"Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả, cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về sau." President Ronald Reagan
Friday, May 26, 2023
Wednesday, May 24, 2023
SVSQ Trừ bị – Mùa hè đỏ lửa – 1972
SVSQ Trừ bị – Mùa hè đỏ lửa – 1972
Cập nhật tháng 8 - 2019.
********
Mùa hè 1972, cơn nắng nóng khiếp người đổ ụp xuống miền Nam từ phương Bắc - một nhà văn đã đặt tên nó là “mùa hè đỏ lửa” – miền Nam cương quyết chống trả và lịnh tổng động viên (đôn quân) được ban hành có hiệu lực tức thời. Các thanh niên trong tuối quân dịch không hội đủ điều kiện hoãn dịch được gọi nhập ngũ vào các khóa binh sỉ, hạ sỉ quan, sỉ quan cho QLVNCH. Ngoài những thanh niên vừa tốt nghiệp trung học, lịnh TĐV đã ảnh hưởng đến hơn 6000 sinh viên đang theo học tại các trường đại học công tư trên toàn quốc. Các sinh viên nầy cùng các thanh niên khác gia nhập vào quân đội và được huấn luyên để trở thành Sỉ Quan Trừ Bị (SQTB) của quân lực VNCH (QLVNCH) tại 3 quân trường: Trung tâm huấn luyện Quang Trung (TTHLQT) Gò Vấp, Trường Hạ sỉ quan QLVNCH (THSQ) Đồng Đế và Trường Bộ Binh QLVNCH (TBB) Thủ Đức. Trong năm 1972 ngoài 2 khóa 1/72 và 2/72 được đào tạo như thông lệ hẳng năm tại TBB, còn lại từ khóa 3/72 đến khóa 12/72 được phân phối theo học tại 3 trung tâm nầy.
Chương trình huấn luyện 24 tuần gồm 3 giai đoạn:
-giai đoạn 1: cá nhân tác chiến - 8 tuần tại TTHLQT, hoặc nhập khoá trực tiếp vào TBB, THSQ
-giai đoạn 2 và 3: cấp tiểu và trung đội – 16 tuần tại TBB hay THSQ
Mặc dầu được đánh số từ 1 đến 12 khóa nhưng tổng cộng có 25 khóa đã được huấn luyện, vì có khóa số SVSQ quá đông nên được chia ra A,B,C. Vì nhu cầu và số lượng SVSQ nên từ khóa 3/72 đến khóa 8/72 từ các trung tâm nhập ngũ các SVSQ vào thẳng TBB hoặc THSQ học từ giai đoạn 1 cho đến ngày mãn khóa. Các khóa 8B+C/72 đến khóa 12/72 học giai đoạn 1 tại TTHLQT. Khóa 1/72 nhập ngũ tháng 1-72 vả khóa 12/72 tốt nghiệp sau cùng ngày 24-11-73.
Trong giai đoạn nầy có 2 sự kiện đặc biệt ghi nhớ là:
- Công tác Dân vận giải thích Hiệp định Paris (HĐPR): các SVSQ được học tập về HĐPR từ các Sỉ quan CTCT, sau đó được đưa về các xã ấp thuộc vùng 2,3, 4 chiến thuật – giải thích cho đồng bào hiểu rỏ hơn về HĐPR. Có 2 đợt từ 19-11-1972 đến 31-3-1973. Riêng khóa 2/72 sau khi tốt nghiệp tháng 11-72, mang cấp bậc Chuẩn úy làm trưởng từng toán nhỏ các SVSQ đàn em cho đến xong đợt công tác mới trình diện đơn vị. Trong 2 đợt công tác nầy có nhiều SVSQ được tưởng thưởng huy chương và vài SVSQ đã thiệt mạng vì tai nạn. Riêng trường hợp hi hữu xẩy ra khi một phi cơ L19 dẩn đường bị rớt vì bay quá thấp đã va chạm xe GMC chở SVSQ trở về THSQ ngày 19-1-1973 tại Phan Thiết, làm 1 SVSQ thiệt mạng và vài SVSQ khác bị thương.
- Diễn hành ngày Quân Lực 19-6-1973: đại diện cho các quân trường về thủ đô Sài Gòn diển binh trong ngày Quân Lực 1973 là các khóa:
-đại diện TBB: khóa 8B+C/72
-đại diện THSQ: khóa 8/72
-đại diện TTHLQT: khóa 5/73
Các khóa có hơn 2 tuần tập dượt và đã làm rạng danh SVSQ trừ bị trong cuộc diễn binh ngày Quân Lực 19-6-1973.
Do 2 trường hợp đặc biệt nầy mà có nhiều khóa “đàn em” đã ra trường trước các khóa “đàn anh” vì không đi chiến dịch và diển hành - có khóa đã kéo dài hơn 10 tháng mới mãn khóa – nhưng thâm niên cấp bậc được hồi tố theo ngày nhập khóa.
I.Trường Bộ Binh QLVNCH (TBB) Thủ Đức:
Trường Bộ Binh là danh xưng sau cùng của Trường Sĩ Quan Thủ Đức thành lập ngày 9-10-1951 để đào tạo Sĩ Quan Trung Đội Trưởng thuộc ngạch Trừ Bị cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Lúc đầu Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức đặt dưới quyền chỉ huy của các Sĩ Quan Pháp. Vài năm sau mới chuyển giao cho Việt Nam.
