Phan Nhật Nam , viết ...
- Chung quanh... Bụi, Rác, Và Nỗi Đau!
15/9/2014
1963- Trường Trung Học Ngô Quyền, Biên Hòa vào giờ tan học buổi trưa. Đám học sinh khi qua cổng mất cách huyên náo thường lệ, cụ thể với những nữ sinh đệ nhị cấp, lớp thiếu nữ đang thành những nhân dáng riêng với tuổi học trò đang độ lớn, đến mức trưởng thành, rộ nở. Bởi ngay cổng đang đứng trấn bởi một gã sĩ quan cấp thiếu úy. Áo quần hoa nhảy dù với những hình khối màu nâu, đỏ ngang dọc mạnh mẽ, độc đáo, chiếc mũ đỏ đội lệch và điếu thuốc lá trên môi.. Gã trẻ tuổi còn nguyên vẻ của người mới rời khỏi giảng đường, trường học, dẫu cố làm ra dáng cứng rắn, lính tráng. Viên thiếu úy nhìn săm sắp, tìm kiếm... Đám học sinh chợt ngưng câu chuyện, hạ thấp giọng thì thầm khi đi qua. Cũng bởi, người tỉnh nhỏ đã nhiều lần chứng kiến những hành vi mạnh mẽ quá độ của những gã lính trẻ sống nay, chết mai. Thành phố nằm trong khu bản lề của chiến khu D, chiến khu Hắc Dịch, Rừng Lá, vùng xôi đậu Tân Uyên, Tân Tịch.. của những tỉnh Bình Dương-Biên Hòa- Long Khánh-Phước Tuy, nên dân chúng thường chứng kiến xe GMC chở quan tài lính phủ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ qua thành phố. Cảnh tượng gây nên thương cảm xót xa.. Người chết trận phần đông là con em gia đình trong khu phố. Người ta báo cho nhau những tin chết chóc.. Trung sĩ X Biệt Động Quân cháu ông Tám Mg đầu đường Công Lý. Thiếu Úy Q, anh cả con của gia đình em bác Hai L ngoài Cù Lao Phố.. Tuy nhiên gã thiếu úy hẳn là người xứ lạ đến đây tìm kiếm một điều gì. Hiệu Trưởng Bảo thân hình chắc nịch vạm vỡ, nhân dáng của một võ sĩ hơn là nhà giáo tiến tới tự tin.. Xin lỗi, thiếu úy tìm ai? Gã sĩ quan đổi sắc mặt, vất vội điếu thuốc, lột chiếc nón đỏ xuống cầm tay ấp úng.. Thưa thầy! Hiệu trưởng Bảo thoáng ngạc nhiên.. Anh học tôi ở đâu? Thưa, thưa em không học thầy, nhưng em học thầy B, thầy H.. bạn của thầy; em học Phan Châu Trinh, nhưng thầy hỏi oral em kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp đầu tiên ở Đà Nẵng năm 1958. Hiệu Trưởng Bảo cười vui.. Thế hôm nay cậu đến đây có việc gì? Em đến tìm anh Hoàng, Nguyễn Xuân Hoàng, người Nha Trang, học trên Đà Lạt đến đây dạy.
Vào đến văn phòng, Hiệu Trưởng Bảo lớn tiếng.. Hoàng à, có ông thiếu úy nhảy dù nầy đến tìm toa.
Khi đã ngồi nơi quán T.Hg ở bờ sông, giáo sư Hoàng rạng rỡ.. Quái, tôi đi đâu cũng gặp cậu (Chữ “cậu” có nghĩa thân mật, ngang hàng, không có ý kẻ cả, đàn anh. Hoàng không hề có tính nầy). Ngày xưa sáng tắm biển ở Nha Trang cũng thấy cậu; lên Đà Lạt cũng có, rồi nay gặp lại ở Biên Hòa nầy. Làm sao cậu biết tôi dạy ở Ngô Quyền?
Tôi (Anh hơi ngần ngại trước xưng hộ “anh/em” do biết rõ Hoàng không thích làm “đàn anh” với bất cứ ai. Anh nhớ danh xưng “thầy” với Hiệu Trưởng Bảo).. Tôi đọc thơ của thầy từ học trò của thầy..
- Học trò nào của tôi mà cậu quen?
- Cô học trò giỏi Việt Văn nhất trường Ngô Quyền do được thầy dạy nên đoạt giải thưởng văn chương Lễ Hai Bà Trưng!
