"Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả, cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về sau." President Ronald Reagan
Tuesday, April 28, 2009
Việt Star Online và Việt Báo On line
Ai Hữu Đồng Đế Kỷ Niệm 30-4 ‘đêm Nhớ Thời Chinh Chiến’ Việt Báo Thứ Tư, 4/29/2009, 12:00:00 AM
Westminster ( Cổ Ngưu )- - Tại câu lạc bộ Hoàng Sa (Nhà hàng Paracel ) hơn 400 quan khách, đại diện các quân binh chủng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đặc biệt có sự tham dự của một số các cựu chiến binh Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam (Vietnam Veterans Association). Các em hậu duệ trong quân phục Biệt Đồng Quân với đầy đủ quân trang, quân dụng như một chiến sĩ tác chiến trông thật oai hùng đã gợi nhớ những ngày sa trường lửa đạn để chống cộng sản xâm lăng.
Đêm nhớ về thời chinh chiến cũng là đêm tưởng niệm nhân ngày 30 tháng 4 để nhớ về những đồng đội đã hy sinh trên chiến trường, trong lao tù cộng sản, những đồng bào đã bỏ mình trong đường tìm tự do. Phần nghi thức chào Quốc Kỳ Việt Mỹ và phút mặc niệm do toán hậu duệ cùng ban hợp ca Hoa Biển phụ trách theo lễ nghi quân cách. Sau đó Quốc Kỳ được gấp lại và đưa lên bàn thờ tổ quốc. Giây phút thật cảm động, trên bàn thờ với 1 cây nén, 1 cái nón sắt, 1 lá cờ POW-MIA, 1 đĩa cơm, 1 đôi đũa và 1 ly rượu.
Bên cạnh là những quân trang, quân dụng, nón sắt, giây ba chạc, áo giáp, súng phóng lựu, M- 16, đại liên M -60. Nhìn cây súng M-16 dựng ngược với cái nón sắt úp trên báng súng một biểu tượng cho người tử sĩ trông thật cảm động. Thiếu Tướng Trần Văn Nhựt trong quân phục Thủy Quân Lục Chiến với nhiều huân chương đeo trên ngực trong đó có Đệ Tam Đảng Bảo Quốc Huân Chương chủ tọa lễ tưởng niệm.
Sau nghi thức tưởng niệm, chương trình văn nghệ "Đêm Nhớ Về Thời Chinh Chiến" với chủ đề vinh danh người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa do ban hợp ca Hoa Biển, Biệt Đoàn Văn Nghệ, với sự cộng tác của các ca sĩ thân hữu như: Phượng Khanh, Lệ Hằng, Xuân Thy, Tuyết Hạnh, Hoàng Dung . . .cùng của toán hậu duệ trong các tiết mục nhạc cảnh qua hình ảnh chiến tranh với những bản nhạc như Anh Đi Chiến Dịch, Vùng Trời Ngày Đó. . .
Cuối chương trình Ong Phạm Hòa, Hội trưởng Đồng Đế, trưởng ban tổ chức lên ngỏ lời cảm ơn tất cả tham dự và Ong cũng cho biết số tiền thu được sau khi trừ chi phí còn lại 1, 700 Mỹ kim, số tiền nầy ban tổ chức sẽ gởi về cho các anh em thương phế binh thuộc quân trường Đồng Đế đang sống cơ cực tại quê nhà trong dịp nầy nhà văn Ninh Thuận cũng đã dành khoản tiền bán sách được $ 280 Mỹ kim để tặng cho anh em thương phế binh Đồng Đế. Chương trình kết thúc trong bầu không khí thân thương của những người lính không bao giờ quên câu " Huynh Đệ Chi Binh."
Wednesday, April 22, 2009
EM KHÔNG NHÌN ĐƯỢC XÁC CHÀNG
Tưởng Niệm Chiến Sĩ QLVNCH
Viết theo chuyện kể của phu nhân Cố Thiếu Tá Lực Lượng Đặc Biệt / Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật / Lôi Hổ - Hồ Đăng Nhựt.
EM KHÔNG NHÌN ĐƯỢC XÁC CHÀNG
"em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong"
Thành kính đốt nén tâm hương, tưởng niệm đến những anh linh chiến sĩ QLVNCH, và đồng đội đã bỏ mình trong cuộc chiến bi hùng cho Tổ Quốc Việt Nam nhân mùa Quốc Nạn - THÁNG TƯ ĐEN.
Lưu Trùng Duơng
Tôi lập gia đình sớm, năm tôi 18 tuổi đã theo chồng ra Nha Trang. Trong thời chiến, tôi cũng như bao thiếu nữ khác phải chấp nhận đời sống vợ của một chiến binh. Chồng tôi là một sĩ quan mới ra trường năm 1962, anh đã tình nguyện vào đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), một đội ngủ làm Cộng quân khiếp viá, đối với Cộng quân những người chiến sĩ này là hình ảnh của tử thần, là đội binh tinh nhuệ -đến trong âm thầm và ra đi trong lặng lẽ, để lại bao kinh hoàng và khiếp đảm đối với chúng. Nhất là "đàn con của Bác" được nhồi sọ từ một chủ thuyết Nga-Tàu, tràn qua giòng Bến Hải đau thương, chứng tích chia lià Nam Bắc. Vượt trường sơn mang theo cuồng vọng, đôi dép râu lê lết bằng những hình hài không tim óc "sanh Bắc tử Nam" dẫm trên đường mòn Hồ Chí Minh ô nhục, một kẻ tội đồ của lịch sử, của dân tộc.
Chồng tôi là một sĩ quan trưởng toán Delta của đơn vị, tôi yêu anh ngoài cái vóc dáng phong sương, thêm vào hình ảnh hiên ngang, oai hùng của nét trai thời đại. Có địa danh nào thiếu dấu chân anh? Từ vùng đất Lào vi vu gió tanh mưa máu, Pleimer gió núi mưa rừng, Đồng Xoài, Bình Giả... máu đổ thịt rơi. Tận đỉnh gió rét mưa phùn của đất Bắc hiểm nghèo chập chùn bất trắc, hiểm họa rình rập theo những bước chân xâm nhập, nổi chết toa rập cùng sương lam chướng khí trực chờ !!!
Nha Trang, quê hương có rặng thuỳ dương và bờ cát trắng, đơn vị chồng tôi được đồn trú tại đó vào năm 1964. Căn cứ trưởng là ông đại úy Nguyễn văn Khách, vị sĩ quan này đã thành lập 5 toán nhảy, mổi toán không hơn 6 người do một sĩ quan Việt và hai cố vấn Mỹ đảm trách. Tên các toán trưởng đầu tiên là anh Phan văn Ninh, Lê kỳ Lân, Nguyễn bính Quan, Nguyễn văn Tùng và chồng tôi là Hồ đăng Nhựt. Đại úy Nguyễn văn Khách đã chỉ huy trại này được một thời gian, ông lại được lệnh thuyên chuyễn đi nơi khác. Sau đó thiếu tá Thơm và đại úy Xuân, anh em thường gọi là "Xuân Thẹo" dù trên khuôn mặt của đại úy Xuân không có vết xẹo nào! có lẽ một cái tên đặc biệt anh em đã tặng cho. Đại uý Xuân từ bên sư đoàn Dù về, hai ông này là xử lý của trại Đằng Vân. Cho đến bây giờ, dù trải qua bao dâu bể vẫn không thể xoáy mòn tâm trí tôi, tôi vẫn còn nhớ cảnh một trận lụt lớn ngập cả thành phố, và cả trại Hoàng Diệu căn cứ của Mỹ cũng như trại Đằng Vân của LLĐB.
EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI
Đến năm 1965, ở Vũng Tàu có một trận chiến rất lớn đó là trận Bình Giả. Lúc này các toán trưởng chuẩn bị theo các trực thăng để thi hành công tác xâm nhập, ngăn chận những nơi Cộng quân di chuyển, tôi chỉ biết có thế thôi. Làm sao tôi có thể vui được, có thể an lòng được trong tâm trạng nổi lòng chinh phụ dõi bóng chinh phu! Cứ mổi lần chàng chuẩn bị đi vào "miền gió cát", nhảy vào giữa lòng đất địch là mổi lần tôi xót xa thầm hỏi: bao giờ chàng trở lại? Ai có từng là vợ của chiến binh mới thông cảm nổi lo âu, niềm đau đợi chờụ, sự cô đơn từng phút của người vợ lính trong thời chiến chinh. Ôi, Đồng Xoài, Bình Giả... đất bằng sẽ phong ba, khói lửa ngút ngàn và chồng tôi sẽ đi vào chốn ấy. Tôi thắt thỏm, tôi héo hon theo từng bước anh đi, tôi đợi anh về mà lòng tơi bời vụn nát....sợ anh về trên đôi nạn gổ, tôi nghẹn ngào nghỉ đến ngày anh trở về "bên hòm gổ cài hoa..." chỉ nghỉ thế thôi mà nước mắt tôi lặng lẽ lăn dài. Tôi rời Nha Trang, tạm biệt chàng, tạm biệt những ngọn thùy dương rì rào những đêm tựa đầu nhau nghe sóng biển ngoài khơi, mang theo kỷ niệm những năm tháng bên chồng trở về gia đình tôi tại Sàigòn.
Sài gòn không có biển, không có thùy dương cát trắng, tôi cảm thấy bồi hồi nôn nao nhớ, bâng khuâng và nuối tiếc những ngày nồng nàn phấn hương đã vội qua.... "Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi", Sài gòn vẫn nhộn nhịp bao tà áo, từ quán cà phê Continental giọng hát trầm ấm, truyền cảm của Sĩ Phú vọng ra "nắng Sài gòn em đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông". Trời ơi, tôi còn tâm trí nào để chìm đắm trong những giòng âm thanh đó, tôi vội bước nhanh để xa rời tiếng hát như muốn rượt đuổi theo. Một sự tương phản đầy ray rứt như riễu cợt, cách vài mươi cây số đường chim, bay súng nổ đạn bay, thây người ngả qụy. Khuôn mặt diễm lệ Sài gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông mà đối với tôi, nó như những loại trang sức diêm dúa trên thân xác loang lổ đạn bom, trên hình hài còm cỏi của Mẹ Việt Nam! Tôi làm gì có áo lụa Hà Đông để mặc, nổi ước mơ đó đối với tôi là vô nghiã, tôi chỉ cần có chàng, tha thiết bên chàng mà thôi. Nhất định anh phải trở về và về nguyên vẹn hình hài nha anh, nha Hồ đăng Nhựt dấu yêu của em!
Chồng tôi từ hậu cứ Nha Trang về Vũng Tàu để chuẩn bị hành quân, buổi chiều, nhận được tin của người anh gọi tôi ra để gặp chàng. Năm đó tôi mang thai đứa con đầu lòng được ba tháng, đến cổng trại vào lúc 6 giờ chiều tôi đã gặp thiếu tá Thơm, đại úy Mai việt Triết và đại úy Xuân đang đứng trước trại. Tôi hỏi xin cho gặp chàng, các ông ấy nói: thiếm đã đến trể mất rồi, Nhựt mới vừa từ giả chúng tôi bước ra bãi phi cơ trực thăng. Từ trong vô thức não nùng chợt ùa về loáng thoáng bên tai những vần thơ Cung Oán Chinh Phụ : "bóng chàng đỏ tợ ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in". Cũng một buổi chiều chiến chinh năm xưa, người chinh phụ tiễn đưa chinh phu lên đường ra trận mạc, con tuấn mã trắng phau như màu tuyết hí vang lừng, cất vó uy nghi nổi bậc bên giáp trận rực đỏ như màu ráng cuối trời quan tái. Tôi, hôm nay đơn lẽ, nước mắt đoanh tròng đứng nhìn theo từng chiếc trực thăng từ từ cất cánh, tiếng động cơ ầm đùng, gió bụi xoáy cả một vùng, tâm tư tôi rối bời như cỏ úa, loạn cuồng theo từng vòng quay cánh quạt, lòng quặn thắt từng cơn nhìn đàn chim sắt khuất dần về hướng đông bắc Bình Giả trong màu tím thẳm của sương khói hoàng hôn mờ nhân ảnh...!!! Bình Giả, một địa danh đang sôi sục lửa chiến tranh......thần chết đang đợi chờ, chốc nữa đây chàng sẽ hiện diện nơi đó!!! Trận đánh này có nhiều đơn vị bộ binh kể cả tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh đã quyết liệt diễn ra, tiếng bom đạn vọng về..... Cộng quân tổn thất nặng nề, nhiều chiến sĩ quốc gia cũng đã hy sinh. Những toán hoạt động của chồng tôi đã bị lộ, nên anh đã băng rừng vượt suối mấy ngày đêm liên tục mới ra được núi Thị Vãi tại Bà Rịa. Chàng đã nguyên vẹn trở về, cám ơn thượng đế che chở cho chàng, chúng tôi bên nhau những ngày phép ngắn ngủi tại Sài gòn.
Đến năm 1966 các anh toán trưởng cũng lần lượt mổi người một nơi, riêng chồng tôi vẫn ở lại đơn vị cũ. Lúc bấy giờ Chỉ Huy Trưởng trại Đằng Vân là Phan duy Tất, ông này về không bao lâu lại thành lập thêm mấy toán nữa. Tôi nhớ những toán trưởng rất trẻ là: Ngô văn Thơm, Tô Mười, Nguyễn ngọc Thiệp, Trần anh Tuấn, Nguyễn văn Biên,v.v... các toán trưởng lần lượt thay phiên nhau đi hết cuộc hành quân này đến cuộc hành quân khác. Các địa danh đẫm máu như Phú Bài, Bồng Sơn, Chu Lai, Khe Sanh, Huế, Điện Biên Phủ.... cường độ chiến tranh leo thang, tiếp theo là Pleimer, trận chiến này các đội và trưởng toán đã hy sinh rất nhiều.. Trong lần tử thương này, tôi chỉ nhớ có 2 người bạn của chồng tôi là đại úy Nghi và Nguyễn văn Bảy, anh em thường gọi là "Bảy Lùn". Trong cảnh đạn lửa trùng điệp, nhiều phi công trực thăng của không lực VNCH, khi thấy đồng đội bên dưới bị nguy khốn đã bất chấp mạng sống, liều thân trong các phi vụ đổ quân và tiếp tế lương thực. Nhiều chiếc đã bị bắn rơi tan tành, lửa bốc cháy ngút trời. Lúc đó có trung úy phi công trực thăng Nguyễn văn Vui, liều một phen sinh tử đem mạch sống cho đồng đội bằng những thùng lương thực.Từ trên cao trung úy Vui bổng thình lình "cúp" máy cho phi cơ rơi xuống như khối sắt và quay 180 độ, gần đến mặt đất cho trực thăng nổ máy lại, thán phục thay người phi công dũng cảm của QLVNCH.
Đầu năm 1967, tôi lại mang thêm đứa thứ hai mới sanh gần một tháng, vợ của anh Nguyễn Ngọc Thiệp cùng sanh một lượt, cô này là em chồng của tôi. Lúc này chồng tôi đang hành quân tại Vùng Hai Chiến Thuật sắp về, tôi được tin từ Sài gòn và ra hậu cứ đón chồng, thường khi mỗi lần xong công tác là anh được đi phép. Trong lúc chờ phi cơ trở về Sàigòn, anh Nguyễn ngọc Thiệp bị tử nạn do thùng tiếp tế lương thực từ trực thăng Mỹ rớt xuống, cái chết của anh Thiệp rất thảm thương. Ôi, chinh chiến! bất hạnh từng ngày đến với dân tộc Việt Nam, đứa con của anh Thiệp mới chào đời còn đỏ hỏn đã vĩnh viễn không thấy mặt cha và vành khăn sô oan nghiệt vội quấn trên đầu người vợ trẻ. Hôm sau chồng tôi đưa xác Thiệp -người em rể trở về Sàigòn an táng. Những ngày phép qua mau trong sự buồn bả, mất mát của người thân. Anh trở lại đơn vị, tôi lại theo chàng về Nha Trang sau 3 tháng sanh nở.
Năm Mậu Thân 1968, tôi trở về Sài gòn và đứa con thứ ba đã chào đời. Việt Cộng đột nhập và tấn công thành phố Sài gòn, khắp các tỉnh lỵ đều nổ súng. Trong trận Mậu Thân chồng tôi lại mất thêm một đồng đội, trung úy Nguyễn văn Tùng đã tử trận tại Tòa Tỉnh Trưởng Nha Trang lúc hai bên kịch chiến. Nữa năm sau ông Phạm duy Tất đã thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật, chồng tôi đã phục vụ trong LLĐB từ năm 1962 đến năm 1968. Lúc này anh được lệnh thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật nhận chức vụ Trung Tâm Hành Quân của C.3 tại Biên Hòa. Sau đó ông Chỉ Huy Trưởng là trung tá Phạm duy Tất đưa anh nhận chức làm trưởng trại Chí Linh ở Sông Bé, được một thời gian anh đi qua trại Tống Lê Chân ở Bình Long và Lộc Ninh. Đến năm 1969 anh coi trại Tống Lê Chân, sau cùng anh về B.3 hành quân ở B.15 cho đến năm 1972.
Năm 1972, khởi đầu của Mùa Hè Đỏ Lửa, đỉnh tận cùng của điêu linh, thẳm sâu của tang tóc, đẩy người dân xuống cuối đáy địa ngục. Chiến trường trở nên khốc liệt hơn, kinh khủng hơn, tàn bạo hơn....bom đạn cày nát mãnh đất quê hương nghèo khó. Mẹ Việt Nam mở trừng mắt máu lệ đầm đià, hơi thở Mẹ Việt Nam đứt quảng từng hồi, thân thể Mẹ Việt Nam run rẩy từng cơn, tan hoang như địa chấn, sụp đổ như cơn đại hồng thủy.... Trước bờ vực thẳm tử sinh, người dân miền Nam từng bước gập ghềnh, chênh vênh trên chiếc cầu định mệnh. Máu và nước mắt, thây người và khăn sô...!!!
Đến cuối 1972 LLĐB được lệnh giải tán để bổ xung qua các lực lượng bạn như: Biệt Động Quân Biên Phòng, Nha Kỷ Thuật và các quân binh chủng khác. Anh đã chọn về Sở Liên Lạc Nha Kỷ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu và làm việc tại đó cho đến cuối năm 1974.
