Tuesday, May 28, 2024

Lễ Chiến Sĩ Trận Vong - Rose Hill California - 2024




 

Kingbee 219 bên trái và Nha Kỹ Thuật bên phải Chào Tay tiễn đưa Th/Úy Trần Việt Huệ
 




Thursday, May 23, 2024

ĐÔI TAY NHÂN GIAN CHƯA TỪNG ĐỘ LƯỢNG ♥

Một lần nọ tôi đi khám bệnh từ thiện cho những đứa trẻ mồ côi tật nguyền ở Thủ Đức. Thật ra tôi không muốn đi, vì đó là Chủ Nhật, ngày để nghỉ ngơi. Ngày mà tôi có thể nằm dài trên sofa vừa uống bia vừa xem trận bóng ngoại hạng, thi thoảng gào lên tức tối, cứ y như là cả cuộc đời chỉ có mỗi chuyện đá bóng vào gôn là có ý nghĩa.
Tôi khám qua quýt cho xong. Lúc ra về tôi lướt qua những ma sơ chăm sóc trẻ. Họ chẳng có gì đặc biệt, không phấn son với những chiếc áo dòng màu xanh. Nhưng khi gần tới cổng, tôi thấy một ma sơ dáng người nhỏ thó, chiếc lưng còng xuống, vẻ như đang gánh một vật gì đó quá lớn trên vai. Cam chịu. Cô chỉ có một cánh tay trái, tay phải đã cụt.
Khi bước qua, tôi cúi đầu, chào theo phép lịch sự tối thiểu của một bác sĩ. Nhưng lúc cúi xuống, vô tình tôi cảm nhận được một mùi hương thanh thoát tỏa lan nhẹ nhàng từ cánh tay đang kéo chiếc cổng sắt nặng nề.
Tại sao ma sơ tật nguyền này lại có đôi tay thơm tho đến thế?
Câu hỏi đó theo tôi suốt chặng đường về. Để rồi từng đêm từng đêm tôi bị mùi hương đó ám ảnh. Tôi nói với đồng nghiệp, mọi người đều bật cười và trêu: Mày nên đi khám tâm thần, bị ảo khứu, nguy hiểm lắm. Ha ha… sau những nụ cười vui vẻ ấy tôi đâm hoang mang. Không lẽ mình bị tâm thần? Không lẽ đôi tay xấu xí, tật nguyền ấy lại có thể ám mình? Tôi có rất nhiều đôi tay để ám cơ mà? Những đôi tay hồng hào, mềm mát như gió của bạn tình, những đôi tay đầy ma lực từng ngón như rắn lên xuống, làm tôi kiệt sức bao lần.
Quyết không để mình bị tâm thần lãng như vậy, tôi đi Thủ Đức một chuyến nữa, vẫn người ma sơ có đôi tay gớm ghiếc ấy mở cổng và vẫn mùi hương thanh khiết bay, váng vất như hương hoa hồ điệp. Người ma sơ tên Thị Mây bối rối cúi xuống trả lời khi nghe tôi hỏi: Dạ… tại sơ bị tai nạn giao thông. Chỉ vậy thôi, đúng chỉ vậy thôi, tai nạn giao thông nghiền nát cánh tay phải của ma sơ. Như vậy đó, ừ thì cũng như bao người cụt chân, cụt tay khác bị tai nạn. Thế thôi. Có gì mà vướng bận?
Tôi quay về Sài Gòn, nhủ lòng mình rảnh và vớ vẩn quá. Lo công việc đi, còn bao nhiêu thú để ăn chơi, còn bao nhiêu bàn tay đẹp để nắm, để sờ mó những khi bản năng thôi thúc, đúng không? Nhưng tất cả vẫn như cũ. Hết ngày rồi lại đêm mùi hương cánh tay đó vẫn thoang thoảng quanh tôi. Khi thì dịu dàng như mùi hoa chanh, khi thì nồng nàn như mùi hoa nguyệt quế. Tôi sợ đến nỗi, tưởng mình đã điên. Sao kỳ lạ đến như vậy? Một ma sơ có đôi tay cụt vì tai nạn thì có gì là bất thường? Tôi điện thoại cho thằng bạn thân, thạc sĩ chuyên khoa tâm thần, nó cười hú hú lên rồi phán: Mày bị con nhỏ “viêm cánh” bỏ bùa rồi, ha ha ha, mày có gu với mùi hôi đó, cưới đi, để tối tối hít hít ngửi ngửi cho sướng, ha ha ha. Tôi cũng ha ha ha trong ngượng ngùng.
Nhân dịp có chuyên gia tâm lý bên Mỹ qua dự hội nghị Chăm sóc toàn diện cho bệnh nhân tai biến mạch máu não. Tôi liên lạc xin một cuộc hẹn để tư vấn. Thật khó, vì bà ta không có ý định là qua Việt Nam khám chữa bệnh. Người nước ngoài rất rõ ràng trong công việc. Sau khi hỏi hết mọi chuyện, bà Rose, chuyên gia tâm lý Mỹ, nhìn tôi từ đầu đến chân rồi dừng ở khoảng giữa. Tôi hơi ngượng một một chút với cái nhìn soi mói ấy.
– Lần cuối cậu quan hệ tình dục khi nào?
Tôi quan hệ tình dục thì liên quan gì đến một vụ ám ảnh cánh tay cụt, tôi suy nghĩ như thế, nhưng vẫn trả lời: “Cách đây ba tháng”.
– Tại sao lâu thế? Tôi nghĩ vấn đề của cậu là một thiếu thốn trong việc quan hệ, hay không thỏa mãn trong vấn đề chăn gối nên mới như vậy.
Trời… Sao người nước ngoài hay liên kết mọi sự rắc rối cuộc sống vào trong tình dục thế kia? Hay họ xem việc đó cũng giống như ăn, ngủ, cầu nguyện?
Bó tay. Tôi hay dùng nhiều từ “thông dụng” như thế. Chứ còn biết làm gì? Nhiều khi ngủ tôi mở bung hết cửa sổ xịt nước hoa khắp phòng mà không thể đuổi được mùi hương đó.
Tôi đành quấy quả trở xuống Thủ Đức. vẫn người ma sơ có cái tên quê mùa Thị Mây ấy mở cổng. Và vẫn lời đáp nhẹ như bấc, sơ bị tai nạn giao thông. Nhưng ánh mắt ma sơ nhìn tôi rất khó hiểu.
Lần này tôi không về vội, tôi đi lang thang trong khuôn viên ngôi nhà dòng dưới hàng cây bàng xanh thẳm lá. Tôi ngồi xuống một chiếc ghế đá. Không gian thật thoáng đãng và thanh bình. Bầu trời rất trong và mây trắng trôi nhởn nhơ. Tôi giật mình tự hỏi, sao tháng ngày qua tôi cuống cuồng hết đi rồi chạy, đầu óc lúc nào cũng căng thẳng để được gì? Tôi chưa bao giờ chịu dừng lại ngồi xuống bên một tách trà thơm để ngắm nhìn cuộc sống, hay đơn giản hơn để đọc một trang sách.
Vô tình tôi nhìn vào căn phòng đối diện. Tiếng cười the thé của lũ trẻ tật nguyền vọng ra, có một ma sơ già ngồi giữa chúng. Bà ta vỗ tay nhè nhẹ vào nhau, hết nghiêng nhìn đứa này ríu rít cười, đến nghiêng nhìn đứa kia nheo mắt. Cả căn phòng như bừng sáng. Thứ ánh sáng trong trẻo thánh thiện. Nụ cười móm mém không có son môi, không có phấn má, mà sao đẹp đến thế. Lũ trẻ bu quanh chạy tới chạy lui ríu rít. Tiếng ú ớ vỡ ra thành hàng ngàn tiếng leng keng reo lên trong gió. Tôi như chết lặng, sững sờ trước hình ảnh ấy. Đẹp quá, thật quá, lộng lẫy quá. Nắng chan hòa, gió cũng chan hòa.
Không biết bao lâu tôi mới choàng tỉnh. Bối rối nhận ra có một linh mục già ngồi kế bên. Khuôn mặt ông ta toát lên một vẻ hiền từ bình an. Ánh mắt như chờ đợi tôi trút nỗi lòng. Tôi hỏi, sao cánh tay ma sơ Mây bị cụt. Trầm ngâm một chút ông kể:
Năm 16 tuổi, thay vì như những cô gái khác, ngây thơ vui đùa cùng bạn bè, Mây cùng mẹ Mây đến nhà dòng này xin khấn trọn đời. Lúc đó Mẹ bề trên nhìn Mây ái ngại, vì Mây là con một, gia đình lại giàu có. Mẹ ruột của Mây rưng rưng nước mắt, nhưng trong giọt nước mắt ấy có một tình yêu, một niềm tự hào.
Năm 18 tuổi, Mây ra dáng một thiếu nữ mơn mởn, tóc dài đen nhánh, đôi tay xinh đẹp mềm mại, rất khéo nấu ăn, thêu thùa. Nhưng lúc nào Mây cũng giấu mình trong chiếc áo dòng tu kín đáo.
Có một đêm cô gõ cửa Mẹ bề trên, xin cho được ra làng mồ côi, chăm nuôi mấy em nhỏ. Mẹ bề trên ưng thuận. Thế là đôi tay đẹp kia hằng ngày mớm cơm đút cháo cho mấy em. Có khi các em sốt, Mây thức trắng đưa bàn tay mình đặt lên trán chúng, xem nhiệt độ thế nào, rồi nhúng khăn lau tới lau lui. Bàn tay búp măng mũm mĩm không còn nữa, mà thay vào đó là bàn tay không ngần ngại hốt phân dãi của các em đi đổ. Nhiều đêm, thấy đôi tay ấy chắp lại trước ngực cầu nguyện. Cầu nguyện điều gì không ai biết. Chỉ biết rằng đôi tay đó không còn như xưa…
Hôm kia, có một bé chạy tung tăng trong sân, cổng để mở, bé băng ra đường. Xe tải dìu dập trên xa lộ lớn. Em bé ấy quá nhỏ, và lao ra quá nhanh, nên không ai kịp trở tay. Rầm, khi tất cả các sơ chạy ra thì tiếng em bé khóc lên thất thanh thật to. Bên cạnh em, Mây nhắm nghiền mắt. Cánh tay phải bị bánh xe nghiền nát. Máu chảy lênh láng.
Khi tỉnh dậy cô kể: Lúc đó, con đang đứng trên dải phân cách chờ băng qua đường thì thấy nó lao ra giữa xa lộ, con sợ quá, chạy ào đến, ôm nó, lăn vội vào. Tội nghiệp nó lắm, nó sợ quá, khóc thét lên. Nghe Mây kể, mọi người chưa hết bàng hoàng. Sao cô kể chuyện hồn nhiên đến thế? Liều cả mạng mình mà không tiếc chỉ để cứu một đứa bé tật nguyền, rồi còn tội nghiệp vì nó sợ khóc thét lên. Có lẽ Mây bị khùng mất rồi Không khùng ai làm thế ? Từ đó cô lại xin Mẹ bề trên đứng gác cổng ra vào, cô sợ các em tật nguyền kia, không ý thức lại lao ra giữa dòng xe. Cô nói cuộc sống đáng quý lắm.
– Con xin lỗi mẹ, vì con cứ đòi hỏi mẹ hết lần này đến lần khác. Mẹ bề trên bật khóc: Con đâu có gì phải xin lỗi. Con luôn đòi hỏi để phụng sự người khác.
Thế là từ đó, Mây thành người gác cổng... Khi được hỏi tại sao cô bị cụt tay, cô đáp nhẹ như bấc, bị tai nạn giao thông.
Tôi không dám hỏi, cô có tiếc vì mất cánh tay không. Vì hỏi như vậy là thừa. Ngay cả mạng mình cô còn không tiếc.
Vị linh mục già kết thúc câu chuyện. Nắng chiều rải rác xuống thềm như một tràng hoa rực rỡ. Chỉ có hoa nắng mới kết vừa vương miện cho những con người ở đây. Tất cả loài hoa thế gian, tất cả kim cương, ngọc bảo thế gian khi đính vào vương miện chỉ làm cho nó trần tục hơn, vật chất hơn mà thôi.
Bây giờ tôi mới biết, vì sao đôi tay của Mây có hương thơm kỳ lạ. Và bây giờ tôi mới biết tại sao nụ cười và ánh mắt những người ở đây luôn ẩn chứa một trời long lanh nắng sớm.
Bởi vì như linh mục Nguyễn Tâm Thường đã viết: Hy sinh vì người khác luôn cho hương thơm bay ngược chiều gió. Gánh nặng vì tình yêu luôn song hành cùng sức mạnh vô song. Bất cứ gỗ đá nào chạm phải tình yêu đều trở nên bao dung mềm mại.
Tôi về thành phố, thấy lòng mình bỗng chật hẹp. Những gì trước đây tôi cho là đúng, bây giờ tôi đâm nghi ngờ. Những gì trước đây tôi luôn theo đuổi, giành giật để có, bây giờ thấy chẳng còn quan trọng nữa.
Những tay thét ra lửa, những tay sừng sỏ mà tôi từng kính nể, bỗng dưng tôi thấy họ bình thường. Họ cố gắng dùng đôi bàn tay chứng tỏ mình, khuếch trương mình, những cái họ có được chỉ là thứ trơ trẽn. Họ không bình yên trên vật chất họ có được. Họ khoác những chiếc áo sang trọng, tay đeo đầy những kim cương, xịt toàn nước hoa hảo hạng, nhưng không bao giờ có mùi hương thanh tao, dịu ngọt, tỏa lan khắp bầu trời.
Tôi bị ám ảnh, vì trong tôi hoài thai một lẽ sống. Tôi muốn thoát khỏi bàn tay của chính mình. Tôi là người tìm kiếm bàn tay đẹp.
Bàn tay biết dang ra, biết sẻ chia là bàn tay đẹp. Bàn tay biết nắm lấy tay người bất hạnh hơn mình để cùng bước là bàn tay đẹp. Bàn tay biết nâng niu, gìn giữ cái đẹp, cái chân, cái thiện, là bàn tay đẹp. Và hàng ngàn định nghĩa về bàn tay đẹp khác. Có bàn tay cầm nắm rất nhiều, có thể điều khiển người khác. Có bàn tay xòe ra ăn từng đồng lẻ bố thí. Có bàn tay khéo léo làm nên những tuyệt tác nghệ thuật. Có bàn tay vụng về chỉ làm đổ vỡ mọi thứ khi chạm vào. Có bàn tay cho đi. Có bàn tay giữ lại. Nhưng khi về với đất, bàn tay nào cũng rỗng. Rỗng tuyệt đối.
Vậy sao không ướp hương cho đôi tay mình, tôi tự hỏi lòng như thế. Có hàng ngàn cách ướp hương. Như ma sơ Mây, ướp hương thánh thiện, âm thầm, khiêm cung, bé nhỏ, mà hương thơm lại bay vượt mọi không gian. Có bao giờ Mây kể lể với Giê su về mình không? Chắc không, vì Mây không có thời gian cho mình, đủ biết lo cho mọi người thôi.
Khi sinh ra, tay tôi nắm chặt. Khi chết đi, tay tôi buông thõng. Từ nắm chặt đến buông thõng, một hành trình dài đầy nụ cười hạnh phúc và nước mắt đau thương...