- A! Lê Th. Dg
- Đấy cô nhỏ đó, cô ấy đọc thơ của thầy nên tôi mới hỏi ra..
-Thơ làm sao? Hoàng có vẻ thú vị.
Thơ làm từ ngày thầy và tôi còn trên Đà Lạt... Bài, “Đà Lạt mưa hoài nên Đà Lạt buồn. Tôi mang mối sầu trong lòng hiu quạnh...”
Hoàng cười trống vắng... Vớ vẩn bỏ xừ. À nầy cũng lạ, tôi với cậu là hai tuổi khác nhau, làm hai việc khác nhau, mà lại hay gặp nhau và mỗi lần gặp là một lần có chuyện.
- Chưa chắc, lần nầy có chuyện gì đâu? Anh cũng nghĩ đến một chuyện gì đó nhưng không rõ?
- Có rồi! Tôi sắp đổi về dạy Sài Gòn!
- Như vậy là chuyện tốt vì Biên Hòa, Sài Gòn cách nhau chỉ 30 cây số. Biên Hòa chỉ là ngoại ô của Sài Gòn. Biết đâu tôi lại đổi về những tiểu đoàn ở Sài Gòn thì lại gặp thầy mấy hồi.
Khi đưa anh về cổng Căn Cứ Không Đoàn 33, cổng chung vào Tiều Đoàn 7 Nhẩy Dù, giọng Hoàng bỗng nhiên chùng xuống ân cần: Cậu cẩn thận nghe không. Súng đạn vô tình. Tội lắm. Tôi ăn cà-rem V.Hg. nhà ông Đg. H, anh họ của cậu từ 1950! Cẩn thận nghe cậu Nam.
Anh không có anh trai. Không chị gái. Nên anh cần thương yêu huynh đệ/bằng hữu như một an ủi, bù trừ.
1973- Sau thời gian trầy thân khắp mọi vùng đất của miền Nam với cách người lính tác chiến thực thụ, nay anh được về làm lính thành phố với nhiệm vụ trong Ban Liên Hợp Quân Sự, Tân Sơn Nhất. Từ Tháng 10, 1973, Hà Nội phổ biến Nghị Quyết 21 công khai đánh chiếm Miền Nam bằng vũ lực, xé bỏ Hiệp Định Ba Lệ 1973. Phái đoàn gọi là Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam VN tức chính phủ của Mặt Trận giải phóng miền Nam theo lệnh Hà Nội kéo dài những phiên họp không mục đích, không nội dung. Anh được rảnh rỗi nên thường về Sài Gòn tiếp tục sự nghiệp “cầm cái ly” thay vì cầm khẩu súng. Quán Chợ Đũi với những bạn rượu thuộc thành phần khác hẳn với những hảo hớn giang hồ nhà binh từ bao lâu quen mặt, quen tính. Đấy là ông Đoàn “càn” nổi tiếng “càn” từ hồi Trại Định Cư Phú Thọ sau di cư năm 1954; người thành danh từ Đại Học Xá Minh Mạng; đấy là giáo sư Thảo với cách ăn nói thắm thiết đôn hậu; là ông thầy dạy toán lừng lẫy do đã có Chứng Chỉ Toán Đại Cương (MG) từ trước năm 1960... Danh sĩ quanh bàn rượu còn có những tên tuổi kiệt liệt như nhà giáo thi sĩ Tạ Ký, đến chai bia thứ ba thì xỏa đầu tóc bạc, nhìn trân ra khoảng tối với đôi mắt ráo hoảnh thay tiếng thét im lặng; đấy là nhà vận động cách mạng (cách mạng thứ thiệt/rất bản lãnh) Nguyễn Liệu, Hiệu Trưởng Quảng Ngãi Nghĩa Thục, một cơ sở giáo dục hoàn toàn miễn phí, thách đố chế độ gọi là “xã hội chủ nghĩa” của cộng sản Hà Nội. Bàn rượu cũng có người điên sáng suốt một cách thông tuệ mà một thế kỷ văn chương/thi ca/triết học Việt Nam khó có người ngang tầm, cân sức (kể cả “sức điên/tỉnh” rất đáng kính phục), Bùi Giáng. Tay ôm con mèo và tay cầm ly rượu không phân biệt. Và cuối cùng người thường xuyên ngồi bên anh với nét mặt hòa nhã, vui hòa nhưng cách biệt; tham dự nhưng đứng ngoài; nồng nàn góp chuyện nhưng kín đáo giữ lại phần riêng tư. Hoàng hay ngồi cạnh anh nói câu ân tình vừa phải: Rồi tôi với cậu thế nào cũng gặp nhau mà thiệt.
