng được, để hy vọng chính phủ VNCH dung hòa hơn trong chuyện chấp nhận bản hiệp định.


Phải đồng ý tổng thống Nixon đã thật sự quan tâm đến những dị biệt trong bản hiệp định do chúng ta đưa ra. Nixon ra lệnh duyệt xét lại các điểm bất đồng ý kiến. Các điểm cần xét lại gồm có:
Các điểm quan trọng: (a) Vùng Phi Quân Sự phải được coi như biên giới giữa Bắc và Nam Việt Nam, như Hiệp Định Geneva phân định từ trước. (b) Phải có một cuộc rút quân tượng trưng từ phía Bắc Việt (có thể 25 ngàn quân), và ngược lại, VNCH sẽ giảm một số quân tương đương. (c) Cuộc ngưng bắn phải được áp dụng cho toàn thể Đông Dương. (d) Lực lượng quốc tế kiểm soát đình chiến phải mạnh và sẵn sàng làm việc khi hiệp định có hiệu lực.
Các điểm không quan trọng: (a) Hai bản Anh và Việt ngữ của hiệp định phải được sửa lại để cùng có ý nghĩa như nhau, để ý nghĩa về cơ cấu của Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia không bị hiểu lầm. (c) Bản hiệp định phải được bốn bên chánh thức ký nhận.
Ngày 9 tháng 11, 1972, chuẩn tướng Alexander Haig, Jr. đến Saigon. Haig trao cho tổng thống Thiệu một bức thư của tổng thống Nixon, và nhấn mạnh tính chất quan trọng của chương trình quân viện ENHANCD PLUS. Nhưng khi thấy chính phủ VNCH giữ vững lập trường, không chấp nhận hiệp định, tướng Haig cho biết chính phủ Hoa Kỳ có thể ký hiệp định đó đơn độc với Bắc Việt. Vài ngày trước, ngày 5 tháng 11, các quốc gia Gia Nã Đại, Hung Gia Lợi, Nam Dương và Ba Lan đồng ý trên căn bản là họ sẽ dự phần vào Ủy Ban Kiểm Soát và Giám Sát Quốc Tế.
Ngày 20 tháng 11, Lê Đức Thọ và Kissinger họp mặt lại. Lê Đức Thọ xuất hiện trước, tuyên bố với báo chí là Bắc Việt nghi ngờ sự thành thật của Hoa Kỳ. Tuy không nói trắng ra, nhưng Lê Đức Thọ muốn nói đến chương trình viện trợ ENHANCED PLUS, và chuyện Hoa Kỳ đã không ký hiệp định vào ngày 31 tháng 10 theo lịch trình đã định. Khi gặp nhau, Kissinger đưa ra những đòi hỏi của phía VNCH và Hoa Kỳ. Không khí hai ngày thương lượng đầu tiên cởi mở trong sự trao đổi. Nhưng bất ngờ Lê Đức Thọ trở nên cứng rắn với những đề nghị từ ngày 23 tháng 11. Lê Đức Thọ gạt hết tất cả đề nghị của Hoa Kỳ và đòi Hoa Kỳ thay chính phủ VNCH. Có lẽ đây là chỉ thị mới từ Hà Nội. Kissinger rất ngạc nhiên về thái độ trở mặt này của Lê Đức Thọ. Kissinger yêu cầu Lê Đức Thọ cho biết lý do, nhưng sự giải thích từ phiá bên kia không làm hài lòng lắm. Kissinger nhấn mạnh đến sự thiện chí trong cuộc hòa đàm Hoa Kỳ ngưng oanh tạc từ vĩ tuyến 20 trở lên; nhưng Lê Đức Thọ trả lời là Hoa Kỳ đã đòi hỏi thêm nhiều điều kiện mới. Bị bế tắc, hai bên ngưng nói chuyện với nhau vào ngày 25 tháng 11, nhưng đồng ý gặp lại vào đầu tháng 12. (16) Ngay trong thời điểm này, đặc sứ VNCH Nguyễn Phú Đức đến Hoa Thịnh Đốn để trao cho tổng thống Nixon một lá thư từ tổng thống Thiệu. Lá thư giải thích vị trí của VNCH đối với hiệp định Ba Lê.
Ngày 4 tháng 12, Kissinger và Lê Đức Thọ gặp lại nhau. Lần này thái độ của Thọ giống như lần họp vừa qua; thái độ được cởi mở hơn một chút trong những buổi họp sau, nhưng cuộc nói chuyện không có một tiến triển nào. Hai bên bàn cãi trở lại những vấn đề tưởng đã được giải quyết rồi. Ngày 13 tháng 12, Kissinger rời Ba Lê nhưng các phụ tá của ông ở lại để thương lượng những dị biệt với Bắc Việt. Sự bế tắc lần này thật và có điềm không tốt. (17)