 

* chuyện tình thời chinh chiến CÒN NỖI BÙI NGÙI truyện ngắn của Quan Dương

Hai mươi tuổi, cấp bậc chuẩn úy, chức vụ trung đội trưởng tác chiến, tôi được phân bổ về đại đội 398 biệt lập trực thuộc Tiểu khu Darlac. Từ Ban Mê Thuột quá giang theo chiếc GMC tiếp tế cho chi khu Buôn Hô, tôi vượt quãng đường dài ngót nghét hơn 50 cây số để tìm đến đơn vị mình. Đơn vị đóng quân ở Buôn Wich cách Buôn Hô 10 cây số. Trung úy đại đội trưởng cho lính mở đường đưa chiếc xe dodge duy nhất của đại đội để đón thằng sĩ quan non choẹt vào rừng. Chiếc xe ì ạch trồi lên trụt xuống trên hương lộ đất đỏ rộng bằng cườm tay lởm chởm, bụi tung đầy trời ngập đất phủ lấp khoảng niên thời tôi vừa bỏ lại sau lưng. Tôi thực sự đi vào chiến trận.
Buổi chiều đầu tiên sống với núi rừng, nghe tiếng gió hú rớt đầy buôn Thượng, chạnh lòng nghĩ ngợi lung tung, tôi thấy hồn vương vấn điều gì rất mơ hồ thoáng ẩn hiện không thể hình dung . Những người lính Thượng nhúm những khúm lửa nhỏ nấu vội vã ít thức ăn được đựng trong những chiếc gà mên nhà binh. Dân làng người Rhadé đang lục tục kéo nhau về từ các nương rẫỵ Sự cô quạnh đổ ập lên buổi chiều . Một người lính sau khi cơm chiều xong ôm chiếc kèn làm bằng trái bầu phơi khô kéo lê thê nghe trầm thống vô cùng. Một người lính khác cất giọng hát. Tiếng hát khàn đục từng chữ một nghe như tiếng gào đêm của con mèo đực thất tình đi tìm ý trung nhân giữa đêm
Trên mảnh đất cách quốc lộ 14 chừng mười cây số mà dường như có một cách trở xa xôi nào đó mỗi khi lòng chạnh nhớ nhà, nhớ những người bạn, nhớ những sinh hoạt thường ngày mà mới đây thôi tôi hãy còn là một thư sinh quần xanh áo trắng . Nỗi nhớ như những lời thì thầm nhức nhối đã đem tôi thân thiết gần gũi hơn với đám lính dưới quyền. Mùi lính mùi tanh nắng của đồng đội không còn khiến tôi phải khó ngửi như lúc ban đầu . Tôi yêu thích cuộc sống hiền hòa của người Rhadé trong buôn, sự bình thản của lính miền xa. Có những đêm nằm thu mình trong một góc nhà sàn, thấy suối rừng chảy mát rượi đầy giấc chiêm bao. Thích thú khi thấy mình mọc lông thành khỉ, mọc đuôi thành vượn nhảy nhót với núi rừng. Những đêm phục kích ngoài bờ bụi, trong bóng đêm để chờ đợi sự rủi may, tôi vẫn bình thản gối đầu lên dây ba chạc cuốn tròn ngước nhìn trời với muôn ngàn ánh sao đêm. Ở đó tôi vẫn là một gã con trai vừa mới lớn. Những buổi trưa sau một cuộc lục soát dừng quân bên suối, trong khi chờ đợi người tà lọt nấu vội vã nhúm lá Dang rừng, ngồi dựa lưng vào gốc cây, đọc lại những bài thơ chép vào nhật ký hành quân, thả hồn lặng lẽ vào những đóa hoa mọc lẻ loi trong kẽ đá. Tôi nửa thú nửa người sống với cuộc sống hoang dã gần như quên hết chuyện thị thành. Nửa thú vô tâm, không biết buồn, biết vui, biết giận. Nửa người để hút thuốc, làm thơ con cóc. Những ngày không đi hành quân la cà vớ vẩn dạo chơi quanh buôn, lăn xả vào đám dân làng để uống rượu cần, đùa giỡn với đám con nít trần truồng mũi chảy lòng thòng ngờ nghệch. Trên cơ thể tôi cũng chắc đã có mùi chua của mồ hôi nắng gió, và chẳng còn phải ngứa ngáy vì những mùi ngai ngái đồng bào đó nữa.
Đêm đó, tôi rúc lên góc nhà sàn nơi chiếc võng được mắc sẵn vừa đặt lưng, vội vàng nhỏm dậy cùng với một bất ngờ. Khung gỗ vuông giữa nhà sàn dùng làm nơi đốt lửa bỗng khác lạ hơn mọi đêm, bởi vì ẩn hiện dưới ánh lửa chập chùng một khuôn mặt liêu trai chập chờn. Người con gái ngồi lặng lẽ, như đã ngồi lâu lắm từ kiếp trước. Từ bóng tối nhìn ra tôi nín thở giữa chốn rừng thiêng heo hút, nín thở vừa đủ ánh lửa soi hiện một khuôn mặt não nùng. Man mác chảy rợn trong lòng một cảm xúc mơ hồ. Tôi là thằng lính 20 tuổi, chưa hề có cảm giác yêu ai do đó cái cảm xúc của một người dành cho một người như thế nào tôi không định rõ. Tôi chỉ biết cái cảm giác rờn rợn giống như tôi đã từng có trong lần tao ngộ chiến đầu tiên với địch. Lần đầu tiên biết mùi súng đạn, giữa tiếng súng nổ rền vang, để tranh lấy cái sống chỉ còn có một cách liều mạng tiến lên. Tôi ôm khẩu M16 miệng la gần khan cổ, trong bụng không thấy sợ nhưng vẫn thấy rộn ràng. Cảm giác rộn ràng kích thích các tế bào da trên cơ thể cứ khiến tôi muốn són trong lòng. Tôi nín thở nhíu người để tự trấn an cái cảm xúc kỳ cục đó. Lần này cũng vậy người con gái thượng ngồi bên bếp lửa trong đêm đã tái diễn cảm xúc rợn người kia trong tôi . Tôi ngồi trong thinh lặng để ngắm nhìn. Bất chợt đôi mắt nàng ngước lên chĩa vào góc tối nơi tôi mắc võng. Chưa chắc nàng đã nhận ra tôi, nhưng phản xạ tự nhiên khiến tôi vội vàng nằm xuống, chính cái phản xạ này gây ra tiếng động ở hai đầu võng đang buộc vào cột nhà sàn. Biết bị lộ, tôi bước xuống lên tiếng chào trước:
"Chào cô"
Nàng không có vẻ gì ngạc nhiên:
"À.. Chào ông lính"
"Tôi đóng quân ở đây lâu rồi nhưng thấy cô đây là lần đầu “
"Em học dưới trường quận nghĩ hè em mới vừa về thăm nhà chiều nay “
"Thì ra vậy... cô tên gì?"
"H' Ngoan"
"H' Ngoan? Tên giống người Kinh ghê"
Nàng hỏi lại tôi:
"Ông lính tên gì?"
Tôi chỉ vào bảng tên thêu trên túi áọ Nàng chậm rãi vừa đọc vừa hỏi:
"Quan hay Quân ? Chắc là Quan rồi vì thấy ông đang mang lon chuẩn úy"
" H' Ngoan giỏi tiếng kinh ghê luôn"
"Em đã nói với ông là em đang đi học mà"
"Hèn gì H' Ngoan nói tiếng Kinh rành như thế. Tôi thấy H' Ngoan có nét đẹp không giống người thượng du"
"Nghe mạ em nói, ba em là ông Tây làm ở đồn điền Rossy, nhưng về nước lâu lắm rồi, về tận hồi chưa đẻ em ra lận"
"H' Ngoan lai hai dòng máu, do đó trông H' Ngoan xinh đẹp như vậy, nhất là đôi mắt “
"Ông Quan khéo nịnh đầm “
Những ngày sau đó sự cô quạnh không còn đổ ập về sớm trong mỗi buổi chiều . Tôi mong chiều xuống cho thật nhanh để ngóng ra cổng phía sau bờ suối tìm bóng dáng H' Ngoan lẫn lộn trong đám dân làng từ nương rẫy kéo về. Trước khi hàng rào dây kẽm gai được kéo lại, trong lòng tôi chợt reo vui khi thấy từ xa bóng dáng gọn nhỏ săn chắc của nàng. Hai tay đan chặt vào chiếc dây mắc chiếc gùi đè nặng trên lưng khiến khuôn ngực tròn phía trước rướn căng gần như không cần che giấu. Khi ngang qua đám lính lố nhố thế nào nàng cũng liếc nhìn tôi nhoẻn miệng cười . Làn da đen xám trộn màu lai của nàng tạo nên một nét duyên dáng riêng. Nét duyên dáng đó hòa thân cùng cây cỏ mỗi khi nàng nhoẻn cười
Tâm hồn của những người dân Rhadé mộc mạc như cuộc sống, dung dị hiền hòa như một thứ cỏ mọn hoa hèn. Âm thầm mọc lên để vươn vai cùng sương gió, cùng mặt trời không một tiếng động. Những bước chân đất nhẹ nhàng lướt lên cọc nhọn chông gai của gốc cây rừng, của sỏi, của đá không một tiếng than van. Chiến tranh giăng đầy ở khắp mọi nơi không riêng gì ở đây, nhưng ở đây đôi lúc dường như chiến tranh cũng chẳng qua là một sinh hoạt thường ngày như ăn, ngủ kể cả cái chết. Những người còn sống đem chôn những người vừa chết bình thản không có gì phải buồn, không có gì phải vui . Nụ cười của H' Ngoan tích tụ từ cảm quan thiên nhiên giao hợp đó. Nụ cười sẽ không bao giờ phai nhạt trong tôi, khi mà ở cái tuổi còn quá trẻ tôi chưa hề được ai ban bố cho một nụ cười . Tôi không phân tích được tâm trạng của mình, nhưng qua những nôn nóng trong ngày mong đợi H' Ngoan từ nương rẫy trở về, tôi biết lòng tôi đang biết nhớ
Buôn Wich lèo tèo vài ba chục nóc nhà sàn. Vì là điểm chiến lược để phòng thủ chi khu nên sự hiện diện của một đơn vị tác chiến rất là cần thiết. Đại đội hằng ngày chia nhau đi lục soát chung quanh buôn đêm về chia nhau phòng thủ canh gác. Thỉnh thoảng mở đường để xuống quận để nhận tiếp liệu . Có đụng độ vài lần với ba toán du kích lẻ tẻ, không ăn thua gì. Đánh nhau như vầy trong khi cuộc chiến đang sôi động khắp nơi trên chiến trường đất nước, kể ra cũng nhàn hạ. Tôi cứ thế tà tà cầm súng, ngao du sơn thủy chẳng còn có gì để phải nghĩ đến ngày hôm qua, chẳng cần phải nghĩ đến ngày mai . Cuộc chiến không biết bao giờ tàn, nếu quả cái mạng này âm ty địa phủ không thèm dùng đến thì đâu cần phải giữ mà vẫn sống trơ trơ. Một viên đạn nhỏ xíu xuyên vô hình trong không khí làm sao tránh . Nếu quả là Nam Tào muốn giũ sổ thì không thể trốn đằng nào . Vì thế tôi cứ thản nhiên làm người lính chiến trấn thủ tiền đồn. Trung uý đại đội trưởng nhiều lúc cằn nhằn:
"Tôi thấy cha nội tỉnh bơ với cuộc chiến này như là giởn chơi, cứ nhởn nhơ như là đi picnic"
Tôi chỉ cười đâu biết nói gì hơn. Trong ba lô, ngoài chiếc võng, một cái poncho, một cấp số đạn còn ít quyển Tuổi Ngọc dành cho lứa tuổi ô mai, tím đen hơn tí nữa ít tờ tạp chí Văn mà tôi nhờ người hạ sĩ quan tiếp liệu mua giùm mỗi khi về Ban mê Thuột.