Chúng tôi luôn có với nhau. Sáng 30 Tháng 4, 1975, từ Công Trường Lam Sơn, trước Tòa Đô Chánh anh lên yên, nhấn mạnh bàn đạp, động tác không chủ đích đi dọc đường Lê Văn Duyệt, qua Chợ Đũi, nơi các bạn hôm qua hằng vui vầy, sống động... Anh nhìn vào bàn ghế lổng chổng trống không. Anh đạp dài theo Lê Văn Duyệt giữa giòng âm động dồn dập của Sài Gòn đang hồi tẩm liệm với nhịp chày vồ dộng mạnh xuống trăm, ngàn quan tài. Mà quả thật có nhiều quan tài của những người vừa chết.. Đến trước cổng trại Nguyễn Trung Hiếu, hậu cứ Tiểu Đoàn 1 Dù có một xác con trẻ trần truồng không biết ai ném ra từ bao giờ lên mặt đường. Một cô gái mặc áo dài trắng nữ sinh đi đến, gác chiếc xe đạp mini cạnh lề đường, bình thản, thành thạo đưa máy ảnh lên, lấy góc cạnh chụp thây đứa trẻ chết. Cô gái nhỏ giải thích sành sõi: Chụp để làm chứng tội ác Mỹ-Ngụy trước khi bọn chúng rẫy chết!
Anh vào Cư Xá Sĩ Quan Bắc Hải nay đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, trước 1972 là Tư lệnh phó Sư đoàn Dù. Chuẩn Tướng Hậu đang trải bản đồ trên mui xe jeep, bàn tính với viên sĩ quan nhảy dù có nhiệm vụ an ninh cư xá. Khi biết lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, ông vất tung chiếc bản đồ, gầm lên lời nguyền rủa. Nhưng viên thiếu úy trả lời quyết liệt: "Tôi không đầu hàng, tôi với trung đội sẽ ra bến tàu tiếp tục chiến đấu". Thiếu úy Huỳnh Văn Thái tập họp trung đội, hô nghiêm, xếp hàng, ra lệnh di chuyển. Trung đội lính ra khỏi cư xá theo lối cổng Đường Tô Hiến Thành, rẽ vào Nguyễn Tri Phương, đi về phía chợ Cá Trần Quốc Toản, hướng bến tàu. Nhưng những Người Lính Nhẩy Dù của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái không ra đến bến Bạch Đằng, khi tới đến bùng binh Ngã Sáu Chợ Lớn, họ xếp thành vòng tròn, đưa súng lên trời đồng hô lớn.. Việt Nam Cộng Hoà Muôn Năm! Con chết đây cha ơi! Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng bực nổ sau lời hô vĩnh quyết cùng đất nước Miền Nam. Anh chụp hình những người lính nhảy dù của Thiếu Úy Thái với mùi máu người đọng trên cánh mũi, nơi tròng mắt.
Anh đi qua biên giới tử sinh nầy với mặc cảm phạm tội - Tội sống sót. Không hiểu anh đã về đến nhà theo lối nào, nhưng quả thật đây thật là đoạn đường dài nhất, gớm ghê nhất anh vừa đi qua với cổ đắng, miệng khô rốc, trí óc vỡ loãng trỗng không. Có bóng người đứng trước nhà đường Hồ Biểu Chánh, Phú Nhuận. Hoàng lao tới, chụp ghi-đông xe anh rít lên tiếng kêu không che dấu.. Tại sao! Tại sao... Mầy còn lại ở đây! Tại sao! Anh biết Hoàng lo sợ cho anh chứ không phải vì bản thân. Anh nhìn xuống che dấu giọt nước mắt muốn rơi. Gió thổi những tấm giấy căn cước bọc nhựa của những người di tản lăn lóc trên mặt đường.
Những năm sau khi yên lành ở Mỹ, mỗi dịp Tháng Tư anh nhớ lại Lần Thật Chết Quê Hương. Cũng chỉ một lần Hoàng “mầy/tao” với với anh.