Trong năm 1972 – 1973:
Chỉ huy trưởng đương thời : - Trung tướng Phạm Quốc Thuần (đến 31/10/1973)
- Trung tướng Nguyễn Văn Minh (từ 01/11/1973)
Chỉ huy phó TBB : Đại tá Nguyễn Xuân Mai
Liên đoàn trưởng liên đoàn sinh viên (LĐSVSQ): Đại tá Lộ Công Danh
Liên đoàn Sinh Viên Sỉ Quan gồm 4 Tiểu đoàn SVSQ:
-Tiểu đoàn 1: khăn đỏ – (TĐ1 SVSQ)
-Tiểu đoàn 2: khăn tím – (TĐ2 SVSQ)
-Tiểu đoàn 3: khăn xanh – (TĐ3 SVSQ)
-Tiểu đoàn 4: khăn vàng – (TĐ4 SVSQ)
Trong năm 1972 vì nhu cầu LĐSVSQ thành lập thêm 2 tiểu đoàn:
-Tiểu đoàn 5: khăn hồng – (TĐ5 SVSQ)
-Tiểu đoàn 6: khăn nâu – (TĐ6 SVSQ)
Sơ lược các khoá đã huấn luyện tại TBB năm 1972-1973:
Khóa 1/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 1 SVSQ
- nhập khóa: 14-2-1972
- mãn khóa: 28-10-1972
- tên khóa: Phạm Lê Phong – tên huynh trưởng khóa 4/71 đã hy sinh rất sớm sau ngày ra trường, khoảng 1000 SVSQ tốt nghiệp.
Khóa 2/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 4 SVSQ
- nhập khóa: (?)-3-1972
- mãn khóa: (?)-11-1972
- tên khóa: Trị Thiên – khoảng 400 SVSQ tốt nghiệp, sau ngày mãn khoá tham dự đợt 1 công tác CTCT từ 19-11-1972 đến 20-01-1973 xong mới trình diện đơn vị.
Khóa 3/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 3 SVSQ
- nhập khóa: 24-7-1972
- mãn khóa: 17-3-1973
- tên khóa: Đấu Tranh – khoảng 1000 SVSQ tốt nghiệp
Đây là khóa đầu tiên của các sinh viên đại học, được đưa thẳng vào TBB từ trung tâm 3 nhập ngũ. Các SV đại học chỉ có thời gian trình diện trong tháng 7-1972 theo thơ của Nha Động viên gởi. Các SVSQ khóa nầy đều có tuổi, học lực ngang nhau là năm thứ 2 đại học và có chứng chỉ 1 Quân sự học đường. Đêm 31 rạng sáng 01-10-1972 nổ kho đạn - tổn thất 3 chết, 2 bị thương. Khoá tham dự đợt 1 công tác CTCT từ 19-11-1972 đến 20-01-1973 tại vùng 4 chiến thuật, vài SVSQ được huy chương, 2 SVSQ thiệt mạng vì tai nạn.
Khóa 4/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 2 SVSQ
- nhập khóa: 10-8-1972
- mãn khóa: 19 -5-1973
- tên khóa: Kiên Trì – khoảng 800 SVSQ tốt nghiệp.
Các sinh viên đại học, được đưa thẳng vào TBB từ trung tâm 3 nhập ngũ. Các SV đại học chỉ có thời gian trình diện trong tháng 7-1972 theo thơ của Nha Động viên gởi. Các SVSQ khóa nầy đều có tuổi, học lực ngang nhau là năm dự bị hay thứ 1 đại học và không có chứng chỉ Quân sự học đường. Khoá tham dự đợt 2 công tác CTCT từ 26-1-1973 đến tháng 5-1973 tại vùng 4 chiến thuật.
Khóa 5/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 5 SVSQ
- nhập khóa: (?)-8-1972
- mãn khóa: 30-6-1973
- tên khóa: Kiên Quyết – khoảng 600 SVSQ tốt nghiệp - thủ khoa Chuẩn úy Nguyễn đức Minh
Tiểu đoàn tân lập, sau khi mãn khóa tiểu đoàn giải thể. Các sinh viên đại học và một số vừa tốt nghiệp trung học, được đưa thẳng vào TBB từ trung tâm 3 nhập ngũ. Các SV đại học khóa nầy đều có tuổi, học lực ngang nhau là năm dự bị hay thứ 1 đại học và không có chứng chỉ Quân sự học đường. Khoá tham dự 2 đợt công tác CTCT từ 19-11-1972 đến 31-03-1973 tại vùng 4 chiến thuật.
Khóa 6/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 6 SVSQ
- nhập khóa: 03 -9-1972
- mãn khóa: 07-7-1973
- tên khóa: Trương Thức (SVSQ Trương Thức thuộc khóa 6/72 đã anh dũng hy sinh khi đang tham dự chiến dịch CTCT) – khoảng 400 SVSQ tốt nghiệp. Thủ khoa Chuẩn Úy Nguyễn Quang Hiến.