Tôi chép vào nhật ký hành quân những câu thơ hay, thỉnh thoảng ra bờ suối ngâm cho dòng nước chảy nghe . Trang đầu quyển nhật ký tôi chép hai câu thơ của Hermann Hess " Dù đau đớn quằn quại, tôi vẫn yêu thương thiết tha trần gian điên dại này ". Tôi ghi lại những cảm xúc nửa trần tục nửa thanh cao mà tôi có từ vóc dáng H' Ngoan. Tôi vẫn thường nói với nàng
"Cám ơn Yang đã đem em đến cho anh, dù trong khắc nghiệt của hoàn cảnh. Anh chẳng có gì phải hối tiếc khi yêu em"
H' Ngoan đáp lại tình tôi cũng chẳng cần phải toan tính thiệt hơn, cũng chẳng phải cần nghỉ đến muôn vàn trắc trở . Hai chúng tôi là hai kẻ khùng điên đầy tội nghiệp. Một cuộc tình không có tương lai mà lại được hiện hữu . Người khách quan nhìn vào khó lòng mà chấp nhận. Nhưng hai chúng tôi đã chấp nhận nó, chấp nhận bằng sự thật lòng, mặc ai muốn hiểu sao thì hiểu . Mặc cho lát nữa đây có thể một viên đạn nào đó của địch quân nhắm bắn trúng vào tôi ngã xuống
Sau ba tháng nghĩ hè H’ Ngoan trở lại trường học . Trường quận cách buôn Wik quãng đường mưới cây số không dài lắm, nhưng giữa lúc có chiến tranh là một quãng đường nhiêu khê, sự chết đang rình rập không chừa một tấc đất nào . Một lần trung đội mở đường, tôi xông thẳng vào trường nàng . Năm cái nhà tole thấp lè tè xơ xác càng tăng thêm phần hiên ngang của tôi khi trên người là dây ba chạc với khẩu M.16 cầm tay . Tôi xông thẳng vào lớp rủ nàng trốn học ra quán nước gần đó . Vai vác súng, H’ Ngoan đi bên tôi . Cặp tình nhân đi bên nhau mà giống y như là nàng đang bị tôi áp giải
"Anh rất nhớ em"
"Em cũng vậy"
"Hay là em đừng đi học nữa . Em bỏ học để cưới anh làm chồng cho rồi"
"Em sợ anh không chịu thôi"
"Sao không chịu . Em đẹp và dễ thương như vầỵ"
Tôi đùa:
"Anh chỉ sợ H' Ngoan thách cưới mắc quá "
Nàng cười:
"Em chỉ đòi anh một ché với hai trâu thôi, rẻ lắm mà"
"Trời đất, một ché với hai trâu mà rẻ . Hết mấy tháng lương của anh rồi còn gì . Nhưng cưới lính, em có sợ phải ở góa không?"
"Em không sợ, trong làng tụi nó cưới lính thiếu gì"
"Mai mốt anh đổi về miền xuôi H' Ngoan có đi theo chồng không?"
"Chuyện đó thì em chưa biết"
Thử tưởng tượng, H' Ngoan quấn sà rông đi dạo phố Nha Trang với tôi, thế nào cũng có kẻ cho tôi là thằng dở hơi . Làm sao những người phố thị đang bình yên trong cuộc sống, có ai hiểu được những nhân vật dở hơi dị hợm này chính là những kẻ lăn thân nơi đèo cao núi thẳm, che chắn khói lửa chiến tranh khỏi phải chảy xuống đồng bằng. Những sinh vật này cũng có trái tim biết co giãn để điều lượng máu nuôi cơ thể cũng biết rung động giữa những con người với con người . Tôi nói với nàng:
"Anh sẽ ở lại buôn làng với H' Ngoan, anh không về xuôi nữa"
Đó là lời ước hẹn. Người Rhadé đã chịu thề hẹn rồi thì khó hòng mà trốn thoát. Nhưng thực tâm tôi nào có bao giờ tính chuyện trốn thoát khỏi nơi nàng? Tôi khẽ nắm lấy bàn tay chơn chất, lòng bàn tay nhám cứng chuyền qua cảm xúc tôi là một dịu êm vô bờ. Khi tôi kéo trung đội về buôn, chiều đổ sầm xuống, tiếng chim rừng xào xạc gọi bầy tìm nơi trú đêm, tiếng man kêu lạc bạn tác tác từ xa nghe vọng về như có tiếng gì u uẩn từ trong đôi mắt của H' Ngoan. Tôi hỏi:
"Khi nào H ' ngoan về buôn Wich thăm anh?"
"Đến hè này"
"Mùa hè này, em nhớ có anh đợi đừng quên"
Mùa hè chưa kịp đến thì tai ương đổ ập lên đầu đất nước tôi. Tôi không giữ tròn lời ước hẹn. H' Ngoan cũng chưa kịp bỏ học để cưới tôi làm chồng. Tôi bị cuốn theo cơn lốc xoáy của chiến cuộc theo đoàn quân tháo chạy khỏi cao nguyên. Cuối cùng tôi đến một nơi không bao giờ tôi nghĩ là tôi sẽ đến. Thay vì trở thành một gã thượng du sống cùng núi rừng cây cỏ, tôi lại trở thành một gã nước ngoài xa lạ với nơi tôi vừa tháo thân. Tôi không còn con đường trở lại buôn Wich . Người ta thỏa rập nhau để cố tình quên một mảnh đất có tên trên bản đồ với diện tích ba trăm hai mươi sáu ngàn cây số vuông. Một mảnh đất rộng lớn có cái tên là Việt Nam thế lục ngoại bang thoả rập với sự cuồng tham của chủ thuyết cộng sản đã bị xoá tên thì nhằm nhò gì cái buôn Wich to bằng cái nắm tay . Những năm đầu nơi xứ người bươn chải kiếm sống, nỗi cô đơn cứ khiến mỗi đêm về tôi nhớ mãi bóng dáng của H' Ngoan. Những lá thư tôi gởi về địa chỉ này cứ đi lòng vòng qua nhiều quốc gia rồi biến mất ở một nơi nào tôi không được rõ. H’ Ngoan vẫn bóng chim tăm cá . Sau này tôi được biết địa điểm buôn Wich với tiền đồn. nơi tôi trấn đóng đã bị phá bỏ và dân chúng trong làng không còn ai sinh sống. Nơi đó giờ là rừng cây phủ lấp . Tôi đã thực sự mất nàng
Tôi đã từng hứa tôi không trở về xuôi nữa, tôi ở miền ngược để sống với H' Ngoan cho hết cả một đời . Khi tôi hứa với nàng một đời chỉ đặt vừa đủ gọn trên con đường ngoằn ngoèo xuyên rừng xẻ núi dài vỏn vẹn 10 cây số. Tôi đâu nghĩ con đường đó kéo dài qua khỏi biên giới của đất nước. Tôi không được mọc lông thành khỉ để nhảy nhót vô ưu với núi rừng, ngược lại tôi phải cạo lông hằng ngày để trở thành người văn minh. Lẫn vào đám đông mũi hít ngửi mùi nước hoa đủ loại sao tôi nhớ mùi khét nắng của đồng đội tôi xưa . Trong óc tôi vẫn còn vang động mãi tiếng rì rào của con suối . Những lúc giật mình thức giấc giữa đêm khuya thấy con đường khúc khuỷu quanh co từ nơi tôi đóng quân đến trường H' Ngoan học, nhớ những lúc trở chứng đi thăm nàng dẫn theo cả trung đội mở đường, hiên ngang một cõi như loài thảo khấu coi trời đất bằng vung. Ở đây, núp mình trong cuộc sống, ngày lái chiếc Lexus đi đi về về trên xa lộ thênh thang tiếng động cơ của xe êm ái sao vẫn nhớ tiếng ì à ì ạch của chiếc xe dodge xanh màu lính già nua mỗi khi leo mệt nhọc lên con dốc. Tiếng kêu la vang động với núi rừng khiêu chiến với loài núp mặt ẩn danh. Ăn toàn cao lương mỹ vị vẫn thèm chút hương vị đậm đà của mấy chiếc lá Dang chua chua nấu với nhúm muối hột cùng vài con tôm khô. Lăn thân trong chốn ồn ào vẫn nhớ hoài những trưa hè im ắng tiếng người trên buôn làng xưa . Nghe đâu đây tiếng con chim rừng buồn thê thảm gọi hè trong nỗi nhớ lặng câm, tiếng con man kêu tác tác lạc bầy giữa núi rừng hiu quạnh. Tôi là kẻ thành danh trong xã hội, thành công trong cuộc sống, nhưng tôi có phải là kẻ thành nhân khi mà chiến tranh đã chia cắt từ tôi một bóng hình . Tôi không được mọc lông thành khỉ, nhưng tôi có khác nào con khỉ sống ở xã hội văn minh nàỵ Kiểu sống của tôi cũng rập khuôn bắt chước một cách vô hồn trong guồng máy vô tâm vĩ đại, làm một con khỉ nhảy nhót chụp giựt giữa đời thường không còn quyền tự chủ cho bản năng của mình. Mỗi lúc nhớ H’ Ngoan trong tôi chỉ còn đọng lại nơi đây một nỗi bùi ngùi
CÒN NỖI BÙI NGÙI
Khu chung cư căn phòng ẩm chật
Gã đàn ông đến từ Việt Nam
Có con gián là dân bản gốc
Có ban ngày và có ban đêm
Hắn mỗi sáng nấu tô mì gói
Ðun cà phê trên ngọn lửa buồn
Múc muỗng đường pha bằng ký ức
Quậy tháng ngày tiếng muỗng loong coong
Nâng tách hớp cô đơn từng ngụm
Uống nỗi nhà tăm cá bóng chim
Ðôi đủa gắp cọng mì đất nước
Nhai điểm tâm trợn trạo nỗi buồn
Con gián chia cọng mì rơi vải
Như một phần thân thể Việt Nam
Hai cọng râu nhíu mày chụm lại
Cuộc sinh tồn như một phản năng
Hắn mỗi tối trùm chăn kín mít
Chiếc nệm giường cọt kẹt kêu đau
Uống không cạn, uống hoài nước mắt
Tháng ngày qua lặng lẽ bạc đầu
Con gián đứng nhìn từ kẹt cửa
Lắng im chia những tiếng thở dài
Phòng ẩm chật ngăn hai thế giới
Thế giới này nào của riêng ai
Thế giới nào là của riêng tôi ?
Xuân khều động vết thương nưng mủ
Cục bông gòn nhúng lên lịch sử
Vết bầy nhầy không kéo da non
Quê nhà tôi bên kia đại dương
Cách bên này một bờ biển động
Vành biển máu một thời tang trắng
Phủ lảng quên trên những oan hồn
Một cuộc tình mỏng như khói sương
Là khói mây tụ về hậu kiếp
Mò chai rượu nửa khuya bật nút
Nhớ đen thui con mắt hạt huyền
Ðêm xuân này đứng ở khoảng không
Không gia cư cũng không tổ quốc
Ðứng tứ trụ hai chân bám chặt
Ðội trên đầu nửa mãng trời xa
Ðêm dật dờ như một thây ma
Hả họng hú tiếng gào thăm thẳm
vào vũ trụ. Vọng lời im lặng
Có còn ai nghe một lời gào
Còn. Còn đây con gián lêu bêu
Trố ngạc nhiên vào lời hắn hét
Ôi! Chữ nghĩa hiển nhiên hắn thật
Nhưng được gì . Hỡi những bài thơ
Thời gian đi trở lại bao giờ
Thời gian không trở lại bao giờ
Quan Dương
chuẩn uý Dương Công Quan
SQ 70/407892
Đại đội 398 BL - KBC 4446
* Hình chụp tháng 07/70 lúc mới ra trường để bắt đầu bước vào vùng lửa đạn