Ba. 2013/2014. Anh không thể nghĩ đây là dạng hình sáng/đẹp/vững chắc/cân đối của người thanh niên đứng trước biển Nha Trang sáng sớm trong thập niên 50. Anh phải tự chứng nhận lại về Người Viết Văn/Làm Báo/Dạy Học với dánh dấp rất đàn ông mà cũng thuần hậu, giản dị của thập niên 60, 70. Nhân dáng mà phần đông những nhân sự trong báo giới/văn giới/học giới Sàigòn thường ngụy trang dưới những hình thái quá độ/dáng kịch/rất dễ nhận. Còn chăng là ánh mắt bình thản của một người biết mình là ai. Người rất biết rõ mình ở nơi đâu. Anh cầm cánh tay gầy yếu của bạn. Anh nghe Hoàng kêu lên tiếng đau trong Ngày 7 Tháng 9: Đau quá! Đau nơi sườn! Nam gọi Vy hộ mình! Đau quá! Anh nghe bạn kêu đau và đột nhiên nhớ rất rõ những lời viết về bằng hữu mà anh làm trong đêm tuyết phủ ở Minnesota mười mấy năm trước...
Bạn đã mang tiếng Kẻ Tà Đạo
Cho Đi Trên Mây cũng chưa cao
Hãy Ngồi Lên Cỏ
Ngôi Nhà Ngói Đỏ
Chung quanh,
Bụi,
Rác,
Và..
Nỗi Đau!
Hóa ra, anh và Nguyễn Xuân Hoàng dù rất khác nhau về nhiều điểm nhưng quả đã chung một điều - Cả hai chưa hề nói với nhau về văn chương, chữ nghĩa, có lẽ trong thâm tâm anh và Bạn đều hiểu rõ tính giới hạn/phù hư/không thực của văn tự - Không đủ sức chuyên chở, bày tỏ Sự Thật Vô Hạn của Nỗi Đau. Đau quá!
Phan Nhật Nam
Nha Trang-Đà Lạt-Biên Hòa-Sàigòn-Cali)
(Sáu- mươi năm trước của 13/9/2014)
Khi đã ngồi nơi quán T.Hg ở bờ sông, giáo sư Hoàng rạng rỡ.. Quái, tôi đi đâu cũng gặp cậu (Chữ “cậu” có nghĩa thân mật, ngang hàng, không có ý kẻ cả, đàn anh. Hoàng không hề có tính nầy). Ngày xưa sáng tắm biển ở Nha Trang cũng thấy cậu; lên Đà Lạt cũng có, rồi nay gặp lại ở Biên Hòa nầy. Làm sao cậu biết tôi dạy ở Ngô Quyền?
Tôi (Anh hơi ngần ngại trước xưng hộ “anh/em” do biết rõ Hoàng không thích làm “đàn anh” với bất cứ ai. Anh nhớ danh xưng “thầy” với Hiệu Trưởng Bảo).. Tôi đọc thơ của thầy từ học trò của thầy..
- Học trò nào của tôi mà cậu quen?
- Cô học trò giỏi Việt Văn nhất trường Ngô Quyền do được thầy dạy nên đoạt giải thưởng văn chương Lễ Hai Bà Trưng!
- A! Lê Th. Dg
- Đấy cô nhỏ đó, cô ấy đọc thơ của thầy nên tôi mới hỏi ra..
-Thơ làm sao? Hoàng có vẻ thú vị.
Thơ làm từ ngày thầy và tôi còn trên Đà Lạt... Bài, “Đà Lạt mưa hoài nên Đà Lạt buồn. Tôi mang mối sầu trong lòng hiu quạnh...”
Hoàng cười trống vắng... Vớ vẩn bỏ xừ. À nầy cũng lạ, tôi với cậu là hai tuổi khác nhau, làm hai việc khác nhau, mà lại hay gặp nhau và mỗi lần gặp là một lần có chuyện.
- Chưa chắc, lần nầy có chuyện gì đâu? Anh cũng nghĩ đến một chuyện gì đó nhưng không rõ?
- Có rồi! Tôi sắp đổi về dạy Sài Gòn!
- Như vậy là chuyện tốt vì Biên Hòa, Sài Gòn cách nhau chỉ 30 cây số. Biên Hòa chỉ là ngoại ô của Sài Gòn. Biết đâu tôi lại đổi về những tiểu đoàn ở Sài Gòn thì lại gặp thầy mấy hồi.
Khi đưa anh về cổng Căn Cứ Không Đoàn 33, cổng chung vào Tiều Đoàn 7 Nhẩy Dù, giọng Hoàng bỗng nhiên chùng xuống ân cần: Cậu cẩn thận nghe không. Súng đạn vô tình. Tội lắm. Tôi ăn cà-rem V.Hg. nhà ông Đg. H, anh họ của cậu từ 1950! Cẩn thận nghe cậu Nam.
Anh không có anh trai. Không chị gái. Nên anh cần thương yêu huynh đệ/bằng hữu như một an ủi, bù trừ.