Tiểu đoàn tân lập, sau khi mãn khóa tiểu đoàn giải thể. Các sinh viên đại học và một số vừa tốt nghiệp trung học, được đưa thẳng vào TBB từ trung tâm 3 nhập ngũ. Các SV đại học khóa nầy đều có tuổi, học lực ngangnhau là năm dự bị hay thứ 1 đại học và không có chứng chỉ Quân sự học đường. Khoá tham dự 2 đợt công tác CTCT từ 19-11-1972 đến 31-03-1973 tại vùng 4 chiến thuật
Khóa 8B+C/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 3 SVSQ
- nhập khóa: 06-11/72 TTHLQT - 09/4/73 TBB
- mãn khóa: 20-10-1973
- tên khóa: Bất Khuất – khoảng 1000 SVSQ tốt nghiệp. Thủ khoa Chuẩn Úy Nguyễn Thạch Cương
Nhập khóa tại TTHLQT, tiểu đoàn đại diện TBB diễn hành trong ngày Quân Lực 19-6-1973. Khoá tham dự đợt 2 công tác CTCT từ 26-1-1973 đến 26-03-1973 khi đang thụ huấn giai đoạn 1 tại TTHLQT. Vì tham gia chiến dịch và diễn hành ngày Quân Lực nên khóa ra trường sau nhiều khóa đàn em, nhưng được hồi tố cấp bậc theo ngày nhập khóa.
Khóa 9A/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 1 SVSQ
- nhập khóa: 20-11-1972
- mãn khóa: 21-7-1973
- tên khóa: Cũng Cố – hơn 800 SVSQ tốt nghiệp. Thủ khoa Chuẩn úy Phạm Văn Ninh.
Tài nguyên khóa 7/72 được đưa thẳng vào TBB từ các trung tâm nhập ngũ trở thành khóa 9A/72, phần đông là các thanh niên vừa tốt nghiệp trung học. Khoá tham dự đợt 2 công tác CTCT từ 26-1-1973 đến 26-03-1973 tại vùng 4 chiến thuật.
Khóa 9C/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 4 SVSQ
- nhập khóa: (?)-11-1972 TTHL QT - 05-3-1973 TBB
- mãn khóa: 21-7-1973 cùng với khóa 9A/72
- tên khóa: Phát Triển – hơn 800 SVSQ tốt nghiệp. Thủ khoa Chuẩn úy Nguyễn Văn Thành.
Từ các trung tâm nhập ngũ, phần đông là các thanh niên vừa tốt nghiệp trung học. Học giai đoạn 1 tại TTHLQT. Khoá không tham dự công tác CTCT.
Khóa 9B/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 2 SVSQ
- nhập khóa: (?)-11-1972 tại TTHL QT - (?)-4-1973 TBB
- mãn khóa: 22-9-1973
- tên khóa: Tống Lê Chân – khoảng hơn 500 SVSQ tốt nghiệp. Thủ khoa Chuẩn Úy Lê Trung Hiếu.
Sau khi hòan tất giai đoạn 1 tại TTHLQT, khóa được chia hai, một nửa nhập khóa tại TBB, còn lại nhập khóa 9B/72 tại THSQ. Khoá tham dự đợt 2 công tác CTCT từ 26-1-1973 đến 26-03-1973 tại vùng 3 chiến thuật khi đang thụ huấn tại TTHLQT.
Sau khi khóa 8B+C/72 ra trường, các khóa còn lại trong TBB thuộc tài nguyên năm 1973. Các khóa 10/72, 11/72, 12/72 sau giai đoạn 1 tại TTHLQT được chuyễn ra THSQ. Tổng kết từ tháng 1-1972 đến tháng 10-1973, TBB đã đào tạo hơn 7000 SQTB cho tài khóa 1972.
Trong các đợt công tác CTCT Dân Vận, TBB có 4 tiểu đoàn tham dự cho mổi đợt, vùng trách nhiệm là các tỉnh thuộc vùng 3 và 4 Chiến thuật.
II.Trường Hạ Sỉ Quan QLVNCH (THSQ) Đồng Đế:
Trường được thành lập năm 1955, đến năm 1957 thì chính thức là trường Hạ Sỉ Quan QLVNCH, để đào tạo Hạ Sĩ Quan Tiểu Đội Trưởng thuộc ngạch Trừ Bị cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ năm 1959 đến 1963 trường đã huấn luyện 4 khóa Sỉ Quan Hiện Dịch, đặc biệt được tuyển là các HSQ từ các đơn vị. Trong các năm 1968,1969, 1970 vì nhu cầu, trường cũng đã đào tạo vài khóa SQTB sau khi đã học xong giai đoạn 1 tại TTHLQT. Năm 1972-1973, trường nhận trách nhiệm đào tạo SQTB từ giai đoạn 1 đến khi tốt nghiệp. Các khóa HSQ không còn được huấn luyện tại đây, kể từ đầu năm 1973 các khóa HSQ được huấn luyện tại TTHL Quang Trung và TTHL Lam Sơn (Dục Mỹ) cho đến cuối năm 1973. Tháng 7-1972, trường thành lập Liên Đoàn A SVSQ để tiếp nhận các SVSQ “mùa hè đỏ lửa”, Liên Đoàn B cho 4 tiểu đoàn khóa HSQ đang thụ huấn. Tháng 9-1972, Liên Đoàn B nhận các khóa SQTB song song với các khóa HSQ còn lại, tháng 12-1972 khóa HSQ cuối cùng tốt nghiệp.