ÁO BÀO THAY CHIẾU ANH VỀ ĐẤT
Đầu năm 1975, anh được lệnh đi nắm Bộ Chỉ Huy nhẹ ở Chiến Đoàn 2 tại Ban Mê Thuộc và Kontum. Lúc này tình hình chiến sự trở nên căn thẳng, hổn loạn, phương tiện di chuyễn vô cùng khan hiếm và khó khăn. Hai ngày ròng rã chờ đợi tại phi trường Tân Sơn Nhất nhưng vẫn không có phi cơ, anh đành lên phi trường Biên Hòa và đã được lên đường sau đó. Khi đến trình diện tại Chiến Đoàn 2, mỗi sĩ quan phải thay phiên nhau hành quân 10 ngày. Đến ngày 20 tháng 3 năm 1975, thiếu tá Cao triều Phát đã đem lương lên căn cứ hành quân để phát cho anh em. Ông thiếu tá Phát bảo chồng tôi, "mầy" đã xong công tác rồi, có đi theo chuyến bay này về không? Anh không muốn xa đồng đội trong lúc này, nhất là lúc tình hình đang rối ren vì được lệnh sắp rút quân để di tản chiến thuật, hơn nữa các bạn anh đề nghị thôi chúng mình sẽ về chung cho vui. Vì vậy, anh đã nhờ thiếu tá Phát mang tiền lương về cho tôi, anh chỉ giữ lại 500 đồng để tiêu xài và nhắn vài hôm sau anh sẽ về Sài gòn.
Trên đường rút quân "triệt thoái cao nguyên", dọc theo quốc lộ sự di chuyển rất hổn tạp. Anh được lệnh thượng cấp dẫn quân đi tiên phong để mở đường, bảo vệ và đưa dân chúng về đồng bằng tránh khỏi nạn đau binh và cướp bốc. Sáng ngày 25 tháng 3, anh điện về gặp tôi và báo ngày mai sẽ gặp mẹ con tôi tại Sài gòn, chỉ còn 24 giờ ngắn ngũi, tôi chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn niềm vui cho cuộc tương phùn. Chiều cùng ngày trên đường rút quân, anh cùng thiếu tá Hải và vài sĩ quan nữa trên xe, một trái đạn B.40 từ phiá Cộng quân mai phục bắn trúng ngay người tài xế cháy không còn xác, thiếu tá Hải văng ra khỏi xe bị cháy đen, riêng chồng tôi bị dập nát mặt nhìn không ra. Trong xe chết 3 người, còn lại 3 người đều bị thương không nguy hiểm đến tánh mạng.
Như thường lệ mổi sáng, từ khu cư xá gia binh của trại Nguyễn cao Vĩ trên chiếc Honda ra cổng đưa con đi đến trường, tôi đã thấy trung úy Thọ và thượng sĩ Sanh, hai người này chận tôi lại, đôi mắt ái ngại và ngập ngừng cho tôi biết hung tin: Xin chị bình tỉnh, tin chính xác báo cho biết đại úy Hồ đăng Nhựt đã tử thương trên đường rút quân chiều hôm qua. Tôi như bị sét đánh, tim tôi như ngưng đập, trước mặt tôi cảnh vật bổng tối sầm và đảo lộn, tai tôi ù lên những tiếng kêu quái dị, mặt đất bổng nhiên nhấp nhô dậy sóng. Tôi rụng rời, tôi chao đão, tôi ngả qụy chiếc xe Honda với đứa con tôi cũng đổ theo. Các anh em mang tôi vào bệnh xá, sau khi hồi phục tôi làm thủ tục đi nhận lãnh xác chồng.
" Ngày mai đi nhận xác chồng, ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ". Trời ơi, Hồ đăng Nhựt ơi! Anh đã bỏ mẹ con em, anh đã bỏ lại bạn bè và đồng đội trong lúc đất nước đang hồi nghiệt ngã. Tôi cùng các anh em đi đến Nghiã Trang Quân Đội tại Biên Hòa, được một chú lính đưa tôi đi qua dãy hộc tủ chứa đựng tử thi và cuối cùng chúng tôi dừng lại. Dừng lại để chấp nhận một sự bẽ bàng, dừng lại để gói trọn một vụn vỡ đến tê dại toàn thân, nhận một kiếp đời góa phụ. Chiếc hộc tủ gói gọn hình hài của thiếu tá Hải và thân xác chồng tôi đang nằm bất động. Trời ơi ! "em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong", thi hài chồng tôi nằm trên chiếc băng ca, khuôn mặt đã bể nát, tôi chỉ nhận diện chàng qua tấm thẻ bài. Tấm thẻ bài này nó đã từng theo chàng qua những đoạn đường máu lửa, nó đã từng ấp ủ nhớ thương về người vợ bé nhỏ và đàn con dại mổi khi dừng bước quân hành giữa lưng đồi của rừng khuya tịch mịch, cuối rặn sim bạt ngàn. Bây giờ "áo bào đã thay chiếu anh về đất" yêu đương kia đã cùng anh chấp cánh bay tới một vùng trời miên viễn...!!!
ĐÁ NÁT VÀNG TAN
Vài hôm sau thành phố rất lộn xộn, trong cư xá đạn bay xối xã, lúc đó tôi nhờ em tôi đưa 5 đứa con về nhà trước phần tôi thu xếp về sau. Chỉ có một đêm đường xá bị giới nghiêm và thiết quân lực, tôi nóng ruột không biết các con tôi như thế nào. Một tháng nặng nề ngột ngạt đè nặng trên đầu người dân Sài gòn...... Đến trưa ngày 30 tháng 4, các anh em quân nhân vượt qua cổng trại cư xá Nguyễn cao Vĩ....tôi ngơ ngác nhìn và chạy theo. Sài gòn súng nổ, Sài gòn đạn lạc tên bay, tiếng pháo Cộng quân ầm đùm, tiếng xích sắt thô bạo nghiền nát mặt đường, giờ phút hấp hối của Sàigòn, cơn đá nát vàng tan đã đến. Quyết một phen trống mái ngăn chận Cộng quân xâm nhập thủ đô, trên bầu trời những chiếc phi cơ đang vầng vũ đánh bom bảo vệ vòng đai Sàigòn, một chiếc bốc cháy chói lòa như hành tinh lạc thể rồi nổ tung tóe, tan tành từng mảnh rơi lả chã, một chiếc khác gẫy cánh quay như con vụ rồi chúi đầu, sau tiếng nổ từng cụm khói đen nghịch bốc lên cao. Sài gòn bốc cháy, Sài gòn loạn lạc, Sài gòn tiếng kêu la thất đảm. Kẻm gai như mạng nhện bủa giăng, nhiều anh em quân nhân súng lăm lăm trong tay bám chặt chốt. Tôi thấy những người Lính Mũ Đỏ đang đau thương rũ cánh "Thiên Thần", giày sô "shaute" còn bám chặt gót chân gió bụi mà áo trận lạc mất nơi nào? chỉ còn tấm thân trần với những xâu lựu đạn để bảo vệ thành đô, hai tay cầm hai trái phá đang chạy tới, chạy lui. Tôi như một cái xác phờ phạt, hồn đã thất lạc tự bao giờ. Tôi chạy về hướng ngã tư Bảy Hiền định ghé vào nhà người chị, nhưng căn nhà bị đổ nát tan hoang vì đạn pháo của địch quân, không biết họ đã tan thây trong đóng gạch vụn đó hay chạy phương nào ? Tôi lại trở ra đường Nguyễn văn Thoại , vừa đi vừa chạy về nhà trên đường Lý Thái Tổ, năm đứa con tôi vẫn còn đang chờ. Mẹ con chúng tôi ôm nhau òa khóc.
Chiều 30/4 người người bỏ chạy tìm tự do, người người thất lạc. Hoàn cảnh và cuộc sống chật vật của một người vợ chiến binh, hơn nữa chàng vừa nằm xuống từ giả cuộc chiến bi hùng này, mồ chưa khô đất và cỏ khâu chưa lên mầm. Tang chồng vẫn nặng trỉu trên đầu tôi với cái tuổi vừa 30, lại chất thêm một cái tang cho đất nước. Hai vai gầy gánh vác đau thương trong cảnh mẹ góa, con côi, đứa con lớn nhất chỉ có tám tuổi và đứa nhỏ nhất mới được 18 tháng, tôi biết làm gì đây trong thảm trạng này, trong cảnh thê lương của "Sài gòn hoang lạnh ơ thờ, môi người goá phụ nhạt mờ màu son...." Nhựt ơi, em phải làm gì đây anh, em phải làm gì và mẹ con em phải sống làm sao trong những ngày tháng đến ???
Cuộc đời sao lắm nổi chuân truyên, sao quá đổi đoạn trường đối với người vợ Lính?! Tôi lại phải tiếp tục sống và phải sống dưới một lớp người mới, một thể chế mới mà đối tượng là giai cấp, là độc tài, là hà khắc dã man. Tôi trong tâm trạng như hóa đá, qua câu chuyện nàng Tô Thị bồng con lên tận đỉnh núi từng chiều dõi bóng chinh nhân. Nhưng nàng Tô Thị dù sao vẫn còn nhiều hạnh phúc hơn tôi, tôi là đối tượng của một giai cấp thống trị mới của bọn vô thần, tôi là vợ của một sĩ quan chế độ cũ, vợ của một "ngụy quân", họ đã lên án tôi như thế. Chồng tôi đã gục ngả trên đường rút quân, tôi đã lịm chết bao lần trước cổ quan tài, lòng huyệt lạnh đã cách ngăn chúng đôi miền: dương-cảnh. Tôi còn gì để mà ngóng trông như nàng Tô Thị, có còn chăng chỉ là 5 đứa con thơ dại, tôi phải tảo tần buôn gánh, bán bưng để sống qua ngày hai buổi cháo rau...!
ĐỜI NGƯỜI NHƯ CHIẾC LÁ
Con nước xoáy trăm giòng rồi cũng về biển khơi, con người trong cảnh đời quay quắt, ngược xuôi rồi tới lúc cũng dừng lại. Tôi được giấy bảo lãnh từ Hoa Kỳ của em tôi và được phái đoàn phỏng vấn. Trải qua bao khó khăn về tài chánh, về mọi mặt....nào có bình thường và dễ dàng như bao gia đình khác? cuối cùng chúng tôi được lên đường. Hành trang mang theo một gia tài hom hem nghèo khó, cùng 5 đứa con đã trưởng thành. Phi cơ cất cánh, tưởng rằng tuyến nước mắt tôi đã khô cạn trong đời sống khổ nạn, tự dưng nó lăn dài trên đôi má hóp sạm đen mưa nắng, trên khuôn mặt hóc hác tiều tụy; trong những giọt lệ đó đã hòa lẫn những vui buồn, tôi thoát khỏi địa ngục trần gian, từ biệt "thiên đàng" Cộng Sản. Trạm dừng chân đầu tiên tại Thái, chuyến đi lưu lại 10 ngày tại đó, rồi Tokyo, San Francisco, và chúng tôi đã đến Kansas city đoàn tụ với người em gái thứ 5 nơi thành phố này.
Vượt qua những khó khăn trên xứ người lúc đầu tiên, nhân tình thế sự biến đổi theo hoàn cảnh đó là chuyện thường hằng trong bất cứ một đời sống nào. Tôi xuôi Nam về miền Cali nắng ấm tại quận Cam, tôi đã quen với đời sống mới, gặp lại những đồng đội của chồng tôi năm xưa. Trong một tình cờ giữa tiệc cưới con của người bạn cũ, tôi gặp được đại tá Ngô Thế Linh do các anh em giới thiệu... Sau đó tôi quyết định về San Jose vào tháng hai và nghe tin đại tá Ngô Thế Linh đã từ trần. Đến tháng 3 bên Sở Liên Lạc các anh đã tổ chức ngày giổ của chồng tôi rất trọng đại, niềm an ủi to lớn sau bao năm tháng nhục nhằn. Nước mất nhà tan, trong cảnh đời tha phương lạ cảnh, lạ người nhưng tình đồng đội vẫn còn gắn bó, cao qúy thay cho cái tình huynh đệ chi binh.
Những chiều ở đây mổi độ tháng tư về, tôi nhớ quê, nhớ nhà và nhớ bao chiến sĩ đã nằm xuống cho quê hương, trong đó có Hồ đăng Nhựt -chồng của tôi, anh đã làm xong bổn phận của người trai thời loạn. Giờ đây niềm đau bại trận luôn đeo đẳng theo các anh -những người Lính sau cuộc xảy nghé tan đàn, các anh bị bức tử một cách bi phẫn trong một cuộc chiến đấu oai hùng. Các anh đang trôi dạt trên xứ người, cuộc chiến đó còn dỡ dang và đang tiếp diễn trên một chính trường không phải bằng súng gươm, mà bằng lập trường, bằng khối óc, bằng Lý Tưởng QUỐC GIA và DÂN TỘC. Máu các anh đã tô thắm cho màu cờ, nhưng đất nước vẫn nằm trong loài qủy đỏ, tôi luôn hỵ vọng và tin tưởng vào các anh, những người chiến sĩ can trường của QLVNCH.
CỔ LAI CHINH CHIẾN KỶ NHÂN HỒI
Một chút niềm riêng về Nha Trang dấu yêu ngày tháng cũ. Nha Trang những ngày mưa đổ điù hiu se sắc buồn. Nhớ những ngày đơn độc trong trại gia binh, nhớ Duy Tân con đường dọc theo bờ biển đèn ngoài khơi nhấp nháy như ngàn sao, phố đêm Nha Trang trông huyền ảo lấm tấm như ngàn trân châu trải đều trên nét xiêm hài nhung thẳm của giai nhân. Tất cả chìm sâu vào đáy dĩ vãng rong rêu, mổi lần hồi tưởng lòng tôi lại rạt rào thương tủi, lòng tôi lại trào dâng bao kỷ niệm. "Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" hình bóng chinh nhân khi ẩn, khi hiện, nổi trôi theo từng dòng chữ, từng âm thanh đứt lià "vẵng nghe tự đáy hồn thương tích, bao tiếng kèn truy điệu năm xưa."
Bây giờ là THÁNG BA. Bây giờ đã từ bao độ mất chàng, mất quê hương. Vâng bây giờ là tháng 3, đã 34 năm dài, mùa Quốc Nạn, mùa đau thương phủ trùm trên "Quê Hương Nghìn Trùng Tang Trắng". Trong một góc sâu thẳm của lòng tôi, hình ảnh cố thiếu tá Hồ đăng Nhựt, người chồng thân yêu đã anh dũng ĐỀN XONG NỢ NƯỚC.
San Jose, Mùa Quốc Nạn.
Lưu Trùng Duơng
EM KHÔNG NHÌN ĐƯỢC XÁC CHÀNG
Tưởng Niệm Chiến Sĩ QLVNCH
Viết theo chuyện kể của phu nhân Cố Thiếu Tá Lực Lượng Đặc Biệt / Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật / Lôi Hổ - Hồ Đăng Nhựt.
EM KHÔNG NHÌN ĐƯỢC XÁC CHÀNG
"em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong"
Thành kính đốt nén tâm hương, tưởng niệm đến những anh linh chiến sĩ QLVNCH, và đồng đội đã bỏ mình trong cuộc chiến bi hùng cho Tổ Quốc Việt Nam nhân mùa Quốc Nạn - THÁNG TƯ ĐEN.
Lưu Trùng Duơng
Tôi lập gia đình sớm, năm tôi 18 tuổi đã theo chồng ra Nha Trang. Trong thời chiến, tôi cũng như bao thiếu nữ khác phải chấp nhận đời sống vợ của một chiến binh. Chồng tôi là một sĩ quan mới ra trường năm 1962, anh đã tình nguyện vào đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), một đội ngủ làm Cộng quân khiếp viá, đối với Cộng quân những người chiến sĩ này là hình ảnh của tử thần, là đội binh tinh nhuệ -đến trong âm thầm và ra đi trong lặng lẽ, để lại bao kinh hoàng và khiếp đảm đối với chúng. Nhất là "đàn con của Bác" được nhồi sọ từ một chủ thuyết Nga-Tàu, tràn qua giòng Bến Hải đau thương, chứng tích chia lià Nam Bắc. Vượt trường sơn mang theo cuồng vọng, đôi dép râu lê lết bằng những hình hài không tim óc "sanh Bắc tử Nam" dẫm trên đường mòn Hồ Chí Minh ô nhục, một kẻ tội đồ của lịch sử, của dân tộc.
Chồng tôi là một sĩ quan trưởng toán Delta của đơn vị, tôi yêu anh ngoài cái vóc dáng phong sương, thêm vào hình ảnh hiên ngang, oai hùng của nét trai thời đại. Có địa danh nào thiếu dấu chân anh? Từ vùng đất Lào vi vu gió tanh mưa máu, Pleimer gió núi mưa rừng, Đồng Xoài, Bình Giả... máu đổ thịt rơi. Tận đỉnh gió rét mưa phùn của đất Bắc hiểm nghèo chập chùn bất trắc, hiểm họa rình rập theo những bước chân xâm nhập, nổi chết toa rập cùng sương lam chướng khí trực chờ !!!
Nha Trang, quê hương có rặng thuỳ dương và bờ cát trắng, đơn vị chồng tôi được đồn trú tại đó vào năm 1964. Căn cứ trưởng là ông đại úy Nguyễn văn Khách, vị sĩ quan này đã thành lập 5 toán nhảy, mổi toán không hơn 6 người do một sĩ quan Việt và hai cố vấn Mỹ đảm trách. Tên các toán trưởng đầu tiên là anh Phan văn Ninh, Lê kỳ Lân, Nguyễn bính Quan, Nguyễn văn Tùng và chồng tôi là Hồ đăng Nhựt. Đại úy Nguyễn văn Khách đã chỉ huy trại này được một thời gian, ông lại được lệnh thuyên chuyễn đi nơi khác. Sau đó thiếu tá Thơm và đại úy Xuân, anh em thường gọi là "Xuân Thẹo" dù trên khuôn mặt của đại úy Xuân không có vết xẹo nào! có lẽ một cái tên đặc biệt anh em đã tặng cho. Đại uý Xuân từ bên sư đoàn Dù về, hai ông này là xử lý của trại Đằng Vân. Cho đến bây giờ, dù trải qua bao dâu bể vẫn không thể xoáy mòn tâm trí tôi, tôi vẫn còn nhớ cảnh một trận lụt lớn ngập cả thành phố, và cả trại Hoàng Diệu căn cứ của Mỹ cũng như trại Đằng Vân của LLĐB.
EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI
Đến năm 1965, ở Vũng Tàu có một trận chiến rất lớn đó là trận Bình Giả. Lúc này các toán trưởng chuẩn bị theo các trực thăng để thi hành công tác xâm nhập, ngăn chận những nơi Cộng quân di chuyển, tôi chỉ biết có thế thôi. Làm sao tôi có thể vui được, có thể an lòng được trong tâm trạng nổi lòng chinh phụ dõi bóng chinh phu! Cứ mổi lần chàng chuẩn bị đi vào "miền gió cát", nhảy vào giữa lòng đất địch là mổi lần tôi xót xa thầm hỏi: bao giờ chàng trở lại? Ai có từng là vợ của chiến binh mới thông cảm nổi lo âu, niềm đau đợi chờụ, sự cô đơn từng phút của người vợ lính trong thời chiến chinh. Ôi, Đồng Xoài, Bình Giả... đất bằng sẽ phong ba, khói lửa ngút ngàn và chồng tôi sẽ đi vào chốn ấy. Tôi thắt thỏm, tôi héo hon theo từng bước anh đi, tôi đợi anh về mà lòng tơi bời vụn nát....sợ anh về trên đôi nạn gổ, tôi nghẹn ngào nghỉ đến ngày anh trở về "bên hòm gổ cài hoa..." chỉ nghỉ thế thôi mà nước mắt tôi lặng lẽ lăn dài. Tôi rời Nha Trang, tạm biệt chàng, tạm biệt những ngọn thùy dương rì rào những đêm tựa đầu nhau nghe sóng biển ngoài khơi, mang theo kỷ niệm những năm tháng bên chồng trở về gia đình tôi tại Sàigòn.
Sài gòn không có biển, không có thùy dương cát trắng, tôi cảm thấy bồi hồi nôn nao nhớ, bâng khuâng và nuối tiếc những ngày nồng nàn phấn hương đã vội qua.... "Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi", Sài gòn vẫn nhộn nhịp bao tà áo, từ quán cà phê Continental giọng hát trầm ấm, truyền cảm của Sĩ Phú vọng ra "nắng Sài gòn em đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông". Trời ơi, tôi còn tâm trí nào để chìm đắm trong những giòng âm thanh đó, tôi vội bước nhanh để xa rời tiếng hát như muốn rượt đuổi theo. Một sự tương phản đầy ray rứt như riễu cợt, cách vài mươi cây số đường chim, bay súng nổ đạn bay, thây người ngả qụy. Khuôn mặt diễm lệ Sài gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông mà đối với tôi, nó như những loại trang sức diêm dúa trên thân xác loang lổ đạn bom, trên hình hài còm cỏi của Mẹ Việt Nam! Tôi làm gì có áo lụa Hà Đông để mặc, nổi ước mơ đó đối với tôi là vô nghiã, tôi chỉ cần có chàng, tha thiết bên chàng mà thôi. Nhất định anh phải trở về và về nguyên vẹn hình hài nha anh, nha Hồ đăng Nhựt dấu yêu của em!
Chồng tôi từ hậu cứ Nha Trang về Vũng Tàu để chuẩn bị hành quân, buổi chiều, nhận được tin của người anh gọi tôi ra để gặp chàng. Năm đó tôi mang thai đứa con đầu lòng được ba tháng, đến cổng trại vào lúc 6 giờ chiều tôi đã gặp thiếu tá Thơm, đại úy Mai việt Triết và đại úy Xuân đang đứng trước trại. Tôi hỏi xin cho gặp chàng, các ông ấy nói: thiếm đã đến trể mất rồi, Nhựt mới vừa từ giả chúng tôi bước ra bãi phi cơ trực thăng. Từ trong vô thức não nùng chợt ùa về loáng thoáng bên tai những vần thơ Cung Oán Chinh Phụ : "bóng chàng đỏ tợ ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in". Cũng một buổi chiều chiến chinh năm xưa, người chinh phụ tiễn đưa chinh phu lên đường ra trận mạc, con tuấn mã trắng phau như màu tuyết hí vang lừng, cất vó uy nghi nổi bậc bên giáp trận rực đỏ như màu ráng cuối trời quan tái. Tôi, hôm nay đơn lẽ, nước mắt đoanh tròng đứng nhìn theo từng chiếc trực thăng từ từ cất cánh, tiếng động cơ ầm đùng, gió bụi xoáy cả một vùng, tâm tư tôi rối bời như cỏ úa, loạn cuồng theo từng vòng quay cánh quạt, lòng quặn thắt từng cơn nhìn đàn chim sắt khuất dần về hướng đông bắc Bình Giả trong màu tím thẳm của sương khói hoàng hôn mờ nhân ảnh...!!! Bình Giả, một địa danh đang sôi sục lửa chiến tranh......thần chết đang đợi chờ, chốc nữa đây chàng sẽ hiện diện nơi đó!!! Trận đánh này có nhiều đơn vị bộ binh kể cả tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh đã quyết liệt diễn ra, tiếng bom đạn vọng về..... Cộng quân tổn thất nặng nề, nhiều chiến sĩ quốc gia cũng đã hy sinh. Những toán hoạt động của chồng tôi đã bị lộ, nên anh đã băng rừng vượt suối mấy ngày đêm liên tục mới ra được núi Thị Vãi tại Bà Rịa. Chàng đã nguyên vẹn trở về, cám ơn thượng đế che chở cho chàng, chúng tôi bên nhau những ngày phép ngắn ngủi tại Sài gòn.
Đến năm 1966 các anh toán trưởng cũng lần lượt mổi người một nơi, riêng chồng tôi vẫn ở lại đơn vị cũ. Lúc bấy giờ Chỉ Huy Trưởng trại Đằng Vân là Phan duy Tất, ông này về không bao lâu lại thành lập thêm mấy toán nữa. Tôi nhớ những toán trưởng rất trẻ là: Ngô văn Thơm, Tô Mười, Nguyễn ngọc Thiệp, Trần anh Tuấn, Nguyễn văn Biên,v.v... các toán trưởng lần lượt thay phiên nhau đi hết cuộc hành quân này đến cuộc hành quân khác. Các địa danh đẫm máu như Phú Bài, Bồng Sơn, Chu Lai, Khe Sanh, Huế, Điện Biên Phủ.... cường độ chiến tranh leo thang, tiếp theo là Pleimer, trận chiến này các đội và trưởng toán đã hy sinh rất nhiều.. Trong lần tử thương này, tôi chỉ nhớ có 2 người bạn của chồng tôi là đại úy Nghi và Nguyễn văn Bảy, anh em thường gọi là "Bảy Lùn". Trong cảnh đạn lửa trùng điệp, nhiều phi công trực thăng của không lực VNCH, khi thấy đồng đội bên dưới bị nguy khốn đã bất chấp mạng sống, liều thân trong các phi vụ đổ quân và tiếp tế lương thực. Nhiều chiếc đã bị bắn rơi tan tành, lửa bốc cháy ngút trời. Lúc đó có trung úy phi công trực thăng Nguyễn văn Vui, liều một phen sinh tử đem mạch sống cho đồng đội bằng những thùng lương thực.Từ trên cao trung úy Vui bổng thình lình "cúp" máy cho phi cơ rơi xuống như khối sắt và quay 180 độ, gần đến mặt đất cho trực thăng nổ máy lại, thán phục thay người phi công dũng cảm của QLVNCH.
Đầu năm 1967, tôi lại mang thêm đứa thứ hai mới sanh gần một tháng, vợ của anh Nguyễn Ngọc Thiệp cùng sanh một lượt, cô này là em chồng của tôi. Lúc này chồng tôi đang hành quân tại Vùng Hai Chiến Thuật sắp về, tôi được tin từ Sài gòn và ra hậu cứ đón chồng, thường khi mỗi lần xong công tác là anh được đi phép. Trong lúc chờ phi cơ trở về Sàigòn, anh Nguyễn ngọc Thiệp bị tử nạn do thùng tiếp tế lương thực từ trực thăng Mỹ rớt xuống, cái chết của anh Thiệp rất thảm thương. Ôi, chinh chiến! bất hạnh từng ngày đến với dân tộc Việt Nam, đứa con của anh Thiệp mới chào đời còn đỏ hỏn đã vĩnh viễn không thấy mặt cha và vành khăn sô oan nghiệt vội quấn trên đầu người vợ trẻ. Hôm sau chồng tôi đưa xác Thiệp -người em rể trở về Sàigòn an táng. Những ngày phép qua mau trong sự buồn bả, mất mát của người thân. Anh trở lại đơn vị, tôi lại theo chàng về Nha Trang sau 3 tháng sanh nở.
Năm Mậu Thân 1968, tôi trở về Sài gòn và đứa con thứ ba đã chào đời. Việt Cộng đột nhập và tấn công thành phố Sài gòn, khắp các tỉnh lỵ đều nổ súng. Trong trận Mậu Thân chồng tôi lại mất thêm một đồng đội, trung úy Nguyễn văn Tùng đã tử trận tại Tòa Tỉnh Trưởng Nha Trang lúc hai bên kịch chiến. Nữa năm sau ông Phạm duy Tất đã thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật, chồng tôi đã phục vụ trong LLĐB từ năm 1962 đến năm 1968. Lúc này anh được lệnh thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật nhận chức vụ Trung Tâm Hành Quân của C.3 tại Biên Hòa. Sau đó ông Chỉ Huy Trưởng là trung tá Phạm duy Tất đưa anh nhận chức làm trưởng trại Chí Linh ở Sông Bé, được một thời gian anh đi qua trại Tống Lê Chân ở Bình Long và Lộc Ninh. Đến năm 1969 anh coi trại Tống Lê Chân, sau cùng anh về B.3 hành quân ở B.15 cho đến năm 1972.
Năm 1972, khởi đầu của Mùa Hè Đỏ Lửa, đỉnh tận cùng của điêu linh, thẳm sâu của tang tóc, đẩy người dân xuống cuối đáy địa ngục. Chiến trường trở nên khốc liệt hơn, kinh khủng hơn, tàn bạo hơn....bom đạn cày nát mãnh đất quê hương nghèo khó. Mẹ Việt Nam mở trừng mắt máu lệ đầm đià, hơi thở Mẹ Việt Nam đứt quảng từng hồi, thân thể Mẹ Việt Nam run rẩy từng cơn, tan hoang như địa chấn, sụp đổ như cơn đại hồng thủy.... Trước bờ vực thẳm tử sinh, người dân miền Nam từng bước gập ghềnh, chênh vênh trên chiếc cầu định mệnh. Máu và nước mắt, thây người và khăn sô...!!!
Đến cuối 1972 LLĐB được lệnh giải tán để bổ xung qua các lực lượng bạn như: Biệt Động Quân Biên Phòng, Nha Kỷ Thuật và các quân binh chủng khác. Anh đã chọn về Sở Liên Lạc Nha Kỷ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu và làm việc tại đó cho đến cuối năm 1974.
ÁO BÀO THAY CHIẾU ANH VỀ ĐẤT
Đầu năm 1975, anh được lệnh đi nắm Bộ Chỉ Huy nhẹ ở Chiến Đoàn 2 tại Ban Mê Thuộc và Kontum. Lúc này tình hình chiến sự trở nên căn thẳng, hổn loạn, phương tiện di chuyễn vô cùng khan hiếm và khó khăn. Hai ngày ròng rã chờ đợi tại phi trường Tân Sơn Nhất nhưng vẫn không có phi cơ, anh đành lên phi trường Biên Hòa và đã được lên đường sau đó. Khi đến trình diện tại Chiến Đoàn 2, mỗi sĩ quan phải thay phiên nhau hành quân 10 ngày. Đến ngày 20 tháng 3 năm 1975, thiếu tá Cao triều Phát đã đem lương lên căn cứ hành quân để phát cho anh em. Ông thiếu tá Phát bảo chồng tôi, "mầy" đã xong công tác rồi, có đi theo chuyến bay này về không? Anh không muốn xa đồng đội trong lúc này, nhất là lúc tình hình đang rối ren vì được lệnh sắp rút quân để di tản chiến thuật, hơn nữa các bạn anh đề nghị thôi chúng mình sẽ về chung cho vui. Vì vậy, anh đã nhờ thiếu tá Phát mang tiền lương về cho tôi, anh chỉ giữ lại 500 đồng để tiêu xài và nhắn vài hôm sau anh sẽ về Sài gòn.
Trên đường rút quân "triệt thoái cao nguyên", dọc theo quốc lộ sự di chuyển rất hổn tạp. Anh được lệnh thượng cấp dẫn quân đi tiên phong để mở đường, bảo vệ và đưa dân chúng về đồng bằng tránh khỏi nạn đau binh và cướp bốc. Sáng ngày 25 tháng 3, anh điện về gặp tôi và báo ngày mai sẽ gặp mẹ con tôi tại Sài gòn, chỉ còn 24 giờ ngắn ngũi, tôi chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn niềm vui cho cuộc tương phùn. Chiều cùng ngày trên đường rút quân, anh cùng thiếu tá Hải và vài sĩ quan nữa trên xe, một trái đạn B.40 từ phiá Cộng quân mai phục bắn trúng ngay người tài xế cháy không còn xác, thiếu tá Hải văng ra khỏi xe bị cháy đen, riêng chồng tôi bị dập nát mặt nhìn không ra. Trong xe chết 3 người, còn lại 3 người đều bị thương không nguy hiểm đến tánh mạng.
Như thường lệ mổi sáng, từ khu cư xá gia binh của trại Nguyễn cao Vĩ trên chiếc Honda ra cổng đưa con đi đến trường, tôi đã thấy trung úy Thọ và thượng sĩ Sanh, hai người này chận tôi lại, đôi mắt ái ngại và ngập ngừng cho tôi biết hung tin: Xin chị bình tỉnh, tin chính xác báo cho biết đại úy Hồ đăng Nhựt đã tử thương trên đường rút quân chiều hôm qua. Tôi như bị sét đánh, tim tôi như ngưng đập, trước mặt tôi cảnh vật bổng tối sầm và đảo lộn, tai tôi ù lên những tiếng kêu quái dị, mặt đất bổng nhiên nhấp nhô dậy sóng. Tôi rụng rời, tôi chao đão, tôi ngả qụy chiếc xe Honda với đứa con tôi cũng đổ theo. Các anh em mang tôi vào bệnh xá, sau khi hồi phục tôi làm thủ tục đi nhận lãnh xác chồng.
" Ngày mai đi nhận xác chồng, ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ". Trời ơi, Hồ đăng Nhựt ơi! Anh đã bỏ mẹ con em, anh đã bỏ lại bạn bè và đồng đội trong lúc đất nước đang hồi nghiệt ngã. Tôi cùng các anh em đi đến Nghiã Trang Quân Đội tại Biên Hòa, được một chú lính đưa tôi đi qua dãy hộc tủ chứa đựng tử thi và cuối cùng chúng tôi dừng lại. Dừng lại để chấp nhận một sự bẽ bàng, dừng lại để gói trọn một vụn vỡ đến tê dại toàn thân, nhận một kiếp đời góa phụ. Chiếc hộc tủ gói gọn hình hài của thiếu tá Hải và thân xác chồng tôi đang nằm bất động. Trời ơi ! "em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong", thi hài chồng tôi nằm trên chiếc băng ca, khuôn mặt đã bể nát, tôi chỉ nhận diện chàng qua tấm thẻ bài. Tấm thẻ bài này nó đã từng theo chàng qua những đoạn đường máu lửa, nó đã từng ấp ủ nhớ thương về người vợ bé nhỏ và đàn con dại mổi khi dừng bước quân hành giữa lưng đồi của rừng khuya tịch mịch, cuối rặn sim bạt ngàn. Bây giờ "áo bào đã thay chiếu anh về đất" yêu đương kia đã cùng anh chấp cánh bay tới một vùng trời miên viễn...!!!
ĐÁ NÁT VÀNG TAN
Vài hôm sau thành phố rất lộn xộn, trong cư xá đạn bay xối xã, lúc đó tôi nhờ em tôi đưa 5 đứa con về nhà trước phần tôi thu xếp về sau. Chỉ có một đêm đường xá bị giới nghiêm và thiết quân lực, tôi nóng ruột không biết các con tôi như thế nào. Một tháng nặng nề ngột ngạt đè nặng trên đầu người dân Sài gòn...... Đến trưa ngày 30 tháng 4, các anh em quân nhân vượt qua cổng trại cư xá Nguyễn cao Vĩ....tôi ngơ ngác nhìn và chạy theo. Sài gòn súng nổ, Sài gòn đạn lạc tên bay, tiếng pháo Cộng quân ầm đùm, tiếng xích sắt thô bạo nghiền nát mặt đường, giờ phút hấp hối của Sàigòn, cơn đá nát vàng tan đã đến. Quyết một phen trống mái ngăn chận Cộng quân xâm nhập thủ đô, trên bầu trời những chiếc phi cơ đang vầng vũ đánh bom bảo vệ vòng đai Sàigòn, một chiếc bốc cháy chói lòa như hành tinh lạc thể rồi nổ tung tóe, tan tành từng mảnh rơi lả chã, một chiếc khác gẫy cánh quay như con vụ rồi chúi đầu, sau tiếng nổ từng cụm khói đen nghịch bốc lên cao. Sài gòn bốc cháy, Sài gòn loạn lạc, Sài gòn tiếng kêu la thất đảm. Kẻm gai như mạng nhện bủa giăng, nhiều anh em quân nhân súng lăm lăm trong tay bám chặt chốt. Tôi thấy những người Lính Mũ Đỏ đang đau thương rũ cánh "Thiên Thần", giày sô "shaute" còn bám chặt gót chân gió bụi mà áo trận lạc mất nơi nào? chỉ còn tấm thân trần với những xâu lựu đạn để bảo vệ thành đô, hai tay cầm hai trái phá đang chạy tới, chạy lui. Tôi như một cái xác phờ phạt, hồn đã thất lạc tự bao giờ. Tôi chạy về hướng ngã tư Bảy Hiền định ghé vào nhà người chị, nhưng căn nhà bị đổ nát tan hoang vì đạn pháo của địch quân, không biết họ đã tan thây trong đóng gạch vụn đó hay chạy phương nào ? Tôi lại trở ra đường Nguyễn văn Thoại , vừa đi vừa chạy về nhà trên đường Lý Thái Tổ, năm đứa con tôi vẫn còn đang chờ. Mẹ con chúng tôi ôm nhau òa khóc.