1973- Sau thời gian trầy thân khắp mọi vùng đất của miền Nam với cách người lính tác chiến thực thụ, nay anh được về làm lính thành phố với nhiệm vụ trong Ban Liên Hợp Quân Sự, Tân Sơn Nhất. Từ Tháng 10, 1973, Hà Nội phổ biến Nghị Quyết 21 công khai đánh chiếm Miền Nam bằng vũ lực, xé bỏ Hiệp Định Ba Lệ 1973. Phái đoàn gọi là Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam VN tức chính phủ của Mặt Trận giải phóng miền Nam theo lệnh Hà Nội kéo dài những phiên họp không mục đích, không nội dung. Anh được rảnh rỗi nên thường về Sài Gòn tiếp tục sự nghiệp “cầm cái ly” thay vì cầm khẩu súng. Quán Chợ Đũi với những bạn rượu thuộc thành phần khác hẳn với những hảo hớn giang hồ nhà binh từ bao lâu quen mặt, quen tính. Đấy là ông Đoàn “càn” nổi tiếng “càn” từ hồi Trại Định Cư Phú Thọ sau di cư năm 1954; người thành danh từ Đại Học Xá Minh Mạng; đấy là giáo sư Thảo với cách ăn nói thắm thiết đôn hậu; là ông thầy dạy toán lừng lẫy do đã có Chứng Chỉ Toán Đại Cương (MG) từ trước năm 1960... Danh sĩ quanh bàn rượu còn có những tên tuổi kiệt liệt như nhà giáo thi sĩ Tạ Ký, đến chai bia thứ ba thì xỏa đầu tóc bạc, nhìn trân ra khoảng tối với đôi mắt ráo hoảnh thay tiếng thét im lặng; đấy là nhà vận động cách mạng (cách mạng thứ thiệt/rất bản lãnh) Nguyễn Liệu, Hiệu Trưởng Quảng Ngãi Nghĩa Thục, một cơ sở giáo dục hoàn toàn miễn phí, thách đố chế độ gọi là “xã hội chủ nghĩa” của cộng sản Hà Nội. Bàn rượu cũng có người điên sáng suốt một cách thông tuệ mà một thế kỷ văn chương/thi ca/triết học Việt Nam khó có người ngang tầm, cân sức (kể cả “sức điên/tỉnh” rất đáng kính phục), Bùi Giáng. Tay ôm con mèo và tay cầm ly rượu không phân biệt. Và cuối cùng người thường xuyên ngồi bên anh với nét mặt hòa nhã, vui hòa nhưng cách biệt; tham dự nhưng đứng ngoài; nồng nàn góp chuyện nhưng kín đáo giữ lại phần riêng tư. Hoàng hay ngồi cạnh anh nói câu ân tình vừa phải: Rồi tôi với cậu thế nào cũng gặp nhau mà thiệt.
Chúng tôi luôn có với nhau. Sáng 30 Tháng 4, 1975, từ Công Trường Lam Sơn, trước Tòa Đô Chánh anh lên yên, nhấn mạnh bàn đạp, động tác không chủ đích đi dọc đường Lê Văn Duyệt, qua Chợ Đũi, nơi các bạn hôm qua hằng vui vầy, sống động... Anh nhìn vào bàn ghế lổng chổng trống không. Anh đạp dài theo Lê Văn Duyệt giữa giòng âm động dồn dập của Sài Gòn đang hồi tẩm liệm với nhịp chày vồ dộng mạnh xuống trăm, ngàn quan tài. Mà quả thật có nhiều quan tài của những người vừa chết.. Đến trước cổng trại Nguyễn Trung Hiếu, hậu cứ Tiểu Đoàn 1 Dù có một xác con trẻ trần truồng không biết ai ném ra từ bao giờ lên mặt đường. Một cô gái mặc áo dài trắng nữ sinh đi đến, gác chiếc xe đạp mini cạnh lề đường, bình thản, thành thạo đưa máy ảnh lên, lấy góc cạnh chụp thây đứa trẻ chết. Cô gái nhỏ giải thích sành sõi: Chụp để làm chứng tội ác Mỹ-Ngụy trước khi bọn chúng rẫy chết!