Trong năm 1972 – 1973:
Chỉ huy trưởng đương thời : - Chuẩn tướng Võ Văn Cảnh (1971 đến tháng 11-1973)
- Trung tướng Dư Quốc Đống (11-1973 đến 1974)
Liên đoàn trưởng liên đoàn A sinh viên (LĐA SVSQ): Đại tá Bùi Trạch Dzần
Liên đoàn trưởng liên đoàn B sinh viên (LĐB SVSQ): Trung tá Cao Nguyên Kiểu
Mổi Liên đoàn Sinh Viên Sỉ Quan gồm 4 Tiểu đoàn SVSQ, danh xưng TĐ1SVSQ cho khóa đầu tiên (3B/72) đến khóa cuối cùng TĐ16SVSQ (6/73 tốt nghiệp đầu tháng 2-1974). Các khóa SQTB từ đại đội 719 (TĐ1SVSQ) đến đại đội 771 (TĐ13SVSQ) cho năm 1972 và từ đại đội 772 (TĐ14SVSQ) đến đại đội 782 (TĐ16SVSQ) cho năm 1973.
Sơ lược các khoá đã huấn luyện tại THSQ năm 1972-1973:
Khóa 3B/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 1 SVSQ (5 đại đội: 719, 720, 721, 722, 723)
- nhập khóa: 24-7-1972
- mãn khóa: 01-4-1973
- tên khóa: (?) – hơn 700 SVSQ tốt nghiệp.
Khóa đầu tiên nhập THSQ từ TT3NN cuối tháng 7-1972, khóa có trình độ học vấn cao nhất trong đào tạo SQTB của quân sử QLVNCH, trình độ học vấn năm thứ 4, vừa tốt nghiệp đại học hay cao hơn. Có chứng chỉ 3 Quân sự học đường do đó khóa chỉ học giai đoạn cuối là tốt nghiệp SQTB. Khoá tham dự 2 đợt công tác CTCT tại vùng 3 chiến thuật.
Khóa 4A/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 2 SVSQ (3 đại đội: 724, 725, 726)
- nhập khóa: 11-8-1972
- mãn khóa: 28-5-1973
- tên khóa: (?)– hơn 400 SVSQ tốt nghiệp.
Nhập khóa từ TT3NN, trình độ học vấn năm thứ 3 đại học, có chứng chỉ 2 QSHĐ, học giai đoạn 2 và 3. Khoá tham dự 2 đợt công tác CTCT từ 19-11-1972 đến 31-03-1973 tại vùng 3 chiến thuật.
Khóa 4B/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 3 SVSQ (4 đại đội: 727, 728, 729, 730)
- nhập khóa: 25-8-1972
- mãn khóa: 26-6-1973
- tên khóa: Dân Chủ – 540 SVSQ tốt nghiệp. Thủ khoa Chuẩn Úy Quách Phú – Đại đội 728.
Nhập khóa từ TT3NN, trình độ học vấn năm thứ 1 hay dự bị đại học không có chứng chỉ QSHĐ cùng các thanh niên khác bị động viên thường niên. Khoá tham dự 2 đợt công tác CTCT từ 19-11-1972 đến 31-03-1973 tại vùng 2 chiến thuật. Đặc biệt là tai nạn “ giao thông “ thật hi hữu, xảy ra tại con dốc Lương Sơn, Xã Chợ Lầu, Quận Hòa Đa ( Bình Thuận ) ngày 19-1-1973 giữa chiếc L19 và GMC chở toán SVSQ thuộc đại đội 727 trở về THSQ, vài SVSQ bị thương – SVSQ Võ Công Lý qua đời sau vài ngày trị thương tại QYV Nguyễn Huệ Nha Trang.
Khóa 5B/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 4 SVSQ (5 đại đội: 731, 732, 733, 734, 735)
- nhập khóa: 07-9-1972
- mãn khóa: 12-7-1973
- tên khóa: (?) – hơn 600 SVSQ tốt nghiệp.
Nhập khóa từ TT1NN. TT2NN, TT4NN và một số từ TT3NN, cùng các thanh niên nhập ngũ thường niên các sinh viên đại học theo học khóa cũng không có chứng chỉ QSHĐ. Khoá tham dự 2 đợt công tác CTCT từ 19-11-1972 đến 31-03-1973 tại vùng 2 chiến thuật.
Khóa 7/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 5 SVSQ (5 đại đội: 738, 739, 740, 741, 742 )
- nhập khóa: (?)-9-1972
- mãn khóa: 07-8-1973
- tên khóa: Cộng Đồng – hơn 800 SVSQ tốt nghiệp.
Nhập khóa từ 4 TTNN, phần đông vừa tốt nghiệp trung học. Khoá tham dự 2 đợt công tác CTCT từ 26-11-1972 đến 31-03-1973 tại vùng 3 chiến thuật.
Khóa 8/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 6 SVSQ (5 đại đội: 743, 744, 745, 746, 747)
- nhập khóa: 23-10-1972
- mãn khóa: 15-09-1973 – mãn khóa cùng với khóa 10A/72 (TĐ 7 SVSQ)
- tên khóa: (?) – hơn 1000 SVSQ tốt nghiệp.
Nhập khóa từ TT1NN và TT2NN, phần đông vừa tốt nghiệp trung học. Khóa đại diện THSQ về thủ đô Sài Gòn diễn hành ngày Quân Lực 19-6-1973. Khoá tham dự 2 đợt công tác CTCT từ 19-11-1972 đến 31-03-1973 tại vùng 3 chiến thuật. Vì tham dự công tác CTCT và diễn hành ngày Quân Lực 19-6-1973 nên khóa ra trường sau nhiều khóa đàn em, nhưng được hồi tố cấp bậc theo ngày nhập khóa.