 

Tác phẩm “Kẻ Nằm Vùng” (Sympathizer) của Nguyễn Thanh Việt

DCV: Một tác giả gốc Việt đã được giải thưởng cao quý của Mỹ, Pulitzer, cho hạng mục tiểu thuyết. Đó là ông Việt Thanh Nguyễn. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông. Tác giả sinh ra ở Việt Nam nhưng lớn lên tại Mỹ, hiện giảng dạy tại Đại học Nam California (USC).

Cuốn sách của ông từng được The New York Times chọn đây là một trong 100 tác phẩm văn học quan trọng của năm 2015.

Rất nhiều người Việt chưa được biết tới hay nghe đến tác phẩm này. Để có thể đưa ra một cái nhìn khái quát, chúng tôi xin đăng lại bài giới thiệu sách dưới đây.

———————————————-

ctv1
Đất nước càng mạnh thì người dân càng có xu hướng coi nước mình là nhân vật chính trong những hoạt cảnh đôi khi nhốn nháo, nhưng thường là đầy bi thảm của lịch sử. Chúng ta là như thế, những công dân của một siêu cường, đã coi cuộc chiến tranh Việt Nam là một bi kịch của riêng nước Mỹ, trong đó,những vùng đất hừng hực của voi và hổ chỉ là bối cảnh còn người Việt Nam thì chỉ những diễn viên phụ.

Quan điểm đó được phản ánh trong văn học – và Việt Nam từng là một cuộc chiến văn chương, nó đã tạo ra một thư viện khổng lồ các tác phẩm hư cấu và phi hư cấu. Trong tất cả những tác phẩm đó, bạn sẽ chỉ tìm thấy một ít (tác phẩm A Good Scent From a Strange Mountain của Robert Olen Butler xuất hiện trong đầu) với các nhân vật nói tiếng Việt.

Hollywood còn dĩ Mỹ vi trung (coi Mỹ là trung tâm) hơn nữa. Trong những bộ phim như “Apocalypse Now” và “Platoon”, người Việt Nam (thường thì những người châu Á khác đóng vai người Việt) chỉ là những vai phụ, nhiệm vụ chính dường như chỉ là chết hoặc than khóc giữa những đống tro tàn của ngôi làng đã bị thiêu rụi.

Điều đó đã đưa tôi đến với cuốn tiểu thuyết đầu tay tuyệt vời – “The Sympathizer” của Nguyễn Thanh Việt. Nguyễn, sinh ra ở Việt Nam nhưng lớn lên ở Hoa Kỳ, mang tới cho ta bức tranh đặc biệt về chiến tranh và hậu quả của nó. Cuốn sách của ông lấp đầy khoảng trống trong văn học, cho những người trước đây chưa có tiếng nói lên tiếng, trong khi buộc những người còn lại trong chúng ta nhìn vào các sự kiện cách đây 40 năm với ánh sáng mới.

Nhưng cuốn tiểu thuyết bi hài kịch này vượt ra ngoài bối cảnh lịch sử, đủ sức rọi sáng chủ đề phổ quát hơn: quan niệm sai lầm và sự hiểu lầm liên tục giữa Đông và Tây, và tình trạng tiến thoái lưỡng nan về đạo đức mà người ta buộc phải lựa chọn không phải giữa đúng và sai, mà giữa hai cái đúng. Nhân vật chính là một người vô danh – người kể chuyện, một nhân vật đáng nhớ dù nặc danh, là một người Việt đã Mỹ hóa với một trái tim và tâm trí bị phân chia. Tài khéo của Nguyễn trong việc mô tả tính cách nước đôi này có thể sánh với các bậc thầy văn chương như Conrad, Greene và le Carré.

Tính nước đôi, theo nghĩa đen, nằm ngay trong máu của nhân vật chính, vì đấy là một người con lai, con trai ngoài giá thú của một bà mẹ người Việt, tuổi teen (người mà anh ta yêu thương) và một linh mục Công giáo người Pháp (người mà anh ta ghét). Việc anh được giáo dục ở Hoa Kỳ, nơi anh ta học nói tiếng Anh đúng điệu và có thêm một mối quan hệ yêu-ghét khác, đấy là đất nước mà anh ta cảm thấy đã đặt ra quá nhiều từ “siêu” (siêu thị, siêu cao tốc, Super Bow, v.v.) “từ ngân hàng liên bang của tính tự đại của mình” – càng mở rộng thêm sự chia rẽ trong tính cách của anh ta.

Khả năng làm xiếc của người kể chuyện nhằm tạo ra sự cân bằng giữa hai thế giới là điểm mạnh và cũng là điểm yếu của tác giả, như ông đã làm cho rõ trong dòng mở đầu:

Tôi là gián điệp, một người đang ngủ, một con quỷ, một người có hai bộ mặt. Có lẽ, không có gì ngạc nhiên, tôi còn là một người có hai bộ óc, … có thể nhìn thấy mọi vấn đề từ cả hai phía. Đôi khi tôi tâng bốc mình rằng đây là một tài năng”, anh ta tiếp tục, nhưng “tôi tự hỏi, tôi có cái gì để được gọi là tài năng. Nói cho cùng, tài năng là cái mà bạn sử dụng, chứ không phải cái sử dụng bạn. Bạn không thể không sử dụng tài năng, tài năng sở hữu bạn – đó là một mối nguy”.

Câu chuyện của nhân vật chính, dưới hình thức một lời thú tội được viết cho một người đàn ông bí ẩn, được gọi là “người chỉ huy”, bắt đầu vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi lực lượng Cộng sản đã tiến sát Sài Gòn. Người kể chuyện là sĩ quan phụ tá cho “viên tướng”, (một trong mấy nhân vật, tương tự như người kể chuyện, không bao giờ được nhắc đến tên), giám đốc cảnh sát quốc gia của Nam Việt Nam và cùng với nó, Lực lưọng đặc nhiệm, tức là cảnh sát mật.

Nhưng người kể chuyện còn là một gián điệp hai mang, một điệp viên bí mật của Cộng sản, có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của viên tướng và Lực lượng đặc nhiệm. Người bạn thân nhất của anh ta là Bon, một sát thủ hoạt động trong chương trình Phượng hoàng (Phoenix) của CIA, “một người yêu nước chân chính”, tình nguyện tham gia chiến đấu sau khi Cộng sản giết bố của anh ta vì tội làm trưởng thôn. Người chỉ huy của người kể chuyện là người miền Bắc, tên là Man, cũng là một người bạn cũ. Thật vậy, người kể chuyện, Bon và Man là bạn cùng trường từ thời trung học, đã từng thề thốt trung thành với nhau bằng cách trích máu ăn thề. Mối quan hệ phức tạp này, với người kể chuyện đứng ở giữa, bị giằng xé bởi lòng trung thành đầy xung đột, là thực đơn cho những vụ phản bội bi thảm, hết lần này đến lần khác.