Chiều 30/4 người người bỏ chạy tìm tự do, người người thất lạc. Hoàn cảnh và cuộc sống chật vật của một người vợ chiến binh, hơn nữa chàng vừa nằm xuống từ giả cuộc chiến bi hùng này, mồ chưa khô đất và cỏ khâu chưa lên mầm. Tang chồng vẫn nặng trỉu trên đầu tôi với cái tuổi vừa 30, lại chất thêm một cái tang cho đất nước. Hai vai gầy gánh vác đau thương trong cảnh mẹ góa, con côi, đứa con lớn nhất chỉ có tám tuổi và đứa nhỏ nhất mới được 18 tháng, tôi biết làm gì đây trong thảm trạng này, trong cảnh thê lương của "Sài gòn hoang lạnh ơ thờ, môi người goá phụ nhạt mờ màu son...." Nhựt ơi, em phải làm gì đây anh, em phải làm gì và mẹ con em phải sống làm sao trong những ngày tháng đến ???
Cuộc đời sao lắm nổi chuân truyên, sao quá đổi đoạn trường đối với người vợ Lính?! Tôi lại phải tiếp tục sống và phải sống dưới một lớp người mới, một thể chế mới mà đối tượng là giai cấp, là độc tài, là hà khắc dã man. Tôi trong tâm trạng như hóa đá, qua câu chuyện nàng Tô Thị bồng con lên tận đỉnh núi từng chiều dõi bóng chinh nhân. Nhưng nàng Tô Thị dù sao vẫn còn nhiều hạnh phúc hơn tôi, tôi là đối tượng của một giai cấp thống trị mới của bọn vô thần, tôi là vợ của một sĩ quan chế độ cũ, vợ của một "ngụy quân", họ đã lên án tôi như thế. Chồng tôi đã gục ngả trên đường rút quân, tôi đã lịm chết bao lần trước cổ quan tài, lòng huyệt lạnh đã cách ngăn chúng đôi miền: dương-cảnh. Tôi còn gì để mà ngóng trông như nàng Tô Thị, có còn chăng chỉ là 5 đứa con thơ dại, tôi phải tảo tần buôn gánh, bán bưng để sống qua ngày hai buổi cháo rau...!
ĐỜI NGƯỜI NHƯ CHIẾC LÁ
Con nước xoáy trăm giòng rồi cũng về biển khơi, con người trong cảnh đời quay quắt, ngược xuôi rồi tới lúc cũng dừng lại. Tôi được giấy bảo lãnh từ Hoa Kỳ của em tôi và được phái đoàn phỏng vấn. Trải qua bao khó khăn về tài chánh, về mọi mặt....nào có bình thường và dễ dàng như bao gia đình khác? cuối cùng chúng tôi được lên đường. Hành trang mang theo một gia tài hom hem nghèo khó, cùng 5 đứa con đã trưởng thành. Phi cơ cất cánh, tưởng rằng tuyến nước mắt tôi đã khô cạn trong đời sống khổ nạn, tự dưng nó lăn dài trên đôi má hóp sạm đen mưa nắng, trên khuôn mặt hóc hác tiều tụy; trong những giọt lệ đó đã hòa lẫn những vui buồn, tôi thoát khỏi địa ngục trần gian, từ biệt "thiên đàng" Cộng Sản. Trạm dừng chân đầu tiên tại Thái, chuyến đi lưu lại 10 ngày tại đó, rồi Tokyo, San Francisco, và chúng tôi đã đến Kansas city đoàn tụ với người em gái thứ 5 nơi thành phố này.
Vượt qua những khó khăn trên xứ người lúc đầu tiên, nhân tình thế sự biến đổi theo hoàn cảnh đó là chuyện thường hằng trong bất cứ một đời sống nào. Tôi xuôi Nam về miền Cali nắng ấm tại quận Cam, tôi đã quen với đời sống mới, gặp lại những đồng đội của chồng tôi năm xưa. Trong một tình cờ giữa tiệc cưới con của người bạn cũ, tôi gặp được đại tá Ngô Thế Linh do các anh em giới thiệu... Sau đó tôi quyết định về San Jose vào tháng hai và nghe tin đại tá Ngô Thế Linh đã từ trần. Đến tháng 3 bên Sở Liên Lạc các anh đã tổ chức ngày giổ của chồng tôi rất trọng đại, niềm an ủi to lớn sau bao năm tháng nhục nhằn. Nước mất nhà tan, trong cảnh đời tha phương lạ cảnh, lạ người nhưng tình đồng đội vẫn còn gắn bó, cao qúy thay cho cái tình huynh đệ chi binh.
Những chiều ở đây mổi độ tháng tư về, tôi nhớ quê, nhớ nhà và nhớ bao chiến sĩ đã nằm xuống cho quê hương, trong đó có Hồ đăng Nhựt -chồng của tôi, anh đã làm xong bổn phận của người trai thời loạn. Giờ đây niềm đau bại trận luôn đeo đẳng theo các anh -những người Lính sau cuộc xảy nghé tan đàn, các anh bị bức tử một cách bi phẫn trong một cuộc chiến đấu oai hùng. Các anh đang trôi dạt trên xứ người, cuộc chiến đó còn dỡ dang và đang tiếp diễn trên một chính trường không phải bằng súng gươm, mà bằng lập trường, bằng khối óc, bằng Lý Tưởng QUỐC GIA và DÂN TỘC. Máu các anh đã tô thắm cho màu cờ, nhưng đất nước vẫn nằm trong loài qủy đỏ, tôi luôn hỵ vọng và tin tưởng vào các anh, những người chiến sĩ can trường của QLVNCH.
CỔ LAI CHINH CHIẾN KỶ NHÂN HỒI
Một chút niềm riêng về Nha Trang dấu yêu ngày tháng cũ. Nha Trang những ngày mưa đổ điù hiu se sắc buồn. Nhớ những ngày đơn độc trong trại gia binh, nhớ Duy Tân con đường dọc theo bờ biển đèn ngoài khơi nhấp nháy như ngàn sao, phố đêm Nha Trang trông huyền ảo lấm tấm như ngàn trân châu trải đều trên nét xiêm hài nhung thẳm của giai nhân. Tất cả chìm sâu vào đáy dĩ vãng rong rêu, mổi lần hồi tưởng lòng tôi lại rạt rào thương tủi, lòng tôi lại trào dâng bao kỷ niệm. "Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" hình bóng chinh nhân khi ẩn, khi hiện, nổi trôi theo từng dòng chữ, từng âm thanh đứt lià "vẵng nghe tự đáy hồn thương tích, bao tiếng kèn truy điệu năm xưa."
Bây giờ là THÁNG BA. Bây giờ đã từ bao độ mất chàng, mất quê hương. Vâng bây giờ là tháng 3, đã 34 năm dài, mùa Quốc Nạn, mùa đau thương phủ trùm trên "Quê Hương Nghìn Trùng Tang Trắng". Trong một góc sâu thẳm của lòng tôi, hình ảnh cố thiếu tá Hồ đăng Nhựt, người chồng thân yêu đã anh dũng ĐỀN XONG NỢ NƯỚC.
San Jose, Mùa Quốc Nạn.
Lưu Trùng Duơng
Tuesday, April 21, 2009
Blue Ridge (LCC19) Thiên Thần Áo Xanh
Thay cho lời giới thiệu:
Một số lớn những người Việt tha hương (tỵ nạn) và những người đang lê lết một cuộc đời cùng khổ, đầy bất công, áp bức dưới chế độ CS tại quê nhà đều có những quảng đời - là những cuốn phim mà không một cuốn phim nào dầu chiếm được hàng bao giải thưởng cũng không sao sánh bằng; là những tập truyện mà không một tập truyện nào dầu thuộc loại bán chạy nhất cũng không làm sao qua mặt được.
Những quãng đời đó dầu có thực sự được quay thành phim, viết thành truyện cũng không bao giờ có thể lột tả, nói lên được tất cả những gì đã xảy ra chung quanh họ, và những gì đã diễn ra trong lòng họ. Do đó chỉ có chính họ, là những người trong cuộc, là những chứng nhân, là những nhân vật trong cuốn phim, trong tập truyện của đời mình mới cảm nhận được tất cả những sự âu lo, phiền muộn, những nổi buồn xót xa, câm nín, những niềm hy vọng mong manh, thoáng chốc, những nỗi tuyệt vọng não nề, buông xuôi cho số kiếp, những sự sợ hãi, kinh hoàng đến chết ngất, những cơn đói khát vật vã, rã rời, những nỡi uất nghẹn đắng cay đến tột cùng, những nỗi tủi nhục tối tăm sâu thẳm, những nỡi mừng vui nghẹn ngào đầy nước mắt, những nỡi đớn đau quằn quại có lúc chất ngất trong lòng có lúc ray rức kéo dài như vô tận... Quãng đời họ là những cuốn phim không cần đạo diễn dàn dựng, là những tập truyện không cần hư cấu bởi nhà văn, là những câu chuyện sống thực cùng với nhịp tim, hơi thở và những cảm xúc của một đời người.
---o0o---
Câu chuyện xảy ra cách đây hơn 28 năm, tuy vậy ký ức tôi vẫn còn ghi rõ, vì đó là một kinh nghiệm đau thương, hãi hùng nhất trong cuộc đời tôi..
Trưa hôm đó (10/09/1980/ ) một buổi trưa gần cuối Thu, trời Đà Nẵng bổng dưng mây kéo về đen kịt, và mưa đổ không ngớt, tôi đang khe khẽ hát những câu ca dao ru con ngủ, nhìn con ngủ mà lòng xót xa, nghĩ rằng tương lai nó sẽ mù mịt như bầu trời ngoài kia, vì nó không may sanh ra trong một đất nước không có tự do. Nhà nội nó thì bị nhà nước trưng dụng, cả gia đình nội phải dồn vào một nhà kho chật hẹp tối tăm ẩm thấp để sinh sống. Không chỗ nương thân ba mẹ nó phải bồng nó chạy về nhà ngoại để tá túc... Thình lình tiếng chuông trước cổng nhà vang lên cắt đứt dòng tư tưởng, tôi nhẹ nhàng xỏ vội đôi dẹp nhựt đi xuống lầu thì đã thấy má tôi mở cửa đón khách vào nhà. Đó là một chàng thanh niên, anh ta là người bà con với ông chủ tàu mà gia đình tôi có dịp bàn tính chuyện vượt biên. Sau khi được trấn an là không có ai khác ngoài má tôi, ông ngoại và tôi, thì người thanh niên này vô đề liền: "Bây giờ mưa to gió lớn và biển đang động, công an biên phòng không nghĩ rằng có ai to gan dám vượt biên trong thời tiết này, nên mình phải nắm lấy cơ hội". Rồi người thanh niên này bắt đầu cho biết giờ giấc, điểm hẹn và cách gặp người dẫn đường, xong anh ta vội vã đội mưa ra về.
Không khí trong nhà trở nên căng thẳng vì lòng mỗi người đầy những nỗi lo âu: chồng tôi đi làm chưa về, 2 em trai cũng không có mặt tại nhà, không có cách nào liên lạc được, còn ngoài kia trời mưa như thác lủ, vượt biên trong lúc này có nghĩa là đem mạng đi nạp cho thần biển. Trong lúc má tôi và tôi đang rối lên không biết toan tính như thế nào, thì ông ngoại tôi bảo quỳ xuống để ông cầu nguyện. Khi ông ngoại tôi vừa dứt lời cầu nguyện thì hai em trai của tôi về tới, lúc đó gần ba giờ chiều. Và chúng tôi lại thêm một phen sốt ruột chờ chồng tôi nữa, rất may hôm đó chồng tôi về nhà sớm hơn mọi khi vì trời mưa nên bạn bè không rũ đi nhậu, cuối cùng rồi mọi người cũng về đầy đủ, cuộc hành trình của chúng tôi bắt đầu từ đó.
Theo như lời người thanh niên lúc trưa căn dặn, tôi và hai em trai tôi đi phà qua sông Hàn, lúc đó khoảng gần 5:30 giờ chiều, sau khi phà cập vào bến quận Ba, An Hải, chúng tôi phải đảo mắt kiếm người thanh niên nào có mang dây chuyền hình cái neo, trời lúc đó nhá nhem tối và mưa rất lớn nên rất khó cho chúng tôi tìm người mà mình chưa bao giờ biết mặt. Người dẫn đường nhận ra được dáng điệu dáo dác của chúng tôi, nên anh ta tiến tới trước mặt chúng tôi không nói gì hết rồi lặng lẽ bước đi (đó là mật hiệu), chúng tôi thấy nơi cổ của anh có sợi dây chuyền hình cái neo, do đó người này đi đâu chúng tôi cũng phải bám sát theo để không bị lạc. Vì nhằm giờ cao điểm kẻ tan trường, người tan sở nên việc bám sát theo người này cũng rất khó, nhiều lần bị lạc, chúng tôi ngẫn ngơ quýnh quáng không biết mình đang ở đâu, tim chúng tôi đập thình thịch vì sợ công an nghi ngờ đến bắt, nhưng rồi người dẫn đường quay trở lại kiếm được chúng tôi. Sau đó anh đi vào quán bún bò Huế ven đường, chúng tôi cũng vào theo, sau này tôi mới hiểu, thì ra phải chờ thêm một nhóm năm người con của bạn ba tôi nữa. Sợ chủ quán nghi ngờ tôi gọi ba tô bún bò Huế cho ba chị em tôi, nhưng bún đem lên chưa kịp ăn thì người thanh niên dẫn đường đứng dậy rời quán vì đã thấy nhóm năm người kia sắp bước vào, chúng tôi vội vã trả tiền và rời theo làm chủ quán cũng ngơ ngác. Rời quán bún, người dẫn đường đưa chúng tôi đến một khu nghĩa địa, anh bảo chúng tôi phải ở đó chờ người khác dẫn đường tiếp. Ba chị em chúng tôi núp ở một ngôi mộ có tấm bia thật lớn, thình lình người trong xóm cầm đuốc đi kiếm gà của họ bị lạc. Một lần nữa ba chị em chúng tôi lại một phen sợ hãi, tay chân run rẫy, tim hầu như ngưng đập vì thấy người đàn bà đó càng lúc càng tiến về nơi chúng tôi đang núp, ba chị em chúng tôi nhắm nghiền mắt và ôm chặt lấy nhau, hình ảnh nhà tù cộng sản hiện lên trong trí tôi thật kinh khiếp, nước mắt chúng tôi tuôn trào, không ai bảo ai chúng tôi cắn chặt môi cố nén tiếng khóc. Nhưng lạ lùng thay, Chúa đã ngăn trở bước đi của người đàn bà đó, khi tiếng chân của người đàn bà đến gần nơi chúng tôi ẩn núp trong gang tấc thì bà bắt được con gà của bà. Tiếng kêu oang oác của con gà làm chúng tôi bừng tỉnh lại, chúng tôi chỉ biết cúi đầu thầm tạ ơn Chúa.
Bây giờ thì trời đã tối hẳn, có một người thanh niên khác tìm đến nơi chúng tôi ẩn núp, anh ta không nói gì ngoài ba tiếng “đi theo tôi”. Anh dẫn chúng tôi đi qua những con đường đất ngoằn nghèo rồi cuối cùng dẫn chúng tôi vào một căn nhà nào đó mà bây giờ tôi không tài nào nhớ được, vì lúc đó trời tối đen như mực, ngay cả chị em chúng tôi cũng không nhìn thấy mặt nhau. Họ để ba chị em chúng tôi tại đây cho đến khoảng 12 giờ khuya (sau này tìm hiểu tôi mới biết khoảng giờ đó) thì họ dẫn ba chị em tôi ra bờ biển thuộc vùng Thọ Quan, nơi đó có sẵn một cái thúng lớn, người này lật thúng lên thì đã có một người nằm chờ dưới thúng ngồi dậy, và họ đưa chúng tôi ra tàu cá đang chờ sẵn ngoài khơi. Nhưng ra đến nơi thì chúng tôi không thấy bóng dáng chiếc tàu cá đâu hết, chung quanh chúng tôi là vùng biển rộng mênh mông với một màu đen tối rợn người. Chúng tôi ngồi trên thúng chồng chềnh theo làn sóng mà lòng bồn chồn lo lắng, rồi lần lượt những thúng khác chở ăm ắp người cũng chèo đến, gần hai tiếng đồng hồ sau thì tàu mới xuất hiện. Khi lên tàu rồi thì việc đầu tiên là tôi kiếm chồng và con tôi, vì hai người được dẫn đi đường khác. Thấy tôi, chồng tôi lên tiếng để trấn an, chồng tôi khen con tôi rất ngoan, tuy mới hơn ba tuổi nhưng dặn nó không được hỏi, không được nói, không được khóc nếu sợ bóng tối, thì nó rất ngoan ngoãn không lên tiếng trong suốt cuộc hành trình trong bóng đêm, có lẽ nó cũng cảm nhận được sự nguy hiểm vây quanh cha con nó.