Khóa 10A/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 7 SVSQ (5 đại đội: 748, 749, 750, 751, 752)
- nhập khóa: 06-11-1972
- mãn khóa: 15-9-1973 – mãn khóa cùng với khóa 8/72 (TĐ 6 SVSQ)
- tên khóa: Yên Thế – hơn 800 SVSQ tốt nghiệp.
Nhập khóa từ TT1NN và TT2NN, phần đông vừa tốt nghiệp trung học. Khoá tham dự đợt 2 công tác CTCT từ 26-1-1973 đến 31-03-1973 tại vùng 2 chiến thuật.
Khóa 11A/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 8 SVSQ + Khóa 11B/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 9 SVSQ (6 đại đội: 753, 754, 755, 756, 757, 758)
- nhập khóa: 31-12-1972
- mãn khóa: 28-7-1973
- tên khóa: Kiên Cường – hơn 1000 SVSQ tốt nghiệp.
Nhập ngũ từ TT1NN và TT2NN, phần đông vừa tốt nghiệp trung học. Vì thiếu doanh trại khóa được chia 2, mổi khóa 3 đại đội. Khoá tham dự đợt 2 công tác CTCT 1 tháng tại vùng 2 chiến thuật. Khoá ra trường trước nhiều khóa đàn anh.
Khóa 9B/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 10 SVSQ (4 đại đội: 759, 760, 761, 762)
- nhập khóa: (?)-11-1972 tại TTHL QT - (?)-4-1973 THSQ
- mãn khóa: 22 -9-1973
- tên khóa: Tống Lê Chân – hơn 600 SVSQ tốt nghiệp.
Sau khi hòan tất giai đoạn 1 tại TTHLQT, khóa được chia hai, một nửa nhập khóa tại TBB, còn lại nhập khóa 9B/72 tại THSQ. Khoá tham dự đợt 2 công tác CTCT từ 26-1-1973 đến 26-03-1973 tại vùng 3 chiến thuật khi đang thụ huấn tại TTHLQT.
Khóa 10B/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 11 SVSQ + Tiểu đoàn 12 SVSQ (6 đại đội: 763, 764, 765, 766, 767, 768)
- nhập khóa: 11-12-1972 tại TTHLQT
- mãn khóa: 27-10-1973
- tên khóa: Cao Thắng + Nguyễn Trường Tộ (?) – hơn 1000 SVSQ tốt nghiệp. Thủ Khoa Chuẩn úy Huỳnh Văn Hoàng
Sau khi hòan tất giai đoạn 1 tại TTHLQT, vì thiếu doanh trại khóa được chia hai, một nửa nhập TĐ 11 SVSQ, còn lại nhập TĐ 12 SVSQ tại THSQ. Khoá tham dự đợt 2 công tác CTCT từ 26-1-1973 đến 26-3-1973 tại vùng 3 chiến thuật khi đang thụ huấn tại TTHLQT.
Khóa 12B/72 SVSQ/TBTX: Tiểu đoàn 13 SVSQ (3 đại đội: 769, 770, 771)
- nhập khóa: 31-12-1972 tại TTHLQT
- mãn khóa: 24-11-1973
- tên khóa: Ba Đình – hơn 500 SVSQ tốt nghiệp.
Nhập khóa tại THSQ sau khi hoàn tất giai đoạn 1 tại TTHLQT, chỉ có một khóa 12/72 nhưng vì tốt nghiệp tại THSQ nên mang chử B phía sau, là khóa SQTB sau cùng của năm 1972.
Sau khóa 12B/72 SQTB, THSQ tiếp tục huấn luyện thêm 3 khóa SQTB: 5A/73, 5B/73, 6/73 (mãn khóa 10-2-1974) cho tài khóa 1973, trở lại đào tạo các khóa HSQ từ đầu năm 1974. Tổng kết từ tháng 7-1972 đến tháng 2-1974, THSQ đã đào tạo hơn 8000 SQTB cho tài khóa 1972 và hơn 2000 SQTB cho tài khóa 1973.
Trong năm 1972, THSQ còn huấn luyện 2 đại đội (736, 737) lực lượng dân tộc thiểu số cao nguyên Fulro.
Trong các đợt công tác CTCT Dân Vận, THSQ có 6 tiểu đoàn tham dự cho mổi đợt, vùng trách nhiệm là các tỉnh thuộc vùng 2 và 3 Chiến thuật.
********
Chương trình huấn luyện do Tổng Cục Quân Huấn soạn thảo, do đó không có khác biệt nhiều giửa TBB và THSQ. Hệ thống “tuần sự” SVSQ tự chỉ huy áp dụng cho cả hai trường. “Tuần huấn nhục” huynh trưởng khóa đàn anh kèm khóa đàn em với nhiều hình phạt trước khi gắn “con cá mối” của TBB đã không áp dụng tại THSQ, thay vào đó là các hình phạt của SQCB đại đội và SQ huấn luyện viên tại các bãi tập. Các thủ tục cho buổi lễ gắn alpha, mãn khóa, cũng không khác biệt nhiều giửa hai trường, THSQ có tổ chức lễ gắn Alpha ban đêm cho vài khóa đầu tiên. Một nửa các SQTB “mùa hè đỏ lửa” tốt nghiệp trong năm 1973 là các sinh viên đại học cũng không hưởng trường hợp đặc biệt nào trong ngày chọn đơn vị. Chỉ hơn một năm sau ngày ra trường đã có khóa nhận nghị định thăng cấp và theo danh sách, có hơn một phần tư trên tổng số SQTB mãn khóa đã hy sinh cho Tổ Quốc.