Thông qua một nhân viên C.I.A., tên Claude, người kể chuyện đã hối lộ để chuẩn bị cho viên tướng, vợ của ông và đại gia đình của họ di tản sang Mỹ bằng đường hàng không. Bon và vợ con cũng sẽ được đưa đi. Người kể chuyện muốn ở lại và giữ địa vị của mình trong nước Việt Nam thống nhất, nhưng Man, tin rằng viên tướng và nhóm của ông ta sẽ tiến hành cuộc phản cách mạng từ nước ngoài, đã giao cho anh ta nhiệm vụ mới, thực ra là tiếp tục nhiệm vụ cũ: “Viên tướng không phải là người duy nhất có kế hoạch tiếp tục chiến đấu”, anh ta giải thích. “Chiến tranh đã diễn ra quá lâu, họ không thể dừng lại một cách đơn giản như thế được. Chúng ta cần phải có người theo dõi chúng”.

Nguyễn cho ta thấy hình ảnh cực kỳ hấp dẫn về sự sụp đổ của Sài Gòn, hỗn loạn, lộn xộn và khủng bố, khi người kể chuyện cùng với những người khác chạy trốn dưới cơn bão hoả lực của Việt Cộng và quân đội Bắc Việt. Vợ và con của Bon bị giết trước khi máy bay cất cánh, thêm hai cái chết nữa để anh ta báo thù.

Món hổ lốn nhiều tình tiết của câu chuyện được trình bày trong 50 trang đầu của cuốn tiểu thuyết, sau đó thì diễn ra chậm hơn. Từ khởi đầu ngắn gọn, dữ dội như thế, chúng ta sẽ chuyển sang trải nghiệm của người kể chuyện trong vai của người tị nạn kiêm điệp viên ở Los Angeles. Anh ta làm công việc văn phòng với vị giáo sư cũ của mình, có tình cảm với một người phụ nữ Mỹ gốc Nhật đã lớn tuổi và gửi thư cho Man (viết bằng mực hoá học), qua trung gian ở Paris. Ở đây, cuốn tiểu thuyết trở thành vừa kinh dị vừa có tính châm biếm xã hội. Nếu bạn thích tác phẩm khôi hài được vẽ bằng than củi, thì đây là phần vui nhất của cuốn sách, mặc dù nó đôi khi bị mất giá vì những nhận xét đáng lẽ nên dành cho những show diễn trên truyền hình chứ không phải dành cho một cuốn tiểu thuyết nghiêm túc.

Hoạt động gián điệp của người kể chuyện dẫn anh ta đến một bước đột phá vào ngành công nghiệp điện ảnh. Anh ta được một đạo diễn thuê, (ông đạo diễn này có nét giống Francis Ford Coppola), để tìm người Việt trong một trại tị nạn ở Philippines đóng những vai phụ trong bộ phim (gần giống với Apocalypse Now). Nguyễn khéo léo xử lý âm thanh luôn biến đổi của các trường đoạn, lúc vui, lúc buồn, trong quá trình người kể chuyện tìm cách làm những việc mà Nguyễn đã làm: phi Mỹ hóa bức tranh về chiến tranh. Nhưng, khác Nguyễn, anh ta đã thất bại.

Sau đó, không khí trở nên buồn bã hơn. Người kể chuyện rơi vào mạng lưới của sự lừa dối và phản bội, do vai trò kép và sự phân li trong tâm hồn anh ta giăng ra. Sự nghi ngờ của Man chứng tỏ là chính xác: Viên tướng và một số người cứng rắn khác, cảm thấy có tội vì đã không chiến đấu cho đến chết, kéo lê cuộc đời nhàm chán của họ ở Mỹ (viên tướng là chủ một cửa hàng bán rượu), lập kế hoạch cho một cuộc đổ bộ phản cách mạng, với sự giúp đỡ của một nghị sĩ cánh hữu.

Người kể chuyện giúp lập kế hoạch, nhưng lại gửi báo cáo cho Man. Tuy nhiên, để tránh bị lộ, anh ta buộc phải tham gia vào hai vụ ám sát. Một nạn nhân là “thiếu tá nhậu nhẹt”, sĩ quan cũ của Lực lương đặc nhiệm trước đây, người kia là một nhà báo người Việt, làm cho một tờ báo ở California. Những đoạn mô tả các vụ giết người căng thẳng, phức tạp về mặt tâm lý, đầy mê hoặc. Lương tâm của người kể chuyện trở nên rách nát như toàn bộ con người của anh ta. “Sự ăn năn về cái chết của viên thiếu tá nhậu nhẹt rung lên trong tôi vài lần một ngày, kiên trì như người đòi nợ”, ông nghĩ.

Cuối cùng, viên tướng cũng tập hợp một đội quân khố rách áo ôm, xuất thân từ những cựu chiến binh của Nam Việt Nam, được người Mỹ vũ trang và tài trợ. Man, biết rõ kế hoạch, ông ta ra lệnh cho người kể chuyện ở lại Mỹ, ngay cả khi đội quân này quay trở lại châu Á, nhưng, một lần nữa, anh ta lại bị lòng trung thành đã bị chia đôi vò xé. Anh ta cảm thấy phải đi để cứu Bon, người anh em kết nghĩa của mình, khỏi chết trong một nhiệm vụ mà anh ta tin chắc là một nhiệm vụ có tính tự sát. Anh ta thấy mình rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan quen thuộc, “không biết làm sao tôi có thể phản bội Bon, đồng thời lại có thể cứu anh”.

Tình anh em kết nghĩa mạnh hơn hệ tư tưởng. Người kể chuyện tham gia đội quân của viên tướng. Có thể đoán trước được những chuyện sẽ xảy ra; mọi chuyện đều có thể xảy ra với người kể chuyện và Bon, nhưng Tôi không muốn đưa ra bất cứ điều gì, trừ việc nói rằng trong chương cuối cùng, “Cảm tình viên” là một thành công của thể loại phi lý, có thể đã được viết bởi Kafka hay Genet.

Khi câu chuyện dần được hé mở, nhân vật chính đưa ra nhiều khám phá đáng ngạc nhiên, trong đó có bản sắc của ông chủ của chính viên chỉ huy – chính ủy. Trong những cuộc thẩm vấn, người kể chuyện tạm thời bị mất trí; nhưng trong cơn điên loạn tâm trí của anh ta lại trở nên rõ ràng. Anh ta thấy rằng cuộc cách mạng mà anh ta đã hy sinh quá nhiều đã phản bội lại anh và phản bội tất cả những người đã chiến đấu vì nó – như tất cả các cuộc cách mạng vẫn thường làm.

Ngay cả những người chỉ huy cũng phải thừa nhận rằng thành quả của chiến thắng đã bị thối rữa và đến lượt mình, người kể chuyện phải nhận ra “câu chuyện đùa này, về việc làm sao mà một cuộc cách mạng chiến đấu vì độc lập tự do lại có thể làm ra những điều còn ít giá trị hơn cả số không”.

Nhưng mặc khải đã tạo được một sự hiểu biết sâu sắc, nó đã cứu anh ta khỏi tuyệt vọng hoàn toàn: “Bất chấp tất cả – vâng, bất chấp tất cả mọi thứ, khi đối mặt với không có gì”, anh ta viết ở cuối lời “thú nhận” – cũng là cuối tác phẩm này, “chúng tôi vẫn coi mình là người cách mạng. Chúng tôi vẫn là những người hy vọng nhất, người cách mạng tìm kiếm cuộc cách mạng, mặc dù chúng tôi sẽ không cãi khi được gọi là người mơ mộng bị bỏ bùa mê… Chúng tôi không thể là những người đơn độc! Hàng ngàn người khác phải nhìn chằm chằm vào bóng tối như chúng tôi, bị những ý nghĩ đầy tai tiếng, những hy vọng ngông cuồng và kế hoạch bị cấm đoán kẹp chặt. Chúng tôi nằm đợi thời điểm thích hợp và sự nghiệp chính nghĩa, mà ở thời điểm này, chỉ đơn giản là muốn sống”.

Philip Caputo là tác giả cuốn “A Rumor of War” và 14 tác phẩm khác.

Phạm Nguyên Trường dịch từ nguyên bản nytimes.com

Wednesday, May 22, 2024

Pleiku


 Năm 1969, tôi lên Pleiku làm biệt đội trưởng kỹ thuật biệt phái dài hạn. Lúc ấy, tự nghĩ đằng nào cũng xa nhà, Nha Trang hay Pleiku cũng vậy. Thôi tình nguyện đi để xa mặt trời, tuổi trẻ không ưa gò bó, có việc thì làm không thì tà tà chơi chẳng ai dòm ngó. Tuy làm việc dưới đất mà cũng có lúc cảm khái:

Ừ, mai cánh vỗ ngang trời.
Ngắm thiên thu một cõi đời tịnh yên.
Máu xương mãi chuyện ưu phiền.
Còn đâu tiếng gọi yêu em một thời.
Ừ mai dõi bóng chim khơi.
Khuất xa mấy núi mấy đồi mênh mông.
Pháo rơi dường cũng nao lòng.
Trong thiên cổ chợt núi sông bồi hồi…

Với tôi bầu trời mông mênh lúc nào cũng có sức hút của tưởng tượng. Mơ ước làm một loài chim tôi thích những phi vụ mà mình lén đi theo. Tôi nhớ, có vài người bạn bay L-19 có hai chỉ số, một hoa tiêu một quan sát viên, nên chỉ bay một mình không phải hai người như thường lệ, nên rủ tôi đi theo cho vui. Trong nhiều phi vụ bay thám sát phi trường để chống pháo kích, ngồi ghế sau nhìn hoàng hôn trên không đẹp lạ lùng. Dưới cánh, mặt nước Biển Hồ lấp loáng nắng, màu sắc phản chiếu lên mấy tầng mây tưởng như cầu vồng mấy lớp. Những cánh đồng cỏ lau bạt ngàn phía dưới xoãi dài tới những mỏm núi lam xanh tận chân trời, ngút mắt theo những cơn gió thổi lộng bạt ngàn hoa lau. Tự nhiên, tâm hồn như rộng hơn và cao hơn, để thấp thoáng những tinh tú như của một trời tưởng tượng nào trong tầm mắt. Phi trường Cù Hanh ở dưới, với những mái nhà san sát, như tổ ấm để trở về, thân quen trong cảm giác vỗ về nồng ấm…

Pleiku, Thơ và Thi Nhân

Có lẽ không có một thành phố nào như Pleiku được nhắc nhở nhiều đến như vậy trong văn học Việt nam. Những thi văn sĩ, đã sống và thở ở không gian đó, đã trải qua những ngày tháng tao loạn chiến tranh, nên tác phẩm của họ đã biểu hiện sinh động được tâm cảm của những người lính thú hay những nàng chinh phụ của một thời đại chiến tranh.

Với tôi, phố núi Pleiku gợi lại cho tôi rất nhiều vần thơ. Có thể là của riêng tôi mà cũng là của rất nhiều thi sĩ đã gần gũi với thành phố ấy. Thêm vào nữa, Pleiku còn là cả một kho tàng kỷ niệm của riêng tôi..

Ngay ngày đầu tiên đến Pleiku, tôi đã cảm thấy như mình là một dòng sông đang đến một khúc quành.