Hai giờ sáng tàu bắt đầu chạy ra cửa biển, ra đến cửa biển sóng có phần êm hơn. Tàu chạy một lúc xa thì trời hừng sáng, mọi người thấy an tâm vì thoát được sự kiểm soát của công ban biên phòng. Bắt đầu từ đó tàu chúng tôi lênh đênh không định hướng, vì tài công là một thanh niên trẻ chỉ biết lái tàu đi đánh cá chứ không biết nhắm hướng cũng không biết xem la bàn. Trên tàu ngoài gia đình tôi năm người, năm người con của bạn ba tôi, chín người của gia đình ông chèo thúng đưa khách, ba người anh bà con của tôi và hai con trai của họ, còn có một số thanh niên nam nữ bạn của người tài công trẻ chạy theo. Do đó số người trên tàu lên đến bốn mươi lăm người kể cả mười đứa con nít dưới mười tuổi. Trong khi đó thực phẩm chỉ tính đủ cho hai mươi lăm người chính thức có trong kế hoạch vượt biên này mà thôi. Đã vậy, sau này mới vỡ lẽ ra là trước đó, gần ngày vượt biên một số lương thực bị mất cắp.
Qua đến ngày thứ ba, một cơn bão biển suýt nhận chìm chiếc tàu mỏng manh của chúng tôi giữa lòng biển cả. Tôi không thể nào quên được cơn hãi hùng này, chiều hôm đó mây đen phủ kín cả vòm trời, gió mạnh như cơn lốc, và sóng biển cuồn cuộn trổi lên, vợ chồng tôi và cháu nhỏ cùng hai em trai tôi và vài người nữa đang còn ngoài khoang tàu trong khi hầu hết mọi người khác được ở trong cabin. Cửa cabin lúc ấy bị đóng chặt, chúng tôi đập cửa khóc lóc kêu gào thảm thiết. Có lẽ những người bên trong không dám mở cửa cabin trong lúc này vì sợ nước biển tràn vào, một phần có lẽ tiếng gió và tiếng gầm thét của những đợt sóng khổng lồ át đi tiếng kêu gào của chúng tôi. Mãi đến 10 phút sau, gió càng mãnh liệt và sóng càng dữ dội hơn thì họ mở cửa cho chúng tôi vào ẩn mình. Trong những giờ phút ngoài khoang tàu, tôi vô cùng kinh khiếp khi nhìn thấy từng đợt sóng khổng lồ nâng bổng chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi lên thật cao, rồi ném chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi xuống vực sâu tối ngòm, nhìn lên tôi thấy đợt sóng khác tới nó vươn lên như một bức tường thật cao và đổ ập xuống như muốn nhận chìm chiếc tàu của chúng tôi, nước văng tung toé, tay tôi ôm chặt thanh gỗ nơi cửa vào cabin vừa khóc vừa kêu gào thảm thiết. Nhiều khi nghĩ lại, tôi tự hỏi làm sao chồng tôi có thể vừa giữ chặt con vừa bám chặt vào mạng thuyền, và tất cả chúng tôi ngoài khoang tàu không bị sóng biển ném tung ra khỏi tàu, làm sao chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi có thể sống còn qua cơn bão đó, chắc chắn phải có bàn tay vô hình nào đó che chở chúng tôi, bàn tay vô hình đó chính là bàn tay của Thượng Đế.
Trong những ngày đầu còn dầu, thì tài công không biết định hướng đi đến Hong Kong, anh ta cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà chạy cho đến khi cạn không còn dầu để chạy nữa thì lúc đó chúng tôi thấy dãy núi mờ mờ từ đàng xa. Thì ra tàu chúng tôi trôi giạt đến Nha Trang mà tưởng rằng đang ở gần đảo Hải Nam, lương thực và dầu đã cạn, có ba người thanh niên đưa ý kiến, ai có vàng hoặc tiền bạc, đồng hồ đeo tay thi giao cho họ, họ sẽ đi thúng vào dãy núi đó mua dầu và lương thực đem ra để đi tiếp. Đó là niềm hy vọng cuối cùng nên mọi người có vàng đưa vàng, có đồng hồ đưa đồng hồ, tôi cũng cởi chiếc nhẩn cưới đưa cho ba người này (sau này đến được bến bờ tự do, chúng tôi mới hay rằng ba người này đi thúng vào bờ và bị công an bắt tại Nha Trang).
Ngày lại ngày trôi qua, nhưng bóng dáng 3 người đi mua dầu và lương thực vẫn biệt tăm. Chúng tôi chi biết cầu nguyện và phó thác đời sống mình cho Chúa. Không thức ăn, nước uống, chúng tôi phải uống nước tiểu và nước biển có bỏ đường hóa học để sống qua ngày, nhờ năm người con của bạn ba tôi có mang theo đường hóa học. Nói chung, gia đình tôi và năm người con của bạn ba tôi vì tin tưởng chủ tàu chuẩn bị lương thực chu đáo nên chúng tôi không mang theo bất cứ một lương thực nào, ngoài trừ chồng tôi trước khi đi anh có giấu được một lon sữa đặc trong túi quần cho con tôi và năm người kia có giấu theo một gói nhỏ đường hóa học. Hơn nữa, cũng để tránh cặp mắt nghi nghờ của mọi người, chúng tôi không mang theo bất cứ quần áo hay vật dụng cá nhân nào, trên người chúng tôi vỏn vẹn mỗi người chỉ có một bộ áo quần mình đang bận.
Hơn mười ngày trôi qua không thức ăn, nước uống, trẻ con khóc lóc kêu gào thảm thiết, con tôi chỉ nước trên biển mà trách chúng tôi tại sao nước trên biển nhiều như vậy mà không cho nó uống, lòng tôi đau như đứt từng đoạn ruột khi nhìn thấy con tôi và những trẻ con khác rã rời, quằn quại, rên xiết vì đói và khát. Rồi 1, 2, 3, 4, đứa con nít dần dần ra đi. Đêm hôm đó là đêm thứ mười sáu trên biển, tôi ôm con tôi vào lòng tuyệt vọng, thình lình một cơn mưa thật lớn đổ xuống, mọi người đều mừng rỡ, chồng tôi mau mắn hứng được một bình nước nhỏ, gắng sức trườn người vào cabin đưa cho tôi để tôi cho con uống, vì quá mừng nên tôi hút một hơi thật mạnh để nước chảy vào một ống nhỏ, xong tôi chuyền ống nhỏ đó vào miệng con tôi với hy vọng con mình sẽ được nuôi sống, nước vào miệng quá nhanh con tôi không kịp nuốt thì tắt thở ngay trên tay của tôi vì sức lực nó không còn nữa. Quá đau khổ, tôi ôm con chặt vào lòng và khóc, khóc thật nhiều nhưng hầu như không có một giọt nước mắt nào tuôn ra. “Khi con người quá đau khổ thì không còn nước mắt để khóc", tôi nghe câu nói này nhiều lần nhưng cứ nghĩ rằng đó chỉ là một câu trong văn chương thôi, bây giờ thì tôi thật sự kinh nghiệm về điều đó. Sáng hôm sau, một tay ẳm xác con, một tay chống đỡ lê lết tấm thân kiệt sức của mình để đem xác con ra ngoài khoang tàu cho chồng và hai người cậu nó thấy mặt lần chót. Vì chồng tôi và hai cậu nó ở cuối mõm thuyền, do đó con tôi được chuyền qua một vài người trước khi đến tay chồng tôi. Khi ở trên tay những kẻ xa lạ tôi không thấy điều gì lạ xảy ra, tuy nhiên khi chồng tôi vừa đưa tay ẳm lấy con tôi, thì tự nhiên môi con tôi sùi bọt nước miếng, và máu thật tươi tuôn ra từ lỗ mũi và hai lỗ tai của nó. Con tôi biết giờ đây nó được nằm trong vòng tay yêu thương của ba nó, một mối liên hệ phụ tử thiêng liêng được bày tỏ qua một thân xác không còn sự sống.
Dầu yêu thương con đến mức nào đi nữa cũng không thể nào giữ được xác con trong vòng tay của mình, chúng tôi đành lòng phải bỏ xác nó xuống lòng biển cả. Đặc biệt cái chết của con tôi được nhiều người thương và lo chu đáo, vài người trên tàu gỡ hai tấm ván nhỏ từ chiếc tàu của chúng tôi, họ đóng lại như hình chữ thập, đặt xác con tôi nằm trên đó, rồi dùng lưới cá quấn quanh thân hình nhỏ bé của con tôi. Họ nói rằng phải đóng ván theo hình chữ thập thì mới thăng bằng không bị sóng đánh lật úp mặt nó xuống biển cá sẽ đến rĩa ăn, họ cho rằng nếu con tôi may mắn gặp một tàu cá nào đó, họ sẽ làm phước vớt đem vào bờ để chôn vì lúc đó chúng tôi vẫn còn thấy dãy núi mờ mờ từ đàng xa, nên chúng tôi chỉ biết hy vọng như vậy, (trong một bản tóm tắt chuyến vượt biên của chúng tôi bằng tiếng Anh có một sơ sót nhỏ là con tôi được cột vào cục đá để bỏ xuống biển thay vì cột vào 2 tấm ván thuyền). Sau đó một người anh bà con của tôi có mang theo quyển Kinh Thánh, anh mở ra đọc vài câu trong Kinh Thánh rồi cầu nguyện trước khi thả xác con tôi xuống biển, lúc đó tôi ngoảnh mặt đi nơi khác vì không muốn chứng kiến cảnh đau lòng này.
Nước mưa hứng được đêm đó đã tạm nuôi sống chúng tôi trong một thời gian ngắn. Rồi một hôm (06/10/1980/ ) tôi nằm chờ chết trong cabin vì sức tôi đã quá kiệt quệ, 26 ngày không một chút gì trong bao tử ngoại trừ nước tiểu vì nước mưa hứng được hôm trước đã không còn một giọt. Thình lình có tiếng chồng tôi và vài người nữa ngoài cabin “có máy bay, có máy bay”, tôi nhìn ra thấy chồng tôi đang dùng cái áo thun trắng đã cũ mèm để vẩy ra hiệu, nhưng tôi vẫn không một chút hy vọng nào, vì đã bao lần chúng tôi thấy máy bay bay xa thật xa trên bầu trời nhưng họ nào có thấy chúng tôi đâu. Nhưng rồi tiếng máy bay trực thăng dần dần nghe rõ dần, và tiếng mọi người mừng rỡ, hình như có một lực nào thật mạnh trong tôi vực tôi dậy và tự nhiên tôi có sức để bò ra ngoài khoang tàu. Tôi thấy chiếc máy bay trực thăng từ từ hạ thấp xuống, lúc đó một người trên tàu chúng tôi viết hàng chữ bằng tiếng Anh “Don't drop any food, Please rescue us”, thì ngay lập tức một quân nhân Mỹ trên máy bay trực thăng viết hàng chữ bằng tiếng Việt “chờ năm phút sẽ có tàu đến”. Rồi họ bắt đầu bắn những trái khói màu quanh tàu của chúng tôi để định vị trí cho tàu lớn đến cứu. Vài phút sau qua làn khói màu tản mác, từ đàng xa chúng tôi nhìn thấy một vật nhỏ di động rồi từ từ lớn dần, chẳng mấy chốc trước mặt chúng tôi sừng sững một chiếc tàu chiến khổng lồ cách tàu chúng tôi ở một khoảng cách an toàn. Đó là chiếc Soái Hạm (Command Ship) của Đệ Thất Hạm Đội có tên là “Blue Ridge LCC19”. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ như được sinh lại lần thứ nhì. Đoàn thuỷ thủ bắt đầu bỏ thang dây xuống và đi ca-nô qua tàu chúng tôi. Trên ca-nô có 4 người lính Hải Quân mang phao cá nhân, và nổi bật hơn hết là lá cờ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tung bay trước gió, nhìn lá cờ mà lòng tôi bồi hồi xúc động vì nó biểu tượng cho Tự Do và tình nhân loại. Họ dùng loa yêu cầu chúng tôi giữ bình tỉnh, anh Hải Quân cầm tay lái cố gắng điều khiển chiếc ca-nô cặp sát vào tàu chúng tôi, trẻ em và phụ nữ được ưu tiên di chuyển qua tàu chiến trước, sau cùng là nam giới. Các thuỷ thủ, một tay kẹp chúng tôi và một tay chụp lấy thang dây để leo, hàng chục cánh tay thòng xuống kéo chúng tôi lên. Đối với tôi, đó là giờ phút vô cùng thiêng liêng và vô cùng xúc động, nó cho tôi thấy chỉ có những người của chủ nghĩa Tự Do mới thể hiện được tình yêu thương nhân loại và cảm thông được những đau thương mất mát của những người vì 2 chữ Tự Do mà liều mình vượt biển.
Khi tất cả chúng tôi được an toàn đưa lên chiếc Soái Hạm này rồi, thì điều đầu tiên là họ cho chúng tôi mỗi người 1 ly súp lỏng (clear soup) đang còn nóng hổi và sau đó họ bắt đầu khám tim mạch từng người. Tôi và em tôi cùng một vài phụ nữ khác vì quá yếu nên được chuyển lên Medical Clinic. Tại đây chúng tôi được chăm sóc sức khoẻ thật chu đáo, họ bồng chúng tôi đi tắm, dĩ nhiên là họ rất tôn trọng phụ nữ chúng tôi, nên họ chỉ mở nước điều chỉnh ở độ ấm vừa phải và dạy chúng tôi cách dùng thuốc gội đầu đặc biệt để giết chí, rồi họ đứng canh ngay cửa phòng tắm để đề phòng trường hợp chúng tôi bị té hay bất cẩn gì đó. Chúng tôi vô cùng cảm kích trước tấm lòng nhân ái bao la của những người lính Mỹ khác màu da, họ không màng đến thân hình xơ xác bẩn thỉu hôi hám của chúng tôi, trong khi chí trên đầu rơi rớt đồm độp, nhưng họ ôm chúng tôi vào lòng, bồng ẳm chúng tôi khi chúng tôi cần những phương tiện vệ sinh cá nhân. Sau đó họ phát cho chúng tôi mỗi người 1 áo thun trắng và đồ lót để bỏ đi những áo quần hôi hám mà suốt 26 ngày đêm dầm với mồ hôi, dầu nhớt, nước tiểu và nước biển mặn.
Tôi còn nhớ rõ một kỷ niệm rất buồn cười mà tôi đã làm những người trong đội y tế một phen cười nứt bụng, đó là ngay sau khi uống cạn ly súp đầu tiên khi vừa mới được chuyển lên tàu, một anh y tá hỏi tôi rằng “How do you feel”?, tôi trả lời ngay không chút suy nghĩ “I feel healthy” (ý tôi muốn nói là “tôi cảm thấy Khỏe”) tức thì cả đội y tế ôm bụng cười ngặc nghẻo trong khi đó thân hình tôi không khác nào bộ xương người chết. Thật ra, từ lúc bắt đầu được tàu Mỹ vớt thì bao nhiêu vốn liếng từ ngữ Anh Văn mà tôi học ở những năm trung học chưa có cơ hội thực hành thì giờ đây nó lần lượt kéo đến trong tâm trí tôi, chỉ có điều chữ nào thoáng đến trong đầu là tôi vụt nói liền không cần để ý đến văn phạm. Nhưng rồi sau đó tôi rất ngại nói, nên tôi luôn dùng bút viết xuống những gì tôi cần nói, vì khi viết tôi có thì giờ sắp xếp câu kéo cho đúng văn phạm hơn. Nhờ có chút vốn liếng Anh Ngữ nên tôi có cơ hội gần gũi với vị thuyền trưởng, các bác sĩ trong đó có 1 bác sĩ người Nhật, và các y tá, đặc biệt là anh Hải Quân đầu bếp (Mr. Clinton A. Eastwood), anh thường xuyên trò chuyện với tôi, hỏi thăm những món ăn anh nấu có ngon không, tôi có thích không (và anh cũng là người sau này thường xuyên liên lạc thư từ với gia đình tôi khi chúng tôi được đưa vào tạm cư ở trại tỵ nạn Palawan Philippines, nhờ đó mà tôi có được những bài báo và hình ảnh chụp được trong lúc được tàu vớt, và năm 1982 khi chiếc Soái Hạm Blue Rigde LCC19 đến cảng Sydney cách nơi tôi cư ngụ khoảng gần 1 tiếng lái xe, thì anh cũng tìm đến thăm gia đình chúng tôi, khi đó tôi vừa mới sanh được cháu thứ nhì khoảng mười lăm ngày (đứa thứ nhất đã mất trên biển)).
Trở về câu chuyện trên chiếc Soái Hạm, thì một hôm có phái đoàn báo chí bay trực thăng đến thăm người tỵ nạn trên tàu và để phỏng vấn. Trước khi phái đoàn đến, tôi được khuyến khích để được quay một đoạn phim ngắn trong buổi phóng vấn nhỏ này vì tôi cứ lắc đầu từ chối, tôi cứ lấy tay che mặt và nói rằng “Tôi xấu lắm, tôi không muốn người khác thấy tôi trên truyền hình và tôi cũng không biết nói tiếng Anh nhiều”, nhưng anh y tá Hải Quân người luôn kề cận chăm sóc tôi (anh Robin) đưa cho tôi một cái gương và một cái lược, anh chãi đầu cho tôi và bảo tôi nhìn trong gương rồi anh nói “Look! You're beautiful!” (tôi chưa bao giờ thấy Chung Vô Diệm nhưng tôi tự nghỉ rằng mình cũng xấu như vậy) rồi anh nói tiếp “We're going to ask you a very very simple question, so don't worry, OK”. Thế rồi trong phút chốc phái đoàn báo chí đến có luôn vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội nữa, và rồi hàng loạt đèn sáng choang chiếu thẳng đến cái giường tôi đang được đỡ ngồi, một anh phóng viên cầm máy nói gì nhiều lắm nhưng tôi không để ý vì tâm trí bận suy nghĩ không biết họ sẽ hỏi tôi điều gì. Thế rồi người phóng viên đó chậm rãi hỏi tôi từng chữ một “Why did you escape from Vietnam”? Tôi chỉ trả lời vỏn vẹn “About freedom” và câu thứ hai là “How do you feel now?” lần này tôi đang tìm chữ nào khác với chữ “healthy” của hôm nọ thì anh y tá Hải Quân này mau mắn cất giọng hỏi khéo “Better”? nên tôi liền nói “Yes, I feel better”.