Anh vào Cư Xá Sĩ Quan Bắc Hải nay đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, trước 1972 là Tư lệnh phó Sư đoàn Dù. Chuẩn Tướng Hậu đang trải bản đồ trên mui xe jeep, bàn tính với viên sĩ quan nhảy dù có nhiệm vụ an ninh cư xá. Khi biết lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, ông vất tung chiếc bản đồ, gầm lên lời nguyền rủa. Nhưng viên thiếu úy trả lời quyết liệt: "Tôi không đầu hàng, tôi với trung đội sẽ ra bến tàu tiếp tục chiến đấu". Thiếu úy Huỳnh Văn Thái tập họp trung đội, hô nghiêm, xếp hàng, ra lệnh di chuyển. Trung đội lính ra khỏi cư xá theo lối cổng Đường Tô Hiến Thành, rẽ vào Nguyễn Tri Phương, đi về phía chợ Cá Trần Quốc Toản, hướng bến tàu. Nhưng những Người Lính Nhẩy Dù của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái không ra đến bến Bạch Đằng, khi tới đến bùng binh Ngã Sáu Chợ Lớn, họ xếp thành vòng tròn, đưa súng lên trời đồng hô lớn.. Việt Nam Cộng Hoà Muôn Năm! Con chết đây cha ơi! Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng bực nổ sau lời hô vĩnh quyết cùng đất nước Miền Nam. Anh chụp hình những người lính nhảy dù của Thiếu Úy Thái với mùi máu người đọng trên cánh mũi, nơi tròng mắt.
Anh đi qua biên giới tử sinh nầy với mặc cảm phạm tội - Tội sống sót. Không hiểu anh đã về đến nhà theo lối nào, nhưng quả thật đây thật là đoạn đường dài nhất, gớm ghê nhất anh vừa đi qua với cổ đắng, miệng khô rốc, trí óc vỡ loãng trỗng không. Có bóng người đứng trước nhà đường Hồ Biểu Chánh, Phú Nhuận. Hoàng lao tới, chụp ghi-đông xe anh rít lên tiếng kêu không che dấu.. Tại sao! Tại sao... Mầy còn lại ở đây! Tại sao! Anh biết Hoàng lo sợ cho anh chứ không phải vì bản thân. Anh nhìn xuống che dấu giọt nước mắt muốn rơi. Gió thổi những tấm giấy căn cước bọc nhựa của những người di tản lăn lóc trên mặt đường.
Những năm sau khi yên lành ở Mỹ, mỗi dịp Tháng Tư anh nhớ lại Lần Thật Chết Quê Hương. Cũng chỉ một lần Hoàng “mầy/tao” với với anh.
Ba. 2013/2014. Anh không thể nghĩ đây là dạng hình sáng/đẹp/vững chắc/cân đối của người thanh niên đứng trước biển Nha Trang sáng sớm trong thập niên 50. Anh phải tự chứng nhận lại về Người Viết Văn/Làm Báo/Dạy Học với dánh dấp rất đàn ông mà cũng thuần hậu, giản dị của thập niên 60, 70. Nhân dáng mà phần đông những nhân sự trong báo giới/văn giới/học giới Sàigòn thường ngụy trang dưới những hình thái quá độ/dáng kịch/rất dễ nhận. Còn chăng là ánh mắt bình thản của một người biết mình là ai. Người rất biết rõ mình ở nơi đâu. Anh cầm cánh tay gầy yếu của bạn. Anh nghe Hoàng kêu lên tiếng đau trong Ngày 7 Tháng 9: Đau quá! Đau nơi sườn! Nam gọi Vy hộ mình! Đau quá! Anh nghe bạn kêu đau và đột nhiên nhớ rất rõ những lời viết về bằng hữu mà anh làm trong đêm tuyết phủ ở Minnesota mười mấy năm trước...
Bạn đã mang tiếng Kẻ Tà Đạo
Cho Đi Trên Mây cũng chưa cao
Hãy Ngồi Lên Cỏ
Ngôi Nhà Ngói Đỏ
Chung quanh,
Bụi,
Rác,
Và..
Nỗi Đau!
Hóa ra, anh và Nguyễn Xuân Hoàng dù rất khác nhau về nhiều điểm nhưng quả đã chung một điều - Cả hai chưa hề nói với nhau về văn chương, chữ nghĩa, có lẽ trong thâm tâm anh và Bạn đều hiểu rõ tính giới hạn/phù hư/không thực của văn tự - Không đủ sức chuyên chở, bày tỏ Sự Thật Vô Hạn của Nỗi Đau. Đau quá!
Phan Nhật Nam
Nha Trang-Đà Lạt-Biên Hòa-Sàigòn-Cali)
(Sáu- mươi năm trước của 13/9/2014)
No comments:
Post a Comment