Năm tôi lên nơi chốn ấy, tôi vừa đến cái tuổi đôi mươi. Hai mươi tuổi, tâm hồn lúc ấy trắng bong, tràn đầy mơ với mộng. Chưa có kinh nghiệm trường đời nên thường phản ứng trước những điều mà mình thấy không vừa lòng. Tuổi trẻ lại hay thích thoải mái không ưa sự gò bó nên dù ở Nha Trang phong cảnh sơn thủy cũng hữu tình lắm nên khoái chuyện giang hồ lang thang. Ở đâu cũng xa nhà nên tôi tình nguyện đi biệt đội Pleiku mút mùa lệ thủy và khi lập không đoàn thì cũng là một trong những sĩ quan thuộc hàng khai sơn phá thạch của đơn vị kỹ thuật ở đây…

Thời gian ở thành phố biên trấn này chỉ hơn hai năm mà sao tràn đầy kỷ niệm. Có những lúc, cơm xấy đồ hộp ngày này qua tháng khác mà vẫn vui. Lãnh lương xong, chỉ một vài ngày là sạch nhẵn, thế mà tối nào cũng lang thang ở phố đến nửa đêm mới mò về phi trường. Ở đây, biết bao nhiêu đứa bạn, buổi sáng còn đùa giỡn chọc ghẹo nhau mà vài tiếng đống hồ sau thân xác đã thành sương khói cho những phi vụ không về. Ở đây có sáng mù sương, thấy đời mỏi mệt như chiếc xe dodge của biệt đội ì ạch leo lên đầu dốc. Dù rằng lúc ấy tôi chỉ vừa hai mươi tuổi…

Cảm giác đầu tiên của tôi khi đến Pleiku thật là lạ lùng.

Ngày đầu tiên khi tôi từ Nha Trang xuống phi trường Cù Hanh là một ngày mưa u ám. Phi cơ trực thăng khi bay qua Khánh Dương bị bắn và tôi hiểu chiến tranh đã đón chào tên lính trẻ làm thân lính thú đồn xa như thế. Mưa sủi bọt trên mặt nhựa phi đạo và bầu trời nặng nề u ám mầu mây đen. Gió ào ạt lồng lộng ngoài kia khiến cho tôi thấy mình quá nhỏ nhoi trong cái buồn mênh mang của đất trời. Lúc ấy, tôi thấy những câu thơ vẩn vơ trong óc. của Kim Tuấn, Vũ Hữu Định, Nguyễn Bắc Sơn,… Thơ tự nhiên thành một phần của một ngày, một tháng, một năm,… của riêng tôi. Thơ để quên đi hiện tại. Những giọt mưa quất vào mặt, buốt rát. Những ngọn gió thốc vào ngực. Nặng tê… Tự nhiên tôi thấy mình thật gần gũi thân thiết với những vần thơ biết là bao nhiêu. Có lúc, tôi nghĩ thi ca là một phần đời sống mình.

Thi sĩ làm thơ cho Pleiku thì rất đông đảo. Và thơ hay cũng nhiều lắm, mỗi bài có ý vị riêng, có phong thái riêng. Tôi bắt đầu với nhà thơ Vũ Hữu Đinh…

Nếu nói bài thơ “Còn Một Chút Gì Để Nhớ” của thi sĩ họ Vũ đã làm cho Pleiku trở thành một nơi chốn cực kỳ lãng mạn và thơ mộng của thi ca Việt Nam thì cũng chắng phải là ngoa ngôn, những câu thơ dễ thương của một vài con phố nhỏ heo hút của vùng cao nguyên, với hình tượng của “Em”, của thời tiết lạnh lạnh để má em thắm để môi em hồng. Có ai hỏi là những nhân dáng này có thật không trong đời sống của người làm thơ không thì nhà thơ họ Vũ đã trả lời rằng đó chỉ là hình tượng tổng hợp từ nhiều hình ảnh trong thực tế để tổng hợp thành một hình tượng tuyệt diệu của tưởng tượng, của hư cấu. Và trong cái không gian của một phố núi nhỏ nhoi, con người thi sĩ và cảnh vật cũng như thiên nhiên ở đây hình như thở chung một nhịp đập của trái tim tràn cảm xúc. Con phố hoang sơ lạnh lùng nhưng dường như có một tâm hồn mà người thơ cảm thông được, hiểu được từ nỗi cô đơn mà trời riêng dành cho người là thơ.

Bài thơ ấy gồm chỉ mười hai câu thơ thôi mà chuyên chở rất nhiều tình, ý. Thơ có thiên nhiên hòa hợp với con người. Thơ làm đời sống có nhiều chất thơ hơn để quên đi những ám ảnh của chiến tranh:

“Phố núi cao phố núi đầy sương
phố núi cây xanh trời thấp thật gần
anh khách lạ đi lên đi xuống
may mà có em đời còn dễ thương
phố núi cao phố núi trời gần
phố xá không xa nên phố tình thân
đi dăm phút đã về chốn cũ
một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng
em Pkeiku má đỏ môi hồng
ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
nên mắt em ướt và tóc em ướt
da em mềm như mây chiều trong
xin cảm ơn thành phố có em
xin cảm ơn một mái tóc mềm
mai xa lắc trên đồn biên giới
còn một chút gì để nhớ để quên”.

Hình như về sau này, khi Cộng Sản chiếm miền Nam, thì trong các tuyển tập thơ có trích đăng bài này. Bài thơ này hình như vượt qua được giới tuyến của chiến tranh để trở thành một tài sản văn hóa của dân tộc…

Bài thơ này được trích đăng hoặc in trong nhiều tuyển tập thơ xuất bản ở trong nước, nhưng không phải là nguyên văn bài thơ. Thí dụ như hai câu thơ cuối thì nguyên bản là “mai xa lắc trên đồn biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“ thì sửa lại là “mai xa lắc bên đồi biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“. Chỉ sửa có một chữ mà ý tưởng đã khác nhau nhiều!

Tôi không rõ Vũ Hữu Định viết bài thơ này trong thời gian nào nhưng theo nhà thơ Luân Hoán một người bạn thân cùng quê với anh đã tả chân dung nhà thơ ấy như sau:

”với chiều cao khoảng một thước sáu nhưng có bề ngang, cộng với dáng đi chữ bát, cộng thêm lối an vận lè phè nhà thơ Vũ Hữu Định trông gần như hơi thấp. Anh không có khuôn mặt đẹp trai nhưng nhìn rất bắt mắt. Nụ cười xuề xòa luôn luôn đi trước giọng nói dí dỏm bộc trực đã thắp sáng khuôn mặt ngả màu nâu sậm của anh thơ miền Trung ra đời vào thập niên 40 này. Năm 1970 năm tôi không may mắn phải giã từ rừng núi và phố chợ Quảng Ngãi để trở về Đà Nẵng tôi đã gặp và quen thân với Vũ Hữu Định. Lúc đó hình như anh đang mặc áo cán bộ xây dựng nông thôn. Địa bàn công tác của anh lòng vòng ven rìa thành phố Đà Nẵng như Thanh Khê, Hà Khê, An Hải, Sơn Trà,…”. Anh chợt đi, chợt về. Đặc biệt anh lúc nào cũng có vẻ thong dong giàu có thời giờ phất phơ phố xá. Anh làm thơ nhiều trong giai đoạn này. Thơ của anh hầu hết được đăng trên các tạp chí văn chương tại thủ đô Sài Gòn. Vũ Hữu Định có đời sống vật chất không mấy khả quan, quen biết nhau khá lâu nhưng anh từ chối không thuận cho tôi đến nhà chơi. Cũng không hề đề cập đến gia đình của anh. Biết anh có vợ có con nhưng mãi về sau này tôi mới tình cờ được gặp trong một hoàn cảnh thật buồn!

Ông mất năm 1981 ở Đà Nẵng và có nhiều dư luận về cái chết của ông. Như ông đến nhà một người bạn văn chơi ở An Hải và vì nhậu qúa say trong lúc tìm chỗ đi tiểu thì bị té từ căn gác lửng xuống và chết. Một dư luận khác thì nói rằng trong cuộc nhậu ấy, ông bị một vài người cố tình từ trên gác xô xuống và bị ngã chết. Những người bạn ông thì nửa tin nửa ngờ và cũng hiểu rằng ỏ thời thế ấy thì chết vì bị cố tình mưu hại hay vì say mà té ngã cũng đều như thế, chính quyền không quan tâm và chỉ đau xót cho gia đình, bạn bè và những người yêu thơ ông.

Thi sĩ viết về Pleiku như thế thì rất nhiều nhưng tôi cũng muốn nói về một thi sĩ mà tôi rất mê thơ của ông. Đó là Nguyễn Bắc Sơn.

Nguyễn Bắc Sơn, một chứng nhân của cuộc chiến, làm thơ như một cách thế sống, đã coi công việc viết như một phần của đời người. Sống ở Pleiku và viết những bài thơ để gửi Pleiku. Thơ ông, có chút cảm khái ngậm ngùi của thời tao loạn nhưng cũng có những xúc động bềnh bồng của tâm tư lãng mạn hay đùa cợt với cuộc đời. Thơ, phảng phất vóc dáng một chàng cuồng sĩ.

Đọc bài thơ “Hoa Quỳ Vàng Lạnh Pleiku”, tự nhiên tôi như người trở về thời gian ấy, không gian ấy. Trở về những ngày tuổi trẻ, của những giây phút bốc đồng coi mọi việc như cuộc đùa chơi. Cái lạnh, chưa hẳn là lạnh lẽo mùa đông, mà còn chứa đựng một chút nồng ấm nào đó của mùa hạ. Lạnh ở bên ngoài nhưng rần rần nóng hồi ở tim óc bên trong. Sương mù ban đêm trên đỉnh cao nhìn về phố buồn, tâm thức cũng ào ạt như sóng theo tầm nhìn vời vợi…

“Đứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Đã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó…”

Đọc bài thơ dài của Nguyễn Bắc Sơn tôi chỉ thấy có hai câu nói về mầu hoa quỳ vàng. Thế mà cái mầu sắc hoa man dã ấy chỉ một nét thoáng qua nhưng lại gợi nhiều dư âm. Mầu vàng, có khi là mầu vàng lạnh, nhưng có khi là mầu nóng chói chang của nắng:

“Phố núi kia ơi, một đời phố lạnh.
Lạnh hoa vàng, núi đỏ, thác đèo cao”.

Hoa quỳ vàng? Một loài hoa có lẽ chỉ có ở Pleiku. Hoa quỳ vàng, một loài hoa nhỏ, cây từa tựa giống như hoa cúc, tôi đã nhìn thấy miên man mầu vàng khi trên phi cơ nhìn xuống. Mầu vàng, mênh mang trên những ngọn đồi loang lổ mầu xám của đá và mầu đỏ của đất. Hoa quỳ, lẻ loi một cánh trên tay thú thực cũng chẳng hấp dẫn lắm nhưng nếu bạt ngàn dưới cánh phi cơ, rào rạt trong nắng trong gió sẽ trở thành một ấn tượng khó quên cho cảm xúc. Ơi hoa quỳ, mầu vàng không phải kiêu sa như mầu hoàng cúc của áo tôn nữ mà có sự gần gũi với tà áo vàng của dân dã, của thiên nhiên. Hèn chi, cũng có nhiều nhà thơ vấn vương với hoa quỳ vàng, như Nguyễn Xuân Thiệp, như Kim Tuấn,…?