Năm ngày tạm trú trên chiếc Soái Hạm này rồi cũng phải đến ngày chia tay, ngày cuối trước khi chúng tôi chia tay với vị Hạm Trưởng cùng toàn thể các thuỷ thủ, tôi được vinh dự đi cùng vị Tham Mưu Trưởng đến từng giường bệnh để phát cho họ mỗi người một bản danh dự “Anh Hùng Vượt Biển” và một số tiền là 32 Mỹ Kim cho mỗi đầu người, số tiền này là do sự đóng góp của vị Hạm Trưởng và của toàn thể các thuỷ thủ trên chiếc Soái Hạm này. Tôi cũng được vinh dự đại diện cho nhóm người ty nạn trên phòng y tế này để ngỏ lời tri ân và bày tỏ lòng cảm kích của chúng tôi trước sự chăm sóc không hề mệt mỏi của toàn thể các thuỷ thủ trong các ngành. Chúng tôi luôn nhớ ơn nhân dân Mỹ nói chung và toàn thể mọi người trên chiếc Soái Hạm này nói riêng, lòng nhân đạo của họ là ngọn đuốc, là ánh sáng của thế giới Tự Do, nó sẽ chiếu sáng mãi mãi trong lòng chúng tôi, lòng của những người dân Việt tỵ nạn.
Qua những kinh nghiệm đau thương trong suốt cuộc hành trình vượt biển này, chúng tôi nhận biết rằng mạng sống con người thật quý báu, nhưng Tự Do là điều quý báu hơn hết. Lòng nhân đạo của nhân dân Mỹ đã để lại trong chúng tôi niềm cảm kích và sự tri ân sâu xa, tấm gương sáng này đã chứng minh được chỉ có con người của chủ nghĩa Tự Do mới có được những đức tính đó, chúng tôi đã học được từ quý vị lòng nhân ái, vị tha, và tình thương yêu nhân loại và những hình ảnh cao đẹp này sẽ không bao giờ phai nhạt trong lòng người dân Việt tỵ nạn yêu Tự Do của chúng tôi. Chúng tôi xin bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu xa đến vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội (Chief of Staff for Commander SEVENTH Fleet) ông Lewis W Chatham, vị Hạm Trưởng (Commanding Officer) ông John D Chamberlain, cùng toàn thể thuỷ thủ đoàn của chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 (dĩ nhiên trong đó có cả anh Hải Quân đầu bếp Clinton A. Eastwood và anh Robin). Hình ảnh của những vị đó sẽ không bao giờ nhạt nhòa trong ký ức chúng tôi. Chúng tôi luôn ao ước có cơ hội gặp lại những vị ân nhân này bằng xương bằng thịt để một lần nữa ngỏ lời tri ân đến họ và cũng để họ nhìn thấy gia đình chúng tôi - kết quả của việc làm nhân đạo quý báu mà họ đã thực hiện cách đây hơn 28 năm.
Tóm lại, vì quen sống trong một đất nước Tự Do Dân Chủ, vốn thừa hưởng được tất cả những quyền cơ bản của một con người, nên kể từ khi Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản thì tâm trí chúng tôi không ngừng nghỉ đến việc trốn thoát khỏi chế độ này. Vượt biên là con đường duy nhất và cái giá chúng tôi phải trả có thể là sự chia lìa (kẻ ở người đi, vợ xa chồng, con xa cha, ....), sự tù đày (chính bản thân mình và người thân cũng bị liên luỵ), cái chết (chính mạng sống mình và ngay cả mạng sống của những người thân yêu). Bằng nhiều cách, chồng tôi trước đây đã vượt biên 2 lần, anh đi một mình vì chủ tàu không nhận con nít, tôi đành để chồng ra đi và ở lại với con. Tôi nghĩ thoát được người nào hay người đó, để chồng ra đi một mình là tôi chấp nhận sẽ vĩnh viễn mất chồng vì thời gian đó chính quyền Việt Nam chưa có sự bang giao với các nước ngoài về vấn đề “Đoàn Tụ Nhân Đạo”. Nhưng hai lần vượt biên đó không thành công, lần thứ nhất bị lộ anh chạy thoát được nên không bị tù, còn lần thứ nhì thì đi với người em nhưng khi ra đến bến tàu, người chủ tàu thay đổi ý kiến chỉ nhận một người thôi nên chồng tôi nhường cho người em và người này đã đến được bến bờ Tự Do. Lần này là lần thứ ba chồng tôi được đi với vợ con vì người chủ tàu này nhận con nít, tưởng rằng lần ra đi này trọn vẹn không bỏ lại sau lưng người thân yêu của mình, nhưng cuối cùng chúng tôi vĩnh viễn mất đứa con yêu quí đầu lòng của mình, nỗi đau xót đó mãi theo chúng tôi đến cuối cuộc đời và đó chính là cái giá cho sự Tự Do mà chúng tôi đã chọn.
Hiện nay chúng tôi đang định cư tại Úc Đại Lơi, một quốc gia đầy lòng nhân ái, người dân ở đây đã mở rộng vòng tay yêu thương đón nhận và cưu mang gia đình chúng tôi trong suốt 28 năm qua và còn tiếp tục cho đến đời các con cháu của chúng tôi nữa. Không một lời nào đủ để diễn tả tấm lòng biết ơn sâu xa của gia đình chúng tôi đến với chính phủ và toàn thể nhân dân của đất nước này. Chúng tôi nguyện ghi khắc ơn sâu nghĩa nặng cho đến muôn đời.
Lý Tuyết Lê
(Viết tại Sydney ngày 09/03/09)
---o0o---
Người kể chuyện (tác giả của bài viết này) rất mong mỏi tìm kiếm, liên lạc được với các vị ân nhân đã từng cứu sống cô và gia đình cùng với rất nhiều người vượt biển khác. Vậy kính xin quý vị nào làm việc hoặc quen biết với những ai làm việc trong bộ Quốc Phòng hoặc Hải Quân Hoa Kỳ có được chi tiết của vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội (Chief of Staff for Commander SEVENTH Fleet) ông W. Lewis Chatham, vị Hạm Trưởng (Commanding Officer) ông John D. Chamberlain, và các thuỷ thủ đoàn trên chiếc Soái Hạm (Command Ship) USS Blue Ridge LCC19 đặc biệt là anh đầu bếp Clinton A. Eastwood và anh Robin (tất cả những người này đã làm việc trên tàu này trong khoảng thời gian 1980-1982) xin vui lòng gởi về đia chỉ email: tlblueangel@ gmail.com Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó '; document.write( '' ); document.write( addy_text33869 ); document.write( '<\/a>' ); //-->\n Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it . Xin đa tạ!
The rescuee wishes to make contact with those who were the saviors of many Vietnamese boat people, including herself and her family. So she kindly asks those with information or contact details leading to the Chief of Staff for Commander of the SEVENTH Fleet, Captain W.. Lewis Chatham, the Commanding Officer John D. Chamberlain, and any of the crew on board the Command Ship USS Blue Ridge LCC19, particularly the chief cook Mr. Clinton A. Eastwood and Robin (on duty during 1980-1982). Please kindly send them to the email address: tlblueangel@ gmail.com Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó '; document.write( '' ); document.write( addy_text33869 ); document.write( '<\/a>' ); //-->\n Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it . Very much appreciated!
Dưới đây là bản tóm tắt cuộc hải trình lên đênh trên biển 26 ngày phong ba, bão táp, đói khát, chết chóc, ... do chính những người sống sót được chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 cứu vớt kể lại bằng Anh ngữ. Chắc hẳn quý vị cũng phải hiểu rằng họ mới được cứu sống, chưa hoàn hồn và vẫn còn đang sống trong nỗi kinh hoàng, trong nỗi đớn đau, mất mát người thân, ... và tuy được sự giúp đỡ của thủy thủ đoàn về một số từ ngữ nhưng vốn liếng tiếng Anh của họ rất là it ỏi, hơn nữa lại được viết theo lối nói và cách suy nghĩ của người Việt Nam chúng ta (nghĩ sao nói vậy), do đó lỗi chính tả, văn phạm rất nhiều (nhưng viết được như vậy là khá lắm rồi). Cho nên khi đọc bài này, những người mà Anh văn là ngôn ngữ chính thì sẽ “điên đầu”, nhưng những người lớn (thuộc thế hệ thứ nhất) thì hiểu ngay.
Câu chuyện vượt biến (bằng Anh ngữ) của những người này đã được đánh máy và sao ra để phát cho mỗi người trong chuyến tàu vượt biển đó một bản, và cũng được lưu giữ làm tài liệu cho chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19. Vì bản sao không được rõ cho nên xin phép được đánh máy lại (nguyên văn) cho dễ đọc.
The following was written by the Vietnamese refugees from the second boat and is quoted in full:
Vietnamese refugees story of terror about 26 days on the sea (10/9 – 6/10)
After the departure of the Americans on 30/4/75, millions of Vietnamese, having given up their properties and heritages have left their country to get freedom. The freedom, they knew, that they must pay by their life or their whole family life. Even with rudimental means, many people, found their way to leave this unfortunate miserable country. During the past 5 years the communism (has given) to the VN people uncountable griefs and sorrows. All liberties were cancelled even the freedom of the press and the freedom of the religions and the economic conditions was at the worst. There we can see anywhere, guns and jails. Used to live in freedom, never we forget to go away. But the importance is to go away safely. We loved the freedom and the peace but we must get assurance for the remaining relatives in VN. We must not be caught by the communists, so the remaining could not get any consequences. At least, we left VN in the night 10/9. It rained but we must wait for the boat during 2 hours. We got numbed. At 2h35 the boat went to the sea without any difficulties with control stations Thanks to God. The wind was against us and our captains was not experienced. Instead of reaching Hai Nam, Hong Kong, we lost the position after 2 days. Our condition became worse because of the lack of fuel, foof and drinking water. On the 3rd day we conducted the boat by the sun. The 3rd night, a cyclone throwed us to the eastern. Our life were placed in the hands of God, we could do nothing. Each person had 1 tea-spoon of rice per day. The children cried because of the lack of food and drinking water. We left sorrow but could do nothing. The provisions were finished on the 6th day and the boat went anywhere God has decided. When the last drop of water vanished, and as it did not rain, the children began to die: one, two, … at the fith child-death it rained. Their corpses were tied to rock and thrown into the sea to avoid deseases. The others drank urinate or sea-water. It was a great pain but we know that, comparing with the freedom, the salty tatste of sea-water and the bad smell of the urinate were nothing. We accepted these griefs without any lamentation because we have wanted to obtain the freedom. After 7 days of sunshine, a rain has helped us to live for one more period. Now, we hoped our boat to be far in the south, so it increased chances of meeting foreign ships of fishing ships. During 26 days we have met many great ships. But they didn’t rescue us or we didn’t have any means to make signals. We were only dry and emaciated bodies because of the lack of nutrition. On 6/10 in the afternoon, suddenly, a navy helicopter saw us. We have tried to ask help and immediately LCC19 of 7th fleet rescued us at 6 o’clock. We were very happy.
The test between life and death was passed. We know that life was precious but the freedom was much more. The humanitarian spirit of the Americans gave us deep emotions. They have rescued us and made we knew that only Man of freedom would respect the dignity and the liberty of their brothers.
In our hearts, the precious and uninterrupted take care and services given by the Americans on LCC19, did not vanished forever. We thank the Amrican people and we have learned from you the generosity and the altruism and the humanitarian lesson.
The present for 33 rescued refugees, express our sincere thanks to the whole Americans in LCC19 and we wish the other loving freedom Vietnamese who have or are leaving VN could get luckyness and chances like us.
Your exemplary altruism and humanitarism will certainly adjoin the Freedom doctrine in the world; we must know that life is precious but the freedom is much more precious.
Trong cuốn sổ hải trình của chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 cũng có đề cập chuyện cứu vớt chuyến tàu vượt biển kể trên – Blue Ridge LCC-19 Naval Cruise Book
http://www.e- yearbook. com/yearbooks/ Blue_Ridge_ LCC_19_Cruise_ Book/1986/ Page_69.html
Dưới đây là một số hình ảnh cảnh các thuyền nhân khi được cứu vớt lên chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 – Vui lòng vào nối kết dưới đây để xem hình ảnh kỷ niệm tình người của thế giới tự do..
http://picasaweb. google.com/ n.9oo9le/ BlueRidgeLCC19#Ghi chú: Các hình ảnh này là gồm những người trong 2 chiếc tàu vượt biển được cứu vớt trong cùng một ngày (06/10/1980) - tất cả là 92 người. Chiếc đầu tiên phát xuất từ Vũng Tàu (55 người), khi được tàu cứu thì còn khoẻ mạnh, nhưng những người trên chiếc thứ 2 phát xuất từ Đà Nẵng (là chiếc tàu trong câu chuyện này – 37 người) thì đa số đều phải nằm ở Medical Clinic vì 26 ngày đói khát lênh đên trên biển. Chiếc tàu đi từ Vũng Tàu được vớt trước, khi lên tàu họ báo là còn chiếc thứ 2 cùng đi một lần với họ nhưng bây giờ không biết ở đâu. Vì vậy trực thăng đi kiếm chiếc kia thì lại gặp được chiếc đi từ Đà Nẵng. May mắn thay!
Lý Tuyết Lê
Blue Ridge (LCC19) Thiên Thần Áo Xanh
Thay cho lời giới thiệu:
Một số lớn những người Việt tha hương (tỵ nạn) và những người đang lê lết một cuộc đời cùng khổ, đầy bất công, áp bức dưới chế độ CS tại quê nhà đều có những quảng đời - là những cuốn phim mà không một cuốn phim nào dầu chiếm được hàng bao giải thưởng cũng không sao sánh bằng; là những tập truyện mà không một tập truyện nào dầu thuộc loại bán chạy nhất cũng không làm sao qua mặt được.
Những quãng đời đó dầu có thực sự được quay thành phim, viết thành truyện cũng không bao giờ có thể lột tả, nói lên được tất cả những gì đã xảy ra chung quanh họ, và những gì đã diễn ra trong lòng họ. Do đó chỉ có chính họ, là những người trong cuộc, là những chứng nhân, là những nhân vật trong cuốn phim, trong tập truyện của đời mình mới cảm nhận được tất cả những sự âu lo, phiền muộn, những nổi buồn xót xa, câm nín, những niềm hy vọng mong manh, thoáng chốc, những nỗi tuyệt vọng não nề, buông xuôi cho số kiếp, những sự sợ hãi, kinh hoàng đến chết ngất, những cơn đói khát vật vã, rã rời, những nỡi uất nghẹn đắng cay đến tột cùng, những nỗi tủi nhục tối tăm sâu thẳm, những nỡi mừng vui nghẹn ngào đầy nước mắt, những nỡi đớn đau quằn quại có lúc chất ngất trong lòng có lúc ray rức kéo dài như vô tận... Quãng đời họ là những cuốn phim không cần đạo diễn dàn dựng, là những tập truyện không cần hư cấu bởi nhà văn, là những câu chuyện sống thực cùng với nhịp tim, hơi thở và những cảm xúc của một đời người.
---o0o---
Câu chuyện xảy ra cách đây hơn 28 năm, tuy vậy ký ức tôi vẫn còn ghi rõ, vì đó là một kinh nghiệm đau thương, hãi hùng nhất trong cuộc đời tôi..
Trưa hôm đó (10/09/1980/ ) một buổi trưa gần cuối Thu, trời Đà Nẵng bổng dưng mây kéo về đen kịt, và mưa đổ không ngớt, tôi đang khe khẽ hát những câu ca dao ru con ngủ, nhìn con ngủ mà lòng xót xa, nghĩ rằng tương lai nó sẽ mù mịt như bầu trời ngoài kia, vì nó không may sanh ra trong một đất nước không có tự do. Nhà nội nó thì bị nhà nước trưng dụng, cả gia đình nội phải dồn vào một nhà kho chật hẹp tối tăm ẩm thấp để sinh sống. Không chỗ nương thân ba mẹ nó phải bồng nó chạy về nhà ngoại để tá túc... Thình lình tiếng chuông trước cổng nhà vang lên cắt đứt dòng tư tưởng, tôi nhẹ nhàng xỏ vội đôi dẹp nhựt đi xuống lầu thì đã thấy má tôi mở cửa đón khách vào nhà. Đó là một chàng thanh niên, anh ta là người bà con với ông chủ tàu mà gia đình tôi có dịp bàn tính chuyện vượt biên. Sau khi được trấn an là không có ai khác ngoài má tôi, ông ngoại và tôi, thì người thanh niên này vô đề liền: "Bây giờ mưa to gió lớn và biển đang động, công an biên phòng không nghĩ rằng có ai to gan dám vượt biên trong thời tiết này, nên mình phải nắm lấy cơ hội". Rồi người thanh niên này bắt đầu cho biết giờ giấc, điểm hẹn và cách gặp người dẫn đường, xong anh ta vội vã đội mưa ra về.
Không khí trong nhà trở nên căng thẳng vì lòng mỗi người đầy những nỗi lo âu: chồng tôi đi làm chưa về, 2 em trai cũng không có mặt tại nhà, không có cách nào liên lạc được, còn ngoài kia trời mưa như thác lủ, vượt biên trong lúc này có nghĩa là đem mạng đi nạp cho thần biển. Trong lúc má tôi và tôi đang rối lên không biết toan tính như thế nào, thì ông ngoại tôi bảo quỳ xuống để ông cầu nguyện. Khi ông ngoại tôi vừa dứt lời cầu nguyện thì hai em trai của tôi về tới, lúc đó gần ba giờ chiều. Và chúng tôi lại thêm một phen sốt ruột chờ chồng tôi nữa, rất may hôm đó chồng tôi về nhà sớm hơn mọi khi vì trời mưa nên bạn bè không rũ đi nhậu, cuối cùng rồi mọi người cũng về đầy đủ, cuộc hành trình của chúng tôi bắt đầu từ đó.