40 năm sau, xin mượn lời kết của người bạn cùng khóa – SVSQ Huỳnh Văn Của danh số 005 đại đội 727 TĐ3SVSQ – “Các Chuẩn úy sữa ngày xưa bây giờ đã có người về cõi vĩnh hằng, đã có bạn mang hình hài thương phế. Tóc xanh ngày nào giờ đã điểm sương. Có người còn nơi quê nhà. Một số đang xa quê hương. Những dòng hồi ức này xin được gởi đến đồng đội Tử Sĩ để thay nén hương lòng thắp muộn để nhớ thời dấn thân vào cuộc chiến. Đồng thời đây cũng là những thăm hỏi ân cần nhứt của tôi đến quý bạn đồng khóa: những chứng nhân (và cũng là nạn nhân) của lịch sử và thời cuộc nước nhà ...”.
Melbourne 15-12-2013
SVSQ Nguyễn Phước Hải khóa 4B/72 SQTB – THSQ QLVNCH
Tuesday, May 23, 2023
Đường khuya qua Bình Giả (Viết thay hiền nội của tôi để nhớ những ngày sống ở vùng kinh tế mới.) - Ngô Viết Trọng -
Bình Giả là một xã được thành lập đầu thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dân chúng hầu hết là người bên kia vĩ tuyến 17 di cư vào, theo đạo Chúa. Vùng này đất đai mầu mỡ, người dân lại siêng năng chăm chỉ, nên Bình Giả trở thành một xã tương đối giàu có. Dân Bình Giả lại có tinh thần đấu tranh mạnh, rất đoàn kết, nên chính quyền mới vẫn từ tốn dè dặt trong việc áp dụng chính sách cai trị mới để tránh sự khích động không hay. Sinh hoạt dân chúng địa phương này trước sau vẫn không thay đổi mấy.
Trong khi ở những xã khác, chính quyền áp dụng chính sách thu mua sản phẩm nông nghiệp khá triệt để thì riêng ở Bình Giả lại được nới nẫm rất nhiều. Người dân chỉ bán cho chính quyền một phần sản phẩm vừa phải, còn bao nhiêu họ giữ lại để sử dụng khi cần. Việc buôn đi bán lại của người dân Bình Giả có phần được buông thả hơn những nơi khác.
Bình Giả đã thật sự nổi danh sau một trận đánh lớn giữa quân đội Cộng Hòa và bộ đội Cộng Sản vào cuối năm 1964 đầu năm 1965 mà cả hai bên đều thiệt hại rất nặng. Chiến trường đã xảy ra không phải chỉ trong phạm vi xã Bình Giả mà lan tận các vùng núi rừng chung quanh. Chính xã Xuân Sơn trước đấy còn đầy rừng núi là nơi còn chứa nhiều dấu tích của trận chiến đó. Mà thói thường, mỗi dấu tích càng lâu lại càng dễ đẻ ra nhiều huyền thoại, do đó nơi đây huyền thoại không thiếu gì. Một hố bom, một vài cây cổ thụ, một con dốc đều có thể có huyền thoại riêng của nó. Người ta thấy không ít các trường hợp “lên đồng” dã chiến. Như một người đàn bà đang ngồi nói chuyện với vài người hàng xóm bỗng nhiên mặt đỏ lên, mắt đờ đẫn khác thường, tuyên bố mình là lính Thủy Quân Lục Chiến đã chiến đấu nơi đây. Rồi chị ta chỉ chỗ kia nói có mấy người bộ đội ở, chỗ nọ có mấy lính Cộng Hòa ở… Một đứa trẻ đang ngồi xắt rau để nấu cháo cho heo bỗng vươn mình đứng dậy ú ớ nghe não nuột “Nhớ mẹ quá đi trời ơi! Ôi cái kiếp sinh Bắc tử Nam
! Tôi là bộ đội bác Hồ đây, ai thương xin cho điếu thuốc!”. Một thanh niên nghe nói vậy, thử lấy bao thuốc và hộp quẹt đưa cho. Ngờ đâu đứa trẻ ngậm luôn một lần bốn điếu châm lửa lên mà hút một cách sung sướng… Thế nào sau đó, những người dân sống gần đó cũng lén đốt giấy, cúng vái để cầu an…
Từ Xuân Sơn đến Bình Giả, phải đi qua một cánh đồng, trên con đường giao thông chính dài độ bảy cây số. Đoạn đường khá thẳng, được bắc cao, tráng nhựa, rộng vừa đủ cho hai xe đò tránh nhau, đã chia cánh đồng làm hai. Chính đoạn đường này được người ta kể như là một nơi ma quỷ hay hiện hình nhất. Có người nói vào ban khuya, họ hay thấy những đoàn người lố nhố đuổi đánh nhau giữa đồng, nghe luôn cả tiếng hò hét hoặc rên la nữa. Giữa đường thì thỉnh thoảng họ gặp khi một toán lính Cộng Hòa, khi thì năm bảy anh bộ đội Cộng Sản, áo quần tả tơi, vẻ người xanh xao hốc hác. Một vài hồn ma vẫn hay ngửa tay xin thuốc hút hoặc xin nước uống…
Những lời đồn ấy đã khiến cho những người yếu bóng vía, nhất là đàn bà con gái rất hoang mang lo sợ khi đi qua cánh đồng này ban đêm. Dù cần thiết gấp gáp tới mức nào, họ cũng phải tụ tập năm bảy người rồi mới dám đi. Chỉ một đoạn đường ấy thôi mà đã ớn như thế…
Xã Xuân Sơn ngoại trừ một thôn người Thượng chuyên đi săn thú và kiếm của rừng, ít sản xuất, còn lại ba thôn phần đông dân chúng đều làm rẫy. Thôn ba chúng tôi, dù chỉ là vùng đồi núi nhưng là đất mới khai khẩn nên còn khá mầu mỡ, hoa mầu trồng ra vẫn thường khá đạt. Nhưng làm ra của mà rất khó việc tiêu thụ của cho xứng với công lao của mình. Chính quyền địa phương đặt trạm thu mua khắp xã và thu mua với một giá mà không một người dân nào bằng lòng. Nhân viên công an, du kích kiểm soát các trạm giao thông hết sức chặt chẽ. Những người mang bắp, đậu ra khỏi xã từ hai ký trở lên đều bị tịch thu không bao giờ châm chước.