Người thơ kể chuyện của mình, một câu chuyện có lẽ rất quen tai của những người lính thú. Cũng đi xuống, đi lên, cũng loay hoay bồn chồn như những chàng gà trống…

“Đời lang bạt của một người lính thú
Sáng hôm qua tôi là người thiếp ngủ
Đi một mình lên xuống phố mù sương
Phố núi kia ơi, phố có con đường
Lên xuống dốc tìm không ra bạn hữu
Không có bạn tôi làm sao uống rượu
Tôi làm sao sống nổi một ngày đây
Phố núi kia ơi, kẻ lạ đông đầy
Nhìn gã lính không khác gì gã lính…”

Không có bạn tôi làm sao uống rượu. Tôi làm sao sống nổi một ngày đây. Nghe như một câu nói thường ngày, không có chất thơ mà sao nghe tràn đầy thi tứ. Chắc lúc ấy, sự cảm khái của người thơ đã lên cao độ, và, nỗi lạnh lùng thiên cổ như bám vào da vào thịt. Có nỗi nhớ mong, có niềm tiếc nuối. Người em, bây giờ lưu lạc ở đâu?

“… Tôi vận rủi làm một người lãng đãng
ngó mông hoài khuất bóng của người em
sáng hôm nay đời sống thật bình yên
sao phố lại đuổi đi người yểu điệu
vườn đá tảng bàn chân em huyền diệu
in gót hồng lên lớp bụi đời tôi
là từ khi tôi hạnh phúc rong chơi
và quên lãng con thú mù phẫn nộ
Ôi phố núi đêm nay là cổ mộ
Một hàng đèn sáng lạnh cõi bi hoang…”

Nguyễn Bắc Sơn làm thơ với tâm trạng u uất của thời đại trong một cuộc chiến kéo dài suốt gần hai chục năm. Ông có người cha là một cán bộ quân sự cao cấp của Cộng Sản nên trong thời kỳ ông đi lính VNCH cũng bị ảnh hưởng. Cơ quan An Ninh Quân Đội bắt ông thuyên chuyển đơn vị và theo dõi. Sau đó ông đào ngũ và bị bắt lính lại và phục vụ tại một đơn vị Địa Phương Quân ở Phan Thiết. Sau năm 1975, người cha trở về và là một viên chức cao cấp sau về hưu và bị chết một cách bất thường vì bị tai nạn giao thông. Có dư luận cho là bị mưu sát.

Đời sống của ông đã tạo cho thơ ông niềm đau xót của những người bị kẹt giữa hai giới tuyến. Thơ của ông hào sảng có nét chân thực thô nhám của đời lính trận có những câu như:

”Mai ta đụng trận may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm
đốt tiền mua vội một ngày vui…”

Có người phê phán những bài thơ có chất phản đối chiến tranh của Nguyễn Bắc Sơn, nhưng họ phải công nhận ý thơ và tứ thơ mạnh mẽ của ông, một kỹ thuật làm thơ với ngôn ngữ tuy bình dị gần gũi đời thường nhưng đầy chất sáng tạo.

Có một nhà thơ nữ cũng nổi tiếng với một bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành nhạc khúc “Tưởng Như Còn Người Yêu”. Đó là nhà thơ Lê Thị Ý và bài thơ “Thương Ca 1”.

Trả lời một câu phỏng vấn của Đinh Quang Anh Thái, tác giả Lê Thị Ý phát biểu:

“Lúc đó là năm 1970, tôi sống tại Pleiku. Thành phố nhỏ bé này vào giai đoạn chiến tranh khốc liệt chỉ thấy lính, vợ lính, xe tăng, xe jeep; hầu như không thấy gì khác nữa. Nhà tôi ở gần nhà xác của quân đội. Tôi chứng kiến cảnh biết bao các bà đi nhận xác chồng. Tôi thấy đàn bà con nít đến lật cái poncho quấn xác để nhìn rõ mặt người thân, cảnh đó khiến tôi đau đớn không chịu nổi. Rõ ràng nỗi đau của những người có chồng chết trận là nỗi đau của chính mình. Thành thật tôi vô cùng xúc động và chính tôi sống bằng hình ảnh những người vợ lính, vợ sĩ quan khóc bên xác chồng. Nỗi buồn đau đó là nỗi đau của mình.”

Khi trả lời câu hỏi khi thơ phổ thành ca khúc thì có người chê là phản chiến, nhà thơ Lê Thị Ý nói:

”Khi tôi làm bài thơ tôi xúc cảm thế nào thì tôi viết ra như thế. Thế thôi. Tôi không nghĩ gì khác cả. Bài thơ được phổ biến cũng là một sự ngẫu nhiên. Một người bạn của anh Vương Đức Lệ tôi đến nhà chơi thấy bài thơ bèn đưa cho cụ Nguyện Đức Quỳnh người trụ trì sinh hoạt Đàm Trường Viễn Kiến ở nhà cụ ỏ Sài Gòn quy tụ rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức, nhà văn, nhà báo – Cụ Quỳnh đọc thấy hay bèn đưa cho ông Phạm Duy phổ nhạc. Cho nên bài thơ của tôi được mọi người thưởng thức hoặc cho là phản chiến thì cũng là việc tình cờ thôi chứ tôi không chú ý trước việc phổ biến bài thơ…”Bài thơ rất cảm động, nguyên văn là:

“Ngày mai đi nhận xác chồng
say đi để thấy mình không là mình
say đi cho rõ người tình
cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ
cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son
tình ta không thể vuông tròn
say đi mà tưởng như còn người yêu
phi cơ đáp xuống một chiều
khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
dài hơi hát khúc thương ca
thân côi khép kín trong tà áo đen
chao ơi thèm nụ hôn quen
đêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau
chiếc quan tài phủ cờ màu
hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng
em không thấy được xác chàng
ai thêm lon giữa hai hàng nến chong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai”

Nếu hồi trước bản nhạc về phố núi của Phạm Duy phổ nhạc từ thơ Vũ Hữu Định được mến chuộng thì về sau này những người yêu thương Pleiku cũng hay ngâm nga hoặc thích lắng nghe bản nhạc Phố Xưa của thi sĩ, nhạc sĩ Hoàng Khai Nhan. Bản nhạc với ca từ như “Chiều mờ trên phố cao / Đón em về từ khi có nhau / những con đường tình vui biết bao / kết hoa ngày nào / chiều mờ thung lũng sâu / quán trong phi trường đèn đêm thắp sao / hạnh phúc như tình yêu giữ cho dài lâu…” đã thành một bài hát đáng yêu của những người lính trấn ải miền ba biên giới.

Bản nhạc thật hay và lãng mạn như trời đất của vùng biên trấn ấy. Nhạc sĩ Hoàng Khai Nhan còn là một thi sĩ và làm khá nhiều thơ về Pleiku.

Anh viết với cảm xúc của người lính, lên đường làm nhiệm vụ của người tuổi trẻ thời chiến tranh. Có một bài thơ anh làm để bắt đầu cho một cuộc lên đường, để làm người lính thú hôm nay. Hoàng Khai Nhan như chia sẻ với đồng đội của anh những nhiệt thành vào cuộc, với thân phận giống như bầy ngựa chiến đập móng đợi khởi sự vòng đua nhân sinh trong thời đại khói lửa mịt mù trên quê hương.

Đó là một bài lục bát, gửi tặng những người bạn chờ buổi Lên Đường nhập cuộc:

“Một con ngựa đã lên đồi
Hai con ngựa đứng bồi hồi ngó theo
Ba con ngựa sải qua đèo
Bốn con ngựa hí buồn thiu trong tàu
Năm con ngựa nối đuôi nhau
Sáu con ngựa đợi hôm sau lên đường…”

Những cuộc lên đường của những người lính trẻ. Bắt đầu một cuộc đua của những con tuấn mã chạy vòng trong cuộc chiến tranh. Hoàng Khai Nhan đã ví von ông và những đồng đội cùng mặc áo lính thú khởi sự hiểu được những bất toàn của cuộc đời nhưng hùng khí lúc nào cũng hừng hực như thuở đợi lúc lên đường.

Bây giờ là mùa thu nhưng nghe bản nhạc Anh Cho Em Mùa xuân của nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ từ thơ Kim Tuấn thì thấy trời đất vẫn dễ thương vô cùng. Thi sĩ Kim Tuấn cũng là người làm thơ về Pleiku độc đáo và trước năm 1975 đã có một thời cư ngụ lâu dài ở Pleiku. Với Pleiku, anh là một người cố cựu và đã sống đã thở với phố núi này với tâm tình của một người chọn lựa một quê hương thứ hai. Với riêng tôi thì thơ của ông có nhiều nét rất gần gũi với cuộc sống mình cũng đã một thời ở đó.Chúng ta hãy thử đọc bài thơ “Buổi Chiều Ở Pleiku“:

“Buổi chiều ở Pleiku có cà phê và có bạn hiền
Có biển hồ nước trong, có lúc buồn soi mặt
Ôi mặt mình sao bỗng gớm ghê
Ôi đời mình sao nhìn muốn khóc
Ta với ta xa lạ vô cùng
Buổi chiếu ở Pleiku có gì lạ đâu hở em
Có nỗi cô đơn trong cõi sương mù
Có phố buồn hiu có đêm giấu mặt
Có giấc sầu dài trong cõi thiên thu
Có bức tường vôi ghi dấu đạn thù
Có cuộc đời ta chìm trong khói lửa
Kiếp người sao đã lãng du
Buổi chiều ở Pleiku
Buổi chiều nghe mưa bay trên đầu ngọn núi
Buổi chiều như mọi buổi chiều
Tiếng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng
Anh còn tiếng nào để nói yêu em”.

Những buổi chiều ở Pleiku, với “tiếng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng”, đúng là tình cảnh chúng tôi nhưng khác với thi sĩ là chúng tôi vẫn còn nhiều lời yêu em chứ không phải ”anh còn tiếng nào để nói yêu em”.

Kim Tuấn làm thơ về Pleiku với nhiều nỗi niềm trăn trở quá. Nhưng thơ của “Nụ hoa Vàng Cho Em” phổ nhạc thành “Anh cho em mùa xuân“ hay “Kỷ Niệm” phổ thành “Những bước chân âm thầm” lại có nhiều yêu đương tình tự và lãng mạn của những người cảm thông được với thiên nhiên với thời tiết những vẻ đẹp của đất trời.

Thơ của ông cũng có nhiều bài rất lãng mạn thơ mộng chứ không phải chỉ có trăn trở suy tư. Có khi là thơ của tuổi học trò, của tuổi mười bảy mười tám mộng mơ…

Như bài “Ngày Em Còn Thắt Bím” chẳng hạn:

“tóc bím nghĩa là tóc dễ thương
tóc bâng khuâng lá rụng bên đường
tóc chia đường gió chia thương nhớ
chia nỗi buồn cho ai vấn vương
Tóc bím nghĩa là tóc mộng mơ
Để ai thương nhớ để ai chờ
Để ai ngơ ngẩn giờ tan học
Em vẫn vô tình vẫn giả lơ
Tóc bím nghĩa là tóc ngẩn ngơ
Tình ta xanh biếc mộng ơ hờ
Chiều xanh áo trắng mùa mây trắng
Em ngọt ngào và em ngây thơ”.

Có rất nhiều thi sĩ viết về Pleiku với tâm trạng của những người tham dự một cuộc chiến tranh mà ở đó sự sống chết nhục vinh gần cận nhau đến gần như không biên giới. Những người lính trước khi hành quân còn vui tươi chọc ghẹo nhau nhưng biết đâu chỉ trong giây phút đã thành những người đã rời xa cuộc sống. Hay, thành phố Pleiku này đầy kỷ niệm dễ thương cũng có lúc trở thành địa ngục mà ở đó những người dân và những người lính cuống cuồng trong vòng lửa hun của tàn phá chiến tranh của những ngày tháng ba chẳng thể nào quên của cuộc di tản đẫm máu về phía duyên hải qua con đường số 7 la liệt xác người.