Theo như lời người thanh niên lúc trưa căn dặn, tôi và hai em trai tôi đi phà qua sông Hàn, lúc đó khoảng gần 5:30 giờ chiều, sau khi phà cập vào bến quận Ba, An Hải, chúng tôi phải đảo mắt kiếm người thanh niên nào có mang dây chuyền hình cái neo, trời lúc đó nhá nhem tối và mưa rất lớn nên rất khó cho chúng tôi tìm người mà mình chưa bao giờ biết mặt. Người dẫn đường nhận ra được dáng điệu dáo dác của chúng tôi, nên anh ta tiến tới trước mặt chúng tôi không nói gì hết rồi lặng lẽ bước đi (đó là mật hiệu), chúng tôi thấy nơi cổ của anh có sợi dây chuyền hình cái neo, do đó người này đi đâu chúng tôi cũng phải bám sát theo để không bị lạc. Vì nhằm giờ cao điểm kẻ tan trường, người tan sở nên việc bám sát theo người này cũng rất khó, nhiều lần bị lạc, chúng tôi ngẫn ngơ quýnh quáng không biết mình đang ở đâu, tim chúng tôi đập thình thịch vì sợ công an nghi ngờ đến bắt, nhưng rồi người dẫn đường quay trở lại kiếm được chúng tôi. Sau đó anh đi vào quán bún bò Huế ven đường, chúng tôi cũng vào theo, sau này tôi mới hiểu, thì ra phải chờ thêm một nhóm năm người con của bạn ba tôi nữa. Sợ chủ quán nghi ngờ tôi gọi ba tô bún bò Huế cho ba chị em tôi, nhưng bún đem lên chưa kịp ăn thì người thanh niên dẫn đường đứng dậy rời quán vì đã thấy nhóm năm người kia sắp bước vào, chúng tôi vội vã trả tiền và rời theo làm chủ quán cũng ngơ ngác. Rời quán bún, người dẫn đường đưa chúng tôi đến một khu nghĩa địa, anh bảo chúng tôi phải ở đó chờ người khác dẫn đường tiếp. Ba chị em chúng tôi núp ở một ngôi mộ có tấm bia thật lớn, thình lình người trong xóm cầm đuốc đi kiếm gà của họ bị lạc. Một lần nữa ba chị em chúng tôi lại một phen sợ hãi, tay chân run rẫy, tim hầu như ngưng đập vì thấy người đàn bà đó càng lúc càng tiến về nơi chúng tôi đang núp, ba chị em chúng tôi nhắm nghiền mắt và ôm chặt lấy nhau, hình ảnh nhà tù cộng sản hiện lên trong trí tôi thật kinh khiếp, nước mắt chúng tôi tuôn trào, không ai bảo ai chúng tôi cắn chặt môi cố nén tiếng khóc. Nhưng lạ lùng thay, Chúa đã ngăn trở bước đi của người đàn bà đó, khi tiếng chân của người đàn bà đến gần nơi chúng tôi ẩn núp trong gang tấc thì bà bắt được con gà của bà. Tiếng kêu oang oác của con gà làm chúng tôi bừng tỉnh lại, chúng tôi chỉ biết cúi đầu thầm tạ ơn Chúa.
Bây giờ thì trời đã tối hẳn, có một người thanh niên khác tìm đến nơi chúng tôi ẩn núp, anh ta không nói gì ngoài ba tiếng “đi theo tôi”. Anh dẫn chúng tôi đi qua những con đường đất ngoằn nghèo rồi cuối cùng dẫn chúng tôi vào một căn nhà nào đó mà bây giờ tôi không tài nào nhớ được, vì lúc đó trời tối đen như mực, ngay cả chị em chúng tôi cũng không nhìn thấy mặt nhau. Họ để ba chị em chúng tôi tại đây cho đến khoảng 12 giờ khuya (sau này tìm hiểu tôi mới biết khoảng giờ đó) thì họ dẫn ba chị em tôi ra bờ biển thuộc vùng Thọ Quan, nơi đó có sẵn một cái thúng lớn, người này lật thúng lên thì đã có một người nằm chờ dưới thúng ngồi dậy, và họ đưa chúng tôi ra tàu cá đang chờ sẵn ngoài khơi. Nhưng ra đến nơi thì chúng tôi không thấy bóng dáng chiếc tàu cá đâu hết, chung quanh chúng tôi là vùng biển rộng mênh mông với một màu đen tối rợn người. Chúng tôi ngồi trên thúng chồng chềnh theo làn sóng mà lòng bồn chồn lo lắng, rồi lần lượt những thúng khác chở ăm ắp người cũng chèo đến, gần hai tiếng đồng hồ sau thì tàu mới xuất hiện. Khi lên tàu rồi thì việc đầu tiên là tôi kiếm chồng và con tôi, vì hai người được dẫn đi đường khác. Thấy tôi, chồng tôi lên tiếng để trấn an, chồng tôi khen con tôi rất ngoan, tuy mới hơn ba tuổi nhưng dặn nó không được hỏi, không được nói, không được khóc nếu sợ bóng tối, thì nó rất ngoan ngoãn không lên tiếng trong suốt cuộc hành trình trong bóng đêm, có lẽ nó cũng cảm nhận được sự nguy hiểm vây quanh cha con nó.
Hai giờ sáng tàu bắt đầu chạy ra cửa biển, ra đến cửa biển sóng có phần êm hơn. Tàu chạy một lúc xa thì trời hừng sáng, mọi người thấy an tâm vì thoát được sự kiểm soát của công ban biên phòng. Bắt đầu từ đó tàu chúng tôi lênh đênh không định hướng, vì tài công là một thanh niên trẻ chỉ biết lái tàu đi đánh cá chứ không biết nhắm hướng cũng không biết xem la bàn. Trên tàu ngoài gia đình tôi năm người, năm người con của bạn ba tôi, chín người của gia đình ông chèo thúng đưa khách, ba người anh bà con của tôi và hai con trai của họ, còn có một số thanh niên nam nữ bạn của người tài công trẻ chạy theo. Do đó số người trên tàu lên đến bốn mươi lăm người kể cả mười đứa con nít dưới mười tuổi. Trong khi đó thực phẩm chỉ tính đủ cho hai mươi lăm người chính thức có trong kế hoạch vượt biên này mà thôi. Đã vậy, sau này mới vỡ lẽ ra là trước đó, gần ngày vượt biên một số lương thực bị mất cắp.
Qua đến ngày thứ ba, một cơn bão biển suýt nhận chìm chiếc tàu mỏng manh của chúng tôi giữa lòng biển cả. Tôi không thể nào quên được cơn hãi hùng này, chiều hôm đó mây đen phủ kín cả vòm trời, gió mạnh như cơn lốc, và sóng biển cuồn cuộn trổi lên, vợ chồng tôi và cháu nhỏ cùng hai em trai tôi và vài người nữa đang còn ngoài khoang tàu trong khi hầu hết mọi người khác được ở trong cabin. Cửa cabin lúc ấy bị đóng chặt, chúng tôi đập cửa khóc lóc kêu gào thảm thiết. Có lẽ những người bên trong không dám mở cửa cabin trong lúc này vì sợ nước biển tràn vào, một phần có lẽ tiếng gió và tiếng gầm thét của những đợt sóng khổng lồ át đi tiếng kêu gào của chúng tôi. Mãi đến 10 phút sau, gió càng mãnh liệt và sóng càng dữ dội hơn thì họ mở cửa cho chúng tôi vào ẩn mình. Trong những giờ phút ngoài khoang tàu, tôi vô cùng kinh khiếp khi nhìn thấy từng đợt sóng khổng lồ nâng bổng chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi lên thật cao, rồi ném chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi xuống vực sâu tối ngòm, nhìn lên tôi thấy đợt sóng khác tới nó vươn lên như một bức tường thật cao và đổ ập xuống như muốn nhận chìm chiếc tàu của chúng tôi, nước văng tung toé, tay tôi ôm chặt thanh gỗ nơi cửa vào cabin vừa khóc vừa kêu gào thảm thiết. Nhiều khi nghĩ lại, tôi tự hỏi làm sao chồng tôi có thể vừa giữ chặt con vừa bám chặt vào mạng thuyền, và tất cả chúng tôi ngoài khoang tàu không bị sóng biển ném tung ra khỏi tàu, làm sao chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi có thể sống còn qua cơn bão đó, chắc chắn phải có bàn tay vô hình nào đó che chở chúng tôi, bàn tay vô hình đó chính là bàn tay của Thượng Đế.
Trong những ngày đầu còn dầu, thì tài công không biết định hướng đi đến Hong Kong, anh ta cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà chạy cho đến khi cạn không còn dầu để chạy nữa thì lúc đó chúng tôi thấy dãy núi mờ mờ từ đàng xa. Thì ra tàu chúng tôi trôi giạt đến Nha Trang mà tưởng rằng đang ở gần đảo Hải Nam, lương thực và dầu đã cạn, có ba người thanh niên đưa ý kiến, ai có vàng hoặc tiền bạc, đồng hồ đeo tay thi giao cho họ, họ sẽ đi thúng vào dãy núi đó mua dầu và lương thực đem ra để đi tiếp. Đó là niềm hy vọng cuối cùng nên mọi người có vàng đưa vàng, có đồng hồ đưa đồng hồ, tôi cũng cởi chiếc nhẩn cưới đưa cho ba người này (sau này đến được bến bờ tự do, chúng tôi mới hay rằng ba người này đi thúng vào bờ và bị công an bắt tại Nha Trang).
Ngày lại ngày trôi qua, nhưng bóng dáng 3 người đi mua dầu và lương thực vẫn biệt tăm. Chúng tôi chi biết cầu nguyện và phó thác đời sống mình cho Chúa. Không thức ăn, nước uống, chúng tôi phải uống nước tiểu và nước biển có bỏ đường hóa học để sống qua ngày, nhờ năm người con của bạn ba tôi có mang theo đường hóa học. Nói chung, gia đình tôi và năm người con của bạn ba tôi vì tin tưởng chủ tàu chuẩn bị lương thực chu đáo nên chúng tôi không mang theo bất cứ một lương thực nào, ngoài trừ chồng tôi trước khi đi anh có giấu được một lon sữa đặc trong túi quần cho con tôi và năm người kia có giấu theo một gói nhỏ đường hóa học. Hơn nữa, cũng để tránh cặp mắt nghi nghờ của mọi người, chúng tôi không mang theo bất cứ quần áo hay vật dụng cá nhân nào, trên người chúng tôi vỏn vẹn mỗi người chỉ có một bộ áo quần mình đang bận.
Hơn mười ngày trôi qua không thức ăn, nước uống, trẻ con khóc lóc kêu gào thảm thiết, con tôi chỉ nước trên biển mà trách chúng tôi tại sao nước trên biển nhiều như vậy mà không cho nó uống, lòng tôi đau như đứt từng đoạn ruột khi nhìn thấy con tôi và những trẻ con khác rã rời, quằn quại, rên xiết vì đói và khát. Rồi 1, 2, 3, 4, đứa con nít dần dần ra đi. Đêm hôm đó là đêm thứ mười sáu trên biển, tôi ôm con tôi vào lòng tuyệt vọng, thình lình một cơn mưa thật lớn đổ xuống, mọi người đều mừng rỡ, chồng tôi mau mắn hứng được một bình nước nhỏ, gắng sức trườn người vào cabin đưa cho tôi để tôi cho con uống, vì quá mừng nên tôi hút một hơi thật mạnh để nước chảy vào một ống nhỏ, xong tôi chuyền ống nhỏ đó vào miệng con tôi với hy vọng con mình sẽ được nuôi sống, nước vào miệng quá nhanh con tôi không kịp nuốt thì tắt thở ngay trên tay của tôi vì sức lực nó không còn nữa. Quá đau khổ, tôi ôm con chặt vào lòng và khóc, khóc thật nhiều nhưng hầu như không có một giọt nước mắt nào tuôn ra. “Khi con người quá đau khổ thì không còn nước mắt để khóc", tôi nghe câu nói này nhiều lần nhưng cứ nghĩ rằng đó chỉ là một câu trong văn chương thôi, bây giờ thì tôi thật sự kinh nghiệm về điều đó. Sáng hôm sau, một tay ẳm xác con, một tay chống đỡ lê lết tấm thân kiệt sức của mình để đem xác con ra ngoài khoang tàu cho chồng và hai người cậu nó thấy mặt lần chót. Vì chồng tôi và hai cậu nó ở cuối mõm thuyền, do đó con tôi được chuyền qua một vài người trước khi đến tay chồng tôi. Khi ở trên tay những kẻ xa lạ tôi không thấy điều gì lạ xảy ra, tuy nhiên khi chồng tôi vừa đưa tay ẳm lấy con tôi, thì tự nhiên môi con tôi sùi bọt nước miếng, và máu thật tươi tuôn ra từ lỗ mũi và hai lỗ tai của nó. Con tôi biết giờ đây nó được nằm trong vòng tay yêu thương của ba nó, một mối liên hệ phụ tử thiêng liêng được bày tỏ qua một thân xác không còn sự sống.
Dầu yêu thương con đến mức nào đi nữa cũng không thể nào giữ được xác con trong vòng tay của mình, chúng tôi đành lòng phải bỏ xác nó xuống lòng biển cả. Đặc biệt cái chết của con tôi được nhiều người thương và lo chu đáo, vài người trên tàu gỡ hai tấm ván nhỏ từ chiếc tàu của chúng tôi, họ đóng lại như hình chữ thập, đặt xác con tôi nằm trên đó, rồi dùng lưới cá quấn quanh thân hình nhỏ bé của con tôi. Họ nói rằng phải đóng ván theo hình chữ thập thì mới thăng bằng không bị sóng đánh lật úp mặt nó xuống biển cá sẽ đến rĩa ăn, họ cho rằng nếu con tôi may mắn gặp một tàu cá nào đó, họ sẽ làm phước vớt đem vào bờ để chôn vì lúc đó chúng tôi vẫn còn thấy dãy núi mờ mờ từ đàng xa, nên chúng tôi chỉ biết hy vọng như vậy, (trong một bản tóm tắt chuyến vượt biên của chúng tôi bằng tiếng Anh có một sơ sót nhỏ là con tôi được cột vào cục đá để bỏ xuống biển thay vì cột vào 2 tấm ván thuyền). Sau đó một người anh bà con của tôi có mang theo quyển Kinh Thánh, anh mở ra đọc vài câu trong Kinh Thánh rồi cầu nguyện trước khi thả xác con tôi xuống biển, lúc đó tôi ngoảnh mặt đi nơi khác vì không muốn chứng kiến cảnh đau lòng này.
Nước mưa hứng được đêm đó đã tạm nuôi sống chúng tôi trong một thời gian ngắn. Rồi một hôm (06/10/1980/ ) tôi nằm chờ chết trong cabin vì sức tôi đã quá kiệt quệ, 26 ngày không một chút gì trong bao tử ngoại trừ nước tiểu vì nước mưa hứng được hôm trước đã không còn một giọt. Thình lình có tiếng chồng tôi và vài người nữa ngoài cabin “có máy bay, có máy bay”, tôi nhìn ra thấy chồng tôi đang dùng cái áo thun trắng đã cũ mèm để vẩy ra hiệu, nhưng tôi vẫn không một chút hy vọng nào, vì đã bao lần chúng tôi thấy máy bay bay xa thật xa trên bầu trời nhưng họ nào có thấy chúng tôi đâu. Nhưng rồi tiếng máy bay trực thăng dần dần nghe rõ dần, và tiếng mọi người mừng rỡ, hình như có một lực nào thật mạnh trong tôi vực tôi dậy và tự nhiên tôi có sức để bò ra ngoài khoang tàu. Tôi thấy chiếc máy bay trực thăng từ từ hạ thấp xuống, lúc đó một người trên tàu chúng tôi viết hàng chữ bằng tiếng Anh “Don't drop any food, Please rescue us”, thì ngay lập tức một quân nhân Mỹ trên máy bay trực thăng viết hàng chữ bằng tiếng Việt “chờ năm phút sẽ có tàu đến”. Rồi họ bắt đầu bắn những trái khói màu quanh tàu của chúng tôi để định vị trí cho tàu lớn đến cứu. Vài phút sau qua làn khói màu tản mác, từ đàng xa chúng tôi nhìn thấy một vật nhỏ di động rồi từ từ lớn dần, chẳng mấy chốc trước mặt chúng tôi sừng sững một chiếc tàu chiến khổng lồ cách tàu chúng tôi ở một khoảng cách an toàn. Đó là chiếc Soái Hạm (Command Ship) của Đệ Thất Hạm Đội có tên là “Blue Ridge LCC19”. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ như được sinh lại lần thứ nhì. Đoàn thuỷ thủ bắt đầu bỏ thang dây xuống và đi ca-nô qua tàu chúng tôi. Trên ca-nô có 4 người lính Hải Quân mang phao cá nhân, và nổi bật hơn hết là lá cờ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tung bay trước gió, nhìn lá cờ mà lòng tôi bồi hồi xúc động vì nó biểu tượng cho Tự Do và tình nhân loại. Họ dùng loa yêu cầu chúng tôi giữ bình tỉnh, anh Hải Quân cầm tay lái cố gắng điều khiển chiếc ca-nô cặp sát vào tàu chúng tôi, trẻ em và phụ nữ được ưu tiên di chuyển qua tàu chiến trước, sau cùng là nam giới. Các thuỷ thủ, một tay kẹp chúng tôi và một tay chụp lấy thang dây để leo, hàng chục cánh tay thòng xuống kéo chúng tôi lên. Đối với tôi, đó là giờ phút vô cùng thiêng liêng và vô cùng xúc động, nó cho tôi thấy chỉ có những người của chủ nghĩa Tự Do mới thể hiện được tình yêu thương nhân loại và cảm thông được những đau thương mất mát của những người vì 2 chữ Tự Do mà liều mình vượt biển.
Khi tất cả chúng tôi được an toàn đưa lên chiếc Soái Hạm này rồi, thì điều đầu tiên là họ cho chúng tôi mỗi người 1 ly súp lỏng (clear soup) đang còn nóng hổi và sau đó họ bắt đầu khám tim mạch từng người. Tôi và em tôi cùng một vài phụ nữ khác vì quá yếu nên được chuyển lên Medical Clinic. Tại đây chúng tôi được chăm sóc sức khoẻ thật chu đáo, họ bồng chúng tôi đi tắm, dĩ nhiên là họ rất tôn trọng phụ nữ chúng tôi, nên họ chỉ mở nước điều chỉnh ở độ ấm vừa phải và dạy chúng tôi cách dùng thuốc gội đầu đặc biệt để giết chí, rồi họ đứng canh ngay cửa phòng tắm để đề phòng trường hợp chúng tôi bị té hay bất cẩn gì đó. Chúng tôi vô cùng cảm kích trước tấm lòng nhân ái bao la của những người lính Mỹ khác màu da, họ không màng đến thân hình xơ xác bẩn thỉu hôi hám của chúng tôi, trong khi chí trên đầu rơi rớt đồm độp, nhưng họ ôm chúng tôi vào lòng, bồng ẳm chúng tôi khi chúng tôi cần những phương tiện vệ sinh cá nhân. Sau đó họ phát cho chúng tôi mỗi người 1 áo thun trắng và đồ lót để bỏ đi những áo quần hôi hám mà suốt 26 ngày đêm dầm với mồ hôi, dầu nhớt, nước tiểu và nước biển mặn.