Người dân đã phải tìm cách này cách khác đưa hoa mầu ra khỏi xã để bán với một giá khá hơn. Ngoại trừ hạng con buôn chuyên nghiệp rành rẽ đã tìm cách đút lót cho nhân viên các trạm, những người bình thường chuyển hoa mầu đi rất khó khăn. Một người mang lên xe đò chừng năm bảy ký đậu xanh hay đậu phộng, thường phải phân ra từng gói nhỏ, gởi quanh các hành khách khác mỗi người một ít cho đến tận nơi cảm thấy an toàn mới thâu gom lại.
Xã Xuân Sơn bấy giờ mới chỉ có hai cái chợ. Một cái chợ nhỏ ở thôn một, thôn giáp ranh với cánh đồng Bình Giả, buôn bán rất sơ sài, chưa có gì đáng kể. Muốn mua bán nhiều hơn, người dân thôn một vẫn phải đi chợ Bình Giả hoặc chợ xã.
Chợ xã, mở gần trụ sở xã tại thôn hai, là trung tâm của xã, buôn bán có phần phồn thịnh hơn nhiều. Chợ có đủ cả vải vóc, thịt, cá khô, mắm muối, các loại trái cây, rau cỏ, nông cụ, thuốc trừ sâu, phân tro… Chúng tôi là dân thôn ba, thôn trong cùng, vẫn kéo nhau ra chợ này mua bán.
Chợ xã có điểm đặc biệt là lấy thuế rất ngặt, bất cứ ai đến bán thứ gì dù ít dù nhiều đều phải đóng thuế theo định mức tùy tiện của người thu. Để làm cho người dân không dám trễ nải, thiếu sốt sắng khi bị đòi thuế, chính quyền địa phương đã khôn ngoan giao cho một gã mắc bệnh cùi làm nhiệm vụ đó. Hắn tên Hoàng, bị bệnh cùi lở cả hai tay, cụt nhiều đầu ngón, trông vẻ người rất gớm ghiếc. Trước 1975 hắn vẫn đi ăn xin, người ta vẫn quen gọi là Hoàng Cùi. Từ khi gặp cơ hội đổi đời, cặp mắt lúc nào cũng nhuốm vẻ bi thương của Hoàng Cùi bỗng biến đổi thành cặp mắt cú vọ, sắc lạnh của một viên chức chính quyền cách mạng. Nhiều người lạ mới gặp bị hắn chiếu mắt một cái là phải rùng mình. Ai cũng sợ hắn đến gần, họ sợ cả vi trùng bệnh lẫn mùi tanh tưởi. Vì thế, khi Hoàng Cùi cầm cái biên lai thuế đưa cho ai người đó thường vội vàng xì tiền ra mà không dám kêu ca một tiếng. Một vài người buổi sáng bán hàng chưa được, trong lưng không có xu nào cũng phải mượn những người chung quanh sẵn để khi Hoàng Cùi tới là nộp liền để hắn nhanh chóng đi cho khuất mắt. Hoàng Cùi hoạt động rất năng nỗ, không bao giờ bỏ sót thuế một người bán hàng. Ban đầu còn có một vài người dám giấu giếm che đậy hàng để giảm được tiền thuế. Nhưng gặp Hoàng Cùi mắt sắc như dao và rất tàn nhẫn, nếu hắn phát hiện được sự gian dối là mớ hàng đó bị tịch thu ngay. Không bao giờ hắn châm chước cho lại ai một cái gì. Vì thế, người dân ai cũng chạy mặt Hoàng Cùi.
Cứ gặp mặt Hoàng Cùi là tôi mất hết bình tĩnh. Lần đầu gặp hắn tôi đang bán một gánh rau, thấy hắn tới, tôi luống cuống như gà gặp rắn. Hắn chìa tờ phiếu biên lai thuế mà tôi vẫn đứng ngớ người. Mặt hắn nhăn lại với vẻ nghiêm khắc bực bội và nói gì tôi không nghe được. Một người đứng gần đó bảo tôi:
– Đóng tiền thuế mười đồng kìa!