Chiến tranh lại rõ nét hơn với nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Bài “Pleiku, Tháng Ba 1975”. Ba mươi năm trôi qua, nhưng ngày tháng đó vẫn còn sinh động. Thơ, không ghi chép lại nhật ký ngày tháng mà sao đầy dấu viết của một quãng đời. Ngày ấy, lửa cháy đỏ. Ngày ấy, là ngày thành phố cao nguyên quặn mình rồi gục ngã.

Người thi sĩ kể chuyện một mình. Đâu cần ai hiểu, chỉ để nỗi niềm loang vào sương đêm thành nỗi nhớ mịt mùng.

“cầm bút viết, tháng Ba rực cháy
hàng dầu cao trong bình minh
cơn sốt của trái chín và cánh đồng
trận gió hung trưa ngày ấy
cầm bút viết, đồi hoa quỳ vàng
tháng Ba xuống khu rừng. Bóng quạ
rung những nhánh cây màu tàn lửa
tiếng thét hư không. Chiều rượt qua ngàn…”

Tháng 3 năm 1975, có phải là thời điểm mà cao nguyên di tản và là một nỗi kinh hoàng còn ám ảnh mãi đến bây giờ. Nhà thơ hình như đã mang cả tâm tình của một người yêu Peiku vào thơ qua những hình ảnh thật là đặc biệt.

Những hình ảnh đan vào nhau với những liên tưởng tiếp nối. Ảnh tượng có khi như không liên quan nhau, chỉ là những nét phác sơ lược nhưng lại làm nổi bật được một không gian đầy biến động. Đồi hoa quỳ vàng, khu rừng, bóng quạ, nhánh cây màu tàn lửa, tất cả như chìm đắm trong nỗi bàng hoàng của thế thời. Cơn bão lửa dậy lên từ hoang vu:

“tháng Ba, chân trời chớp tía
Những chuyến xe lên đường, cơn mưa chợt đến
Rào qua mái nhà, bàng hoàng. Mưa ngưng bặt
Đêm. Những căn nhà gỗ sáng đèn.
Tháng ba. Trên đồi vông nở
Tôi trở về thị trấn tháng Ba
Những sợi dây trời cắt đau trí nhớ
Cườm tay em nhỏ máu hè xưa…”

Thơ như của lời chia biệt, như người đánh mất tất cả. Pleiku cũng như cả nước phải khoác khăn tang. Nhà Thơ Nguyễn Xuân Thiệp như đã viết lời trăn trối của một thành phố miền cao đầy lãng mạn dễ thương. Xa rồi những ngày thơ mộng. Gần lắm rồi những nỗi kinh hoàng. Cái linh cảm của một cuộc địa chấn là cái linh cảm chung của những người như những con chuột đang cuống cuồng trong rọ. Thị trấn sẽ thành biển lửa, nay mai. Sẽ đầy những cuộc chia ly đầy nước mát. Thảm họa xụp xuống, như cơn hồng thủy đến.

“… vò nát chiếc khăn và đừng khóc
chiều nay. Chớp bể mưa nguồn
chia tay nhau. Sương phụ
người đi râu bám bụi đường
tháng ba. Em. Những căn nhà gỗ
ánh đèn khuya. Vệt máu hè xưa
đừng tiếc chiếc khăn tay ngày ấy
sẽ bay trong lửa hoàng hôn
tháng ba. Cơn giông rền mặt đất”.

Đọc xong hai bài thơ, tôi như ngươì hụt hơi. Đời sống, như một hơi khói nhẹ, loãng bay vào hư không. Tự nhiên, thấy lòng mình chùng xuống những kỷ niệm. Những bài thơ. Thuở đã xa. Ngày còn trẻ. Và hoa quỳ vàng, cái màu vàng loang sắc nắng của buổi nào, bây giờ có còn vương trên núi đồi không? Cái sắc màu hỏa hoàng trong những buổi chiều nhạt nắng ấy sao nhức nhối ký ức…

Lại chiến tranh, và lại chiến tranh. Nhiều tác giả viết về Pleiku khói lửa với tâm cảm của người trong cuộc, của những người đã đổ mồ hôi và đổ máu cho đất Tây Nguyên. Có một nhà thơ đã viết những câu thơ để đời như:

“Chư Pao ai oán hờn trong gió
Mỗi một khăn tang một tấc đường”.

Chư pao là một đỉnh núi khống chế con đường tiếp vận Quốc Lộ 14 từ Pleiku đi Kontum và chính nơi đây cả ngàn tử sĩ của hai bên đã nằm xuống trong những trận chiến ác liệt thời mùa hè đỏ lửa. Người thi sĩ ấy là Lâm Hảo Dũng, một pháo thủ đã có một thời gian chiến đấu ở tây nguyên. Ông làm thơ về tuổi thanh xuân chiến tranh của mình với những địa danh mà ông không thể nào quên trong trí nhớ…

Trong những tập thơ của Lâm Hảo Dũng có nhiều bài thơ ông đã viết về vùng tây nguyên như ”Ngày về Ban Het”, ”Miền Ba Biên giới”, ”Ba năm làm lính về Dakto”… Có một bài thơ mà tôi thích là bài “Chiều Hàm Rồng”. Hàm Rồng là một ngọn búi mà bất cứ ai đã sống ở Pleiku đều biết vì cái hình dạng độc đáo gợi cảm nhớ đến hình dạng của người thiếu nữ. Nhất là các chàng phi công, khi bay từ phía Ban mê Thuật về Pleiku mà nhìn thấy núi Hàm Rồng thì biết là đã gần đến phi trường Cù Hanh rồi. Cái hình dạng giống cái mu rùa ấy sao gợi hình lạ.

Lại những buổi chiều. Hình như cái thời khắc của cuối ngày ấy thường gợi trong lòng những người lính xa nhà những cảm giác bâng khuâng khó quên. Bài thơ ấy chỉ có 3 đoạn mười hai câu:

“con đường ấy vẫn hoen mầu bụi đỏ
Gió lơ thơ nghe nắng mới ngập ngừng
Anh sống thở trong tâm hồn trai trẻ
Nghe nỗi buồn đâu đó đến bâng khuâng
Hoa cúc dại thắm trên đường xa tắp
Và quê hương tha thướt lá xanh trà
Em có thả những chòm mây nhung nhớ
Cho rừng hoang im lắng tiếng chim ca
Đời viễn khách mơ hồ không biết được
Bước chân vang rộn rã buổi quay về
Em mắt biếc hồn nhiên bên cánh cửa
Gửi hương nồng quay quắt bóng người đi”.

Thơ Lâm Hảo Dũng đầy cảm khái. Nhưng hình như ở bên trong người lính vẫn còn hình bóng của cậu học trò mắt biếc với môi tươi…

Thơ ông lãng mạn nhưng vẫn lạc quan:

“nên ta cố sống dù câm điếc
Dù có xuôi tay mắt có mù
Để thấy em ngày vui áo biếc
Để ta buồn suốt một đời thu
Lắm khi gái thượng mà duyên dáng
Đi tắm hò reo đêm sáng trăng
Ta muốn buông mình con thú dữ
Bắt đầu trong suốt kiếp cô đơn
Có không ngày của thanh bình đến
Ta nhớ vườn xưa nhớ mẹ già
Còn hái mồng tơi ngoài dậu cũ
Lệ buồn năm tháng có phôi pha?”

Các nhà thơ Không Quân ở Pleiku cũng có nhiều bài thơ độc đáo. Nói về thơ từ Pleiku mà không có những bài thơ này là một điều thiếu sót lớn theo cảm nhận của nhiều người. Nếu gọi tên những thi sĩ Không Quân thì không thể nhắc đến những tên tuổi như Lê Bá Định, như Hoàng Khai Nhan, như Lê Văn Trước, Võ Ý.

Núi Hàm Rồng nhìn từ máy bay

Ông Võ Ý là một phi công, phi đoàn trưởng phi đoàn quan sát 118 Bắc Đẩu. Ông cũng là người đã tình nguyện lên phố núi ”nhận nơi này làm quê hương dẫu cho khó thương” và làm thơ với cả tấm lòng của mình, một người bay ở trên cao để thấy thiên nhiên tươi đẹp biết bao, để thấy cuộc sống vẫn còn nét mơ mộng hào hoa và với ông những nơi chốn những địa danh của phố núi như ngập tràn nỗi nhớ…

Thơ của những người lướt gió đè mây có lúc lãng mạn hào hùng nhưng cũng có lúc thiết tha nhẹ nhàng của những tháng ngày đầy kỷ niệm như bài thơ “Xưa Trên Đó”

“Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống cô đơn
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền
mưa thì sình bụi mù thay nắng gió
gặp là vui cam khổ cũng cam đành
vui cho quên đâu bằng xưa trên đó
áo bay bay mờ ảo dấu Phượng Hoàng
quên được thì quên nhớ ai thì nhớ
quên cho rồi quyên gọi quốc từ đây
nhớ đâu đâu lạ lùng trăng đêm đó
tượng đá thần linh sao ta tỉnh say.
Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
Đồi như vương cây như vấn chân nàng
Phố cũng xưa và tim thì đau nhói
Quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”

Có người đọc câu “áo ai bay mờ ảo dấu Phượng Hoàng“ tưởng là chàng phi công nghĩ đến cánh chim thần truyền kỳ nào đó. Nhưng thực tế thì không phải. Phượng Hoàng chỉ là một khiên vũ trường của Pleiku mà các tay chơi mặc quần áo lính “đốt tiền mua vội một ngày vui”…

Với tôi thì một phần đời sống của mình ở đó mà không làm thơ cho được. Ngày lên Pleiku, có một bài thơ tôi đã làm như tiên đoán được cái không gian của biên tái, của những câu thơ như Lương Châu Từ của Vương Hạn thời Thịnh Đường xa xưa. Pleiku có khác nào Lương Châu, cũng là quan ải để trấn giữ biên cương. Ngày xưa thì ngăn giặc Hồ, giặc Mông. Ngày nay, thì canh chừng ba biên giới, với những trận đánh ác liệt mùa khô hàng năm tiếp diễn… Bài thơ ấy, làm vào một đêm trước khi sáng mai lên trực thăng vào phố núi:

“Ừ mai tao lên Pleiku
đêm căm hơi đá ngày mù núi xanh
uống say quên mộng quẩn quanh
về nơi gió cát cũng đành cuộc chơi
Ừ mai cánh vỗ ngang trời
ngóng thiên thu một cõi đời tịnh yên
máu xương mãi chuyện ưu phiền
còn đâu tiếng gọi cho em miệt mài
Ừ mai súng khoác lên vai
Ngẩn ngơ phố núi những ngày đao binh
Chắc đâu rượu uống một mình
Trong thân phiêu bạc nhục vinh nửa vời
Ừ mai thương bóng trăng trôi
Chim quên vẫy mỏi cuối trời chiến tranh
Uống đi mai hát quân hành
Nghe trong hơi bốc long lanh mắt người…”

Tuổi trẻ, ngây thơ và bốc đồng. Tưởng rằng, mình như một hiệp sĩ thời xưa đi vào nơi gió cát. Thơ cũng nghênh ngang kiểu “túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tuổi trẻ, ơi những giấc mơ của ngày chân không chấm đất cật chẳng đến giời. Có phải là giấc mơ chung của những người lính trẻ chúng tôi…

Nguyễn Mạnh Trinh

Nguồn: http://www.tvvn.org/nguoi-pleiku-nam-cu-nguyen-manh-trinh/