Tôi còn nhớ rõ một kỷ niệm rất buồn cười mà tôi đã làm những người trong đội y tế một phen cười nứt bụng, đó là ngay sau khi uống cạn ly súp đầu tiên khi vừa mới được chuyển lên tàu, một anh y tá hỏi tôi rằng “How do you feel”?, tôi trả lời ngay không chút suy nghĩ “I feel healthy” (ý tôi muốn nói là “tôi cảm thấy Khỏe”) tức thì cả đội y tế ôm bụng cười ngặc nghẻo trong khi đó thân hình tôi không khác nào bộ xương người chết. Thật ra, từ lúc bắt đầu được tàu Mỹ vớt thì bao nhiêu vốn liếng từ ngữ Anh Văn mà tôi học ở những năm trung học chưa có cơ hội thực hành thì giờ đây nó lần lượt kéo đến trong tâm trí tôi, chỉ có điều chữ nào thoáng đến trong đầu là tôi vụt nói liền không cần để ý đến văn phạm. Nhưng rồi sau đó tôi rất ngại nói, nên tôi luôn dùng bút viết xuống những gì tôi cần nói, vì khi viết tôi có thì giờ sắp xếp câu kéo cho đúng văn phạm hơn. Nhờ có chút vốn liếng Anh Ngữ nên tôi có cơ hội gần gũi với vị thuyền trưởng, các bác sĩ trong đó có 1 bác sĩ người Nhật, và các y tá, đặc biệt là anh Hải Quân đầu bếp (Mr. Clinton A. Eastwood), anh thường xuyên trò chuyện với tôi, hỏi thăm những món ăn anh nấu có ngon không, tôi có thích không (và anh cũng là người sau này thường xuyên liên lạc thư từ với gia đình tôi khi chúng tôi được đưa vào tạm cư ở trại tỵ nạn Palawan Philippines, nhờ đó mà tôi có được những bài báo và hình ảnh chụp được trong lúc được tàu vớt, và năm 1982 khi chiếc Soái Hạm Blue Rigde LCC19 đến cảng Sydney cách nơi tôi cư ngụ khoảng gần 1 tiếng lái xe, thì anh cũng tìm đến thăm gia đình chúng tôi, khi đó tôi vừa mới sanh được cháu thứ nhì khoảng mười lăm ngày (đứa thứ nhất đã mất trên biển)).
Trở về câu chuyện trên chiếc Soái Hạm, thì một hôm có phái đoàn báo chí bay trực thăng đến thăm người tỵ nạn trên tàu và để phỏng vấn. Trước khi phái đoàn đến, tôi được khuyến khích để được quay một đoạn phim ngắn trong buổi phóng vấn nhỏ này vì tôi cứ lắc đầu từ chối, tôi cứ lấy tay che mặt và nói rằng “Tôi xấu lắm, tôi không muốn người khác thấy tôi trên truyền hình và tôi cũng không biết nói tiếng Anh nhiều”, nhưng anh y tá Hải Quân người luôn kề cận chăm sóc tôi (anh Robin) đưa cho tôi một cái gương và một cái lược, anh chãi đầu cho tôi và bảo tôi nhìn trong gương rồi anh nói “Look! You're beautiful!” (tôi chưa bao giờ thấy Chung Vô Diệm nhưng tôi tự nghỉ rằng mình cũng xấu như vậy) rồi anh nói tiếp “We're going to ask you a very very simple question, so don't worry, OK”. Thế rồi trong phút chốc phái đoàn báo chí đến có luôn vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội nữa, và rồi hàng loạt đèn sáng choang chiếu thẳng đến cái giường tôi đang được đỡ ngồi, một anh phóng viên cầm máy nói gì nhiều lắm nhưng tôi không để ý vì tâm trí bận suy nghĩ không biết họ sẽ hỏi tôi điều gì. Thế rồi người phóng viên đó chậm rãi hỏi tôi từng chữ một “Why did you escape from Vietnam”? Tôi chỉ trả lời vỏn vẹn “About freedom” và câu thứ hai là “How do you feel now?” lần này tôi đang tìm chữ nào khác với chữ “healthy” của hôm nọ thì anh y tá Hải Quân này mau mắn cất giọng hỏi khéo “Better”? nên tôi liền nói “Yes, I feel better”.
Năm ngày tạm trú trên chiếc Soái Hạm này rồi cũng phải đến ngày chia tay, ngày cuối trước khi chúng tôi chia tay với vị Hạm Trưởng cùng toàn thể các thuỷ thủ, tôi được vinh dự đi cùng vị Tham Mưu Trưởng đến từng giường bệnh để phát cho họ mỗi người một bản danh dự “Anh Hùng Vượt Biển” và một số tiền là 32 Mỹ Kim cho mỗi đầu người, số tiền này là do sự đóng góp của vị Hạm Trưởng và của toàn thể các thuỷ thủ trên chiếc Soái Hạm này. Tôi cũng được vinh dự đại diện cho nhóm người ty nạn trên phòng y tế này để ngỏ lời tri ân và bày tỏ lòng cảm kích của chúng tôi trước sự chăm sóc không hề mệt mỏi của toàn thể các thuỷ thủ trong các ngành. Chúng tôi luôn nhớ ơn nhân dân Mỹ nói chung và toàn thể mọi người trên chiếc Soái Hạm này nói riêng, lòng nhân đạo của họ là ngọn đuốc, là ánh sáng của thế giới Tự Do, nó sẽ chiếu sáng mãi mãi trong lòng chúng tôi, lòng của những người dân Việt tỵ nạn.
Qua những kinh nghiệm đau thương trong suốt cuộc hành trình vượt biển này, chúng tôi nhận biết rằng mạng sống con người thật quý báu, nhưng Tự Do là điều quý báu hơn hết. Lòng nhân đạo của nhân dân Mỹ đã để lại trong chúng tôi niềm cảm kích và sự tri ân sâu xa, tấm gương sáng này đã chứng minh được chỉ có con người của chủ nghĩa Tự Do mới có được những đức tính đó, chúng tôi đã học được từ quý vị lòng nhân ái, vị tha, và tình thương yêu nhân loại và những hình ảnh cao đẹp này sẽ không bao giờ phai nhạt trong lòng người dân Việt tỵ nạn yêu Tự Do của chúng tôi. Chúng tôi xin bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu xa đến vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội (Chief of Staff for Commander SEVENTH Fleet) ông Lewis W Chatham, vị Hạm Trưởng (Commanding Officer) ông John D Chamberlain, cùng toàn thể thuỷ thủ đoàn của chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 (dĩ nhiên trong đó có cả anh Hải Quân đầu bếp Clinton A. Eastwood và anh Robin). Hình ảnh của những vị đó sẽ không bao giờ nhạt nhòa trong ký ức chúng tôi. Chúng tôi luôn ao ước có cơ hội gặp lại những vị ân nhân này bằng xương bằng thịt để một lần nữa ngỏ lời tri ân đến họ và cũng để họ nhìn thấy gia đình chúng tôi - kết quả của việc làm nhân đạo quý báu mà họ đã thực hiện cách đây hơn 28 năm.
Tóm lại, vì quen sống trong một đất nước Tự Do Dân Chủ, vốn thừa hưởng được tất cả những quyền cơ bản của một con người, nên kể từ khi Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản thì tâm trí chúng tôi không ngừng nghỉ đến việc trốn thoát khỏi chế độ này. Vượt biên là con đường duy nhất và cái giá chúng tôi phải trả có thể là sự chia lìa (kẻ ở người đi, vợ xa chồng, con xa cha, ....), sự tù đày (chính bản thân mình và người thân cũng bị liên luỵ), cái chết (chính mạng sống mình và ngay cả mạng sống của những người thân yêu). Bằng nhiều cách, chồng tôi trước đây đã vượt biên 2 lần, anh đi một mình vì chủ tàu không nhận con nít, tôi đành để chồng ra đi và ở lại với con. Tôi nghĩ thoát được người nào hay người đó, để chồng ra đi một mình là tôi chấp nhận sẽ vĩnh viễn mất chồng vì thời gian đó chính quyền Việt Nam chưa có sự bang giao với các nước ngoài về vấn đề “Đoàn Tụ Nhân Đạo”. Nhưng hai lần vượt biên đó không thành công, lần thứ nhất bị lộ anh chạy thoát được nên không bị tù, còn lần thứ nhì thì đi với người em nhưng khi ra đến bến tàu, người chủ tàu thay đổi ý kiến chỉ nhận một người thôi nên chồng tôi nhường cho người em và người này đã đến được bến bờ Tự Do. Lần này là lần thứ ba chồng tôi được đi với vợ con vì người chủ tàu này nhận con nít, tưởng rằng lần ra đi này trọn vẹn không bỏ lại sau lưng người thân yêu của mình, nhưng cuối cùng chúng tôi vĩnh viễn mất đứa con yêu quí đầu lòng của mình, nỗi đau xót đó mãi theo chúng tôi đến cuối cuộc đời và đó chính là cái giá cho sự Tự Do mà chúng tôi đã chọn.
Hiện nay chúng tôi đang định cư tại Úc Đại Lơi, một quốc gia đầy lòng nhân ái, người dân ở đây đã mở rộng vòng tay yêu thương đón nhận và cưu mang gia đình chúng tôi trong suốt 28 năm qua và còn tiếp tục cho đến đời các con cháu của chúng tôi nữa. Không một lời nào đủ để diễn tả tấm lòng biết ơn sâu xa của gia đình chúng tôi đến với chính phủ và toàn thể nhân dân của đất nước này. Chúng tôi nguyện ghi khắc ơn sâu nghĩa nặng cho đến muôn đời.
Lý Tuyết Lê
(Viết tại Sydney ngày 09/03/09)
---o0o---
Người kể chuyện (tác giả của bài viết này) rất mong mỏi tìm kiếm, liên lạc được với các vị ân nhân đã từng cứu sống cô và gia đình cùng với rất nhiều người vượt biển khác. Vậy kính xin quý vị nào làm việc hoặc quen biết với những ai làm việc trong bộ Quốc Phòng hoặc Hải Quân Hoa Kỳ có được chi tiết của vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội (Chief of Staff for Commander SEVENTH Fleet) ông W. Lewis Chatham, vị Hạm Trưởng (Commanding Officer) ông John D. Chamberlain, và các thuỷ thủ đoàn trên chiếc Soái Hạm (Command Ship) USS Blue Ridge LCC19 đặc biệt là anh đầu bếp Clinton A. Eastwood và anh Robin (tất cả những người này đã làm việc trên tàu này trong khoảng thời gian 1980-1982) xin vui lòng gởi về đia chỉ email: tlblueangel@ gmail.com Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó '; document.write( '' ); document.write( addy_text33869 ); document.write( '<\/a>' ); //-->\n Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it . Xin đa tạ!
The rescuee wishes to make contact with those who were the saviors of many Vietnamese boat people, including herself and her family. So she kindly asks those with information or contact details leading to the Chief of Staff for Commander of the SEVENTH Fleet, Captain W.. Lewis Chatham, the Commanding Officer John D. Chamberlain, and any of the crew on board the Command Ship USS Blue Ridge LCC19, particularly the chief cook Mr. Clinton A. Eastwood and Robin (on duty during 1980-1982). Please kindly send them to the email address: tlblueangel@ gmail.com Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó '; document.write( '' ); document.write( addy_text33869 ); document.write( '<\/a>' ); //-->\n Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it . Very much appreciated!
Dưới đây là bản tóm tắt cuộc hải trình lên đênh trên biển 26 ngày phong ba, bão táp, đói khát, chết chóc, ... do chính những người sống sót được chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 cứu vớt kể lại bằng Anh ngữ. Chắc hẳn quý vị cũng phải hiểu rằng họ mới được cứu sống, chưa hoàn hồn và vẫn còn đang sống trong nỗi kinh hoàng, trong nỗi đớn đau, mất mát người thân, ... và tuy được sự giúp đỡ của thủy thủ đoàn về một số từ ngữ nhưng vốn liếng tiếng Anh của họ rất là it ỏi, hơn nữa lại được viết theo lối nói và cách suy nghĩ của người Việt Nam chúng ta (nghĩ sao nói vậy), do đó lỗi chính tả, văn phạm rất nhiều (nhưng viết được như vậy là khá lắm rồi). Cho nên khi đọc bài này, những người mà Anh văn là ngôn ngữ chính thì sẽ “điên đầu”, nhưng những người lớn (thuộc thế hệ thứ nhất) thì hiểu ngay.
Câu chuyện vượt biến (bằng Anh ngữ) của những người này đã được đánh máy và sao ra để phát cho mỗi người trong chuyến tàu vượt biển đó một bản, và cũng được lưu giữ làm tài liệu cho chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19. Vì bản sao không được rõ cho nên xin phép được đánh máy lại (nguyên văn) cho dễ đọc.
The following was written by the Vietnamese refugees from the second boat and is quoted in full:
Vietnamese refugees story of terror about 26 days on the sea (10/9 – 6/10)
After the departure of the Americans on 30/4/75, millions of Vietnamese, having given up their properties and heritages have left their country to get freedom. The freedom, they knew, that they must pay by their life or their whole family life. Even with rudimental means, many people, found their way to leave this unfortunate miserable country. During the past 5 years the communism (has given) to the VN people uncountable griefs and sorrows. All liberties were cancelled even the freedom of the press and the freedom of the religions and the economic conditions was at the worst. There we can see anywhere, guns and jails. Used to live in freedom, never we forget to go away. But the importance is to go away safely. We loved the freedom and the peace but we must get assurance for the remaining relatives in VN. We must not be caught by the communists, so the remaining could not get any consequences. At least, we left VN in the night 10/9. It rained but we must wait for the boat during 2 hours. We got numbed. At 2h35 the boat went to the sea without any difficulties with control stations Thanks to God. The wind was against us and our captains was not experienced. Instead of reaching Hai Nam, Hong Kong, we lost the position after 2 days. Our condition became worse because of the lack of fuel, foof and drinking water. On the 3rd day we conducted the boat by the sun. The 3rd night, a cyclone throwed us to the eastern. Our life were placed in the hands of God, we could do nothing. Each person had 1 tea-spoon of rice per day. The children cried because of the lack of food and drinking water. We left sorrow but could do nothing. The provisions were finished on the 6th day and the boat went anywhere God has decided. When the last drop of water vanished, and as it did not rain, the children began to die: one, two, … at the fith child-death it rained. Their corpses were tied to rock and thrown into the sea to avoid deseases. The others drank urinate or sea-water. It was a great pain but we know that, comparing with the freedom, the salty tatste of sea-water and the bad smell of the urinate were nothing. We accepted these griefs without any lamentation because we have wanted to obtain the freedom. After 7 days of sunshine, a rain has helped us to live for one more period. Now, we hoped our boat to be far in the south, so it increased chances of meeting foreign ships of fishing ships. During 26 days we have met many great ships. But they didn’t rescue us or we didn’t have any means to make signals. We were only dry and emaciated bodies because of the lack of nutrition. On 6/10 in the afternoon, suddenly, a navy helicopter saw us. We have tried to ask help and immediately LCC19 of 7th fleet rescued us at 6 o’clock. We were very happy.
The test between life and death was passed. We know that life was precious but the freedom was much more. The humanitarian spirit of the Americans gave us deep emotions. They have rescued us and made we knew that only Man of freedom would respect the dignity and the liberty of their brothers.
In our hearts, the precious and uninterrupted take care and services given by the Americans on LCC19, did not vanished forever. We thank the Amrican people and we have learned from you the generosity and the altruism and the humanitarian lesson.
The present for 33 rescued refugees, express our sincere thanks to the whole Americans in LCC19 and we wish the other loving freedom Vietnamese who have or are leaving VN could get luckyness and chances like us.
Your exemplary altruism and humanitarism will certainly adjoin the Freedom doctrine in the world; we must know that life is precious but the freedom is much more precious.
Trong cuốn sổ hải trình của chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 cũng có đề cập chuyện cứu vớt chuyến tàu vượt biển kể trên – Blue Ridge LCC-19 Naval Cruise Book
http://www.e- yearbook. com/yearbooks/ Blue_Ridge_ LCC_19_Cruise_ Book/1986/ Page_69.html
Dưới đây là một số hình ảnh cảnh các thuyền nhân khi được cứu vớt lên chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 – Vui lòng vào nối kết dưới đây để xem hình ảnh kỷ niệm tình người của thế giới tự do..
http://picasaweb. google.com/ n.9oo9le/ BlueRidgeLCC19#Ghi chú: Các hình ảnh này là gồm những người trong 2 chiếc tàu vượt biển được cứu vớt trong cùng một ngày (06/10/1980) - tất cả là 92 người. Chiếc đầu tiên phát xuất từ Vũng Tàu (55 người), khi được tàu cứu thì còn khoẻ mạnh, nhưng những người trên chiếc thứ 2 phát xuất từ Đà Nẵng (là chiếc tàu trong câu chuyện này – 37 người) thì đa số đều phải nằm ở Medical Clinic vì 26 ngày đói khát lênh đên trên biển. Chiếc tàu đi từ Vũng Tàu được vớt trước, khi lên tàu họ báo là còn chiếc thứ 2 cùng đi một lần với họ nhưng bây giờ không biết ở đâu. Vì vậy trực thăng đi kiếm chiếc kia thì lại gặp được chiếc đi từ Đà Nẵng. May mắn thay!
Lý Tuyết Lê
Subscribe to:
Posts (Atom)