Sau khi họp và duyệt lại những chi tiết của cuộc hòa đàm với Kissinger ở Hoa Thịnh Đốn, TT Nixon gởi một điện tín cho Hà Nội, thông báo nếu Bắc Việt không trở lại thương nghị một cách nghiêm chỉnh, Hoa Kỳ sẽ dội bom trở lại trong vòng 72 tiếng. Khi không thấy Bắc Việt trả lời, Hoa Kỳ dội bom trở lại trên toàn lãnh thổ Bắc Việt. Hoa Kỳ dùng cuộc dội bom nói lên ý định quyết liệt của mình trong vấn đề đòi Bắc Việt thương lượng trở lại. Không chịu nổi cuộc dội bom khủng khiếp, Bắc Việt phải trở lại bàn hội nghị. Hoa Kỳ ngưng cuộc dội bom khủng khiếp đó vào ngày 30/12/1972.
Tám ngày sau, ngày 8 tháng 1, năm 1973, Kissinger gặp Lê Đức Thọ. Lần nói chuyện này khả quan hơn. Hai bên duyệt xét lại bản sơ thảo của hiệp định từng điểm một. Vào ngày 14/1, Kissinger báo cáo với tổng thống Nixon về những tiến triển khả quan của cuộc họp. Ngày hôm sau, Hoa Kỳ ra lệnh tất cả các đơn vị Hoa Kỳ ngưng tấn công Bắc Việt.
Ngày 16 tháng 1, chuẩn tướng Haig đến Saigon. Chính phủ VNCH vẫn còn đòi hỏi sửa đổi một vài quy tắc trong bản hiệp định. Nhưng vào ngày 19 tháng 1, Hoa Kỳ thông báo chính phủ VNCH bản hiệp định không còn thay đổi được nữa. Bản hiệp định sẽ được thảo duyệt lần cuối vào ngày 23 tháng 1, và bốn bên sẽ chánh thức ký vào ngày 27 tháng 1 tại Ba Lê. Hiệp định sẽ có hiệu lực vào lúc 8 giờ sáng, ngày 28/1/1973, giờ Saigon.
Được biết thêm, vào ngày 21 tháng 1, tổng thống Nixon có gởi cho tổng thống Thiệu một lá thư, hăm dọa VNCH là nếu VNCH từ chối hiệp định, Hoa Kỳ sẽ ký một mình, và khi chuyện đó xảy ra, Hoa Kỳ sẽ cắt tất cả ngân khoản viện trợ. Nếu VNCH đồng ý ký bản hiệp định thì (1) tổng thống Hoa Kỳ sẽ hết lòng can thiệp với quốc hội Hoa Kỳ để tiếp tục viện trợ cho VNCH và (2) chính phủ Hoa Kỳ hứa sẽ phản ứng quyết liệt trong trường hợp cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp định. Sau nhiều buổi họp với hội đồng an ninh quốc gia và thảo luận với nhiều nhân vật có tiếng nói ở quốc hội và các cơ quan hành chánh, tổng thống Thiệu viết cho tổng thống Nixon một lá thư chấp nhận hiệp định Paris. Trong thư tổng thống Thiệu đề nghị một cuộc họp mặt giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sau khi hiệp định Paris được ký kết.
Như những gì đã xảy ra ở hội nghị Bình Nhưỡng giữa Đồng Minh và Bắc Hàn, trong cuộc chiến tranh Đại Hàn hai mươi năm về trước: cộng sản dùng bàn hội nghị như là một nơi để tuyên truyền; trong khi tiếp tục kế hoạch của họ ở chiến trường. Chiến thuật "đả đả, đàm đàm" là một chiến thuật vừa đánh vừa đàm cố hữu của cộng sản. Khi đối đầu với cộng sản, kiên nhẫn và cương quyết trong các đòi hỏi là một tất yếu. Phải xử dụng áp lực quân sự như một phương tiện để lấy được thế chính trị. Nói một cách khách quan, Hiệp Định Paris không hoàn hảo: Hoa kỳ hoàn tất rút quân ra khỏi Việt Nam và lấy lại tù binh. Cộng sản bắc Việt vẫn giữ nguyên vị trí đóng quân của họ; và VNCH tồn tại (hoạt động) như một quốc gia với một chính phủ của mình.(18)

Phản Ứng của Việt Nam Cộng Hòa

Đối diện với một hiệp ước bất tương xứng, một hiệp ước chỉ tương xứng và hoàn hảo khi bên ta thắng và bắt phía kia đầu hàng, VNCH tìm một kế hoạch để sinh tồn. Bây giờ phải có kế hoạch chính trị quân sự để đương đầu với một tình hình mới. VNCH đoán được CSBV sẽ làm gì dựa vào những kinh nghiệm học được từ hiệp định Geneve 1954, và từ tài liệu tịch thu của cộng sản, Bộ Tổng Tham Mưu khởi sự một kết hoạch có mật hiệu là Trần Hưng Đạo II. Kế Hoạch đưa ra những dự trù cho mọi hoàn cảnh khi cộng sản tấn công. Kế hạch được dẫn giải cho tất cả các đơn vị của quân lực. Nhờ kế hoạch Trần Hưng Đạo II miền Nam không bị bất ngờ trong những kế hoạch chống lại những âm mưu chiếm đất giành dân của cộng sản.
Về bình diện chính trị, chính phủ thực hiện một kế hoạch 5 năm nhắm vào phát triển nông thôn. Một đảng chính trị có tên là Dân Chủ ra đời để chuẩn bị đối chọi ảnh hưởng chính trị với cộng sản. Đa số cấp lãnh đạo đảng Dân Chủ là nhân viên cao cấp của chính phủ VNCH. Đến giữa năm 1973 một phần của cơ sở chính quyền được tái phối trí. Để cơ động hóa và giải thích rõ ràng đường lối của chính phủ, một kế hoạch khác được mệnh danh là cách mạng hành chánh được phát động. Cho đến giữa năm 1973, mười lăm ngàn nhân viên các cấp hành chánh hoàn tất cuộc huấn luyện. (19) (Còn tiếp...)

Chú thích:

12. William H. Sullivan là phó trưởng đoàn Hoa Kỳ ở Hội Nghị Geneva về Lào năm 1962; đại sứ ở Lào từ năm 1964 đến 1969. George Alrich là phó thứ trưởng phòng pháp lý bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ . Hai người này đến Ba Lê để duyệt lại những qui tắc của bản hiệp định (chú thích của dịch giả).
13. Mười lăm giờ [ba giờ chiều] ngày 17 tháng 10 năm 1972, tổng thống Thiệu ra lệnh đem tài liệu nói trên về Saigon. Ba chuyến phi cơ L-19 thay phiên nhau đem tài liệu về đến Saigon lúc nửa đêm. Sáng hôm sau tổng thống Thiệu đưa cho Kissinger tài liệu đó. Nội dung cho thấy các đơn vị cộng sản sẽ chuẩn bị thực hiện chiến dịch "Chiếm Đất Giành Dân" bắt đầu vào ngày 22 tháng 10, 1972 (chú thích của tác giả).
14. Sách của Marvin Kalb và Bernard Kalb ghi 26 điểm cần được thay đổi (sách đã dẫn, trang 368), sách của Larry Berman ghi là 64 điểm (sách đã dẫn, trang 164-165) (chú thích của dịch giả).
15. Trong năm 1972, Hoa Kỳ viện trợ cho quân đội VNCH hai lần trong kế hoạch mang tên ENHANCE và ENHANCE PLUS. Kế họach ENHANCE bắt đầu vào tháng 5, 1972 sau khi cộng sản tấn công trận "Mùa Hè Đỏ Lửa," kế hoạch ENHANCE PLUS bắt đầu vào tháng 10, 1972. Chương trình quân viện sau cùng này vừa thay thế số chiến cụ bị mất trong trận vừa qua, vừa tiếp viện để lấy lòng VNCH trước khi hiệp định Ba Lê có hiệu lực. Từ ngày 23 tháng 10 cho đến 12 tháng 12, 1972, Hoa Kỳ đưa sang năm ngàn tấn vũ khí. Xem Jeffrey J. Clarke, Advice and Support: The Final Years, trang 452-453 (chú thích của dịch giả).
16. Theo Marvin Kalb và Bernard Kalb, sách đã dẫn, trang 393, 400 (chú thích của tác giả).
17. Kalb và Kalb, sách đã dẫn, trang 410-411 (chú thích của tác giả).
18. Thông thường, các hiệp định đình chiến đòi hỏi hai phe tham chiến tập trung vào hai vùng riêng biệt, ngăn cách bởi một khu phi quân sự hay một ranh giới rõ rệt. Khuyết điểm quan trọng nhất của hiệp định Ba Lê đã đưa đến hậu quả tai hại sau này là việc không đề cập đến, và không bắt buộc quân đội Bắc Việt rút ra khỏi lãnh thổ VNCH. Như vậy hiệp định Ba Lê có thể so sánh như một sợi giây thòng lọng VNCH phải mang vào cổ, chờ ngày bị xiết chặt cho đến chết. Dựa theo một số tài liệu được giải mật gần đây, tác giả Larry Berman, trong No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and the Betrayal in Vietnam, đã viết rất rõ về thực chất và ý nghĩa của hiệp định Ba Lê. Theo tác giả Berman, vào ngày kỷ niệm năm thứ 25 ngày ký hiêp định Ba Lê, Kissinger tuyên bố là, không có một pháp lý nào ràng buộc lời hứa của Nixon đối với VNCH trong hiệp định. Tác gỉa Kenneth B. Young (qua bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Vạn Hùng) viết về sự nhận xét của đại sứ Ellsworth Bunker đối với Kissinger: "Sự hiểu biết của ông ta [Kissinger] về Việt Nam bị ảnh hưởng bởi một số chánh khách Pháp, nên ông ta coi thường người Việt quốc gia và có nhiều cảm tình với cộng sản. Do đó Kissinger đã nhượng bộ nhiều trong cuộc mật đàm với Bắc Việt" (chú thích của tác giả).
19. Không biết đó là một dự tính hay một trùng hợp, sau khi VNCH thực hiện được một số kế hoạch trong 90 ngày (X Plus 90) sau khi ký hiệp định, đại sứ Ellsworth Bunker kết thúc vai trò đại sứ của ông ở Saigon. Trong tờ tường trình thứ 69 cho tổng thống, ông ghi lại nhiều chi tiết về những cố gắng của VNCH trong gần sáu tháng của năm 1973. Xem tường trình cuối cùng của Bunker cho tổng thống Nixon (Bunker bắt đầu viết từ 3 tháng 5, 1967 cho đến ngày cuối là 5 tháng 5, 1973, qua hai thời tổng thống Johnson và Nixon) trong The Bunker Papers (University of California, Berkeley: 1990) trang 852 (chú thích của dịch giả). 

No comments:

Post a Comment