Tôi không có mười đồng mà chỉ có tờ hai chục, tôi lấy ra đưa cho hắn. Hắn đếm mớ tiền lẻ toan thối lại, nhưng nhìn thấy mấy ngón tay của hắn, tôi hoảng sợ khoát tay:
– Khỏi! Khỏi thối! Lần sau khỏi đóng!
Hắn đi rồi tôi mới thấy mình hớ. Một người bán gần đó hỏi tôi:
– Cất biên lai thuế chưa? Không chừng hắn trở lại đòi một lần nữa đấy!
Một người khác bĩu môi:
– Nó có đòi lại thì đòi chứ cho ba vạn tôi cũng không dám giữ cái biên lai ấy trong người.
Tôi ngẩn ngơ ra, không biết khi nẫy mình có nhận biên lai không, nếu có nhận cũng đã vứt đâu mất rồi…
Từ đó, ngoại trừ những khi chẳng đặng đừng tôi mới đi chợ xã.
Dần dần tôi bắt quen và tháp tùng với những người chuyên gánh hàng đi đêm ra xã Bình Giả để bán. Bán đậu hay bắp ở Bình Giả đều được giá hơn bán ở Xuân Sơn rất nhiều. Tuy phải thức ngủ sớm, nhưng đi đêm mát mẻ ít mệt, lại khỏi hồi hộp lo sợ vì các trạm kiểm soát đều nghỉ hoạt động. Tuy thế, thỉnh thoảng người ta cũng gặp phải những anh cán bộ túng thiếu phải rình mò để “xơ múi”. Khi gánh đậu hay bắp đi bán, muốn cho chắc ăn, người ta phải ngụy trang phủ lên trên một lớp rau lang.
Cứ bắt đầu từ buổi tối, tôi chuẩn bị gióng gánh với hàng bán cẩn thận sẵn sàng. Tôi đã ước hẹn với ba cô bạn trẻ, trên đường đi phải ngang qua nhà tôi, hằng đêm ghé lại kêu tôi cùng đi. Tôi thường khởi hành khoảng ba giờ sáng. Dần thành thói quen, cứ trước ba giờ là tôi đã thức dậy ngồi chờ.
Đêm đó, không hiểu vì sao đó, tôi đang ngủ bỗng nghe tiếng kêu:
– Dậy mà đi thím Lý ơi!
Tôi giật mình thức giấc. Nhà không có đồng hồ nên tôi không rõ lúc đó mấy giờ. Tôi đứng dậy vớ cái áo lạnh khoác lên người. Nhưng chồng tôi níu kéo tôi trở lại giường:
– Dậy làm chi sớm thế? Đã ai đi đâu giờ này!
– Tụi nó mới kêu đó. Không theo kịp tụi nó rồi làm sao dám chạy một mình?
Tôi cũng hơi lạ sao hôm nay chúng nó không ngừng trước cửa nhà tôi đợi tôi như mọi khi. Có lẽ vì dậy hơi muộn nên chúng phải chạy gấp chăng? Thế là tôi bỏ vội mấy bó rau đã chuẩn bị sẵn lên mặt hai thúng hàng rồi cất gánh lên vai. Nhưng ra đến đường cái tôi không thấy bóng dáng một ai. Nghĩ rằng bọn bạn đã đi xa rồi, tôi cứ cắm đầu mà chạy cho kịp. Tới khi đến dốc Bình Linh mà không thấy ai trước mặt, tôi bắt đầu lạnh người.
Cũng xin nói thêm một chút: Thôn ba chúng tôi là thôn ở trong cùng của xã Xuân Sơn, phải qua thôn hai, thôn một rồi mới tới Bình Giả được. Trên đoạn đường thôn ba tới thôn hai lại phải qua một cái dốc gọi là dốc Bình Linh. Khu vực này lúc đó chưa có nhà cửa gì cả. Đất thì đã được phát quang để trồng trọt nhưng còn có hai cây bình linh rất lớn, cao nghều nghệu đứng gần nhau chưa ai hạ nổi. Phần thân gần mặt đất dễ chừng đường kính đo trên bốn mét. Tàng cây lớn, ngọn cây quá cao nên lúc nào trông lên cũng thấy nó rung rinh rung rinh và phát tiếng kêu vi vu vi vu nghe thật ghê rợn. Người ta lấy tên hai cây cổ thụ này mà đặt tên dốc. Người ta cũng đồn đại rằng dưới hai cây này đêm hôm vẫn thường có ma hiện ra với bao nhiêu hiện tượng kỳ quái. Bình thường đi với nhiều người tôi không để ý tới chuyện đó, nhưng bây giờ chung quanh chẳng có ai, tôi thấy ớn xương sống vô cùng. Tôi định quay trở lại nhưng không hiểu sao chân tôi cứ bước tới. Dốc này hơi cao, thường tôi vẫn phải bước rất chậm nhưng lúc ấy vì quá sợ, tôi đã qua lúc nào không hay…
Phải nói rằng tôi đã chạy quá nhanh, đến độ giữa đêm mà thân thể vẫn toát mồ hôi. Trước mặt vẫn không một bóng người. Khi đã tới khu vực dân cư, tuy bớt sợ nhưng người tôi mệt lắm. Bình tĩnh trở lại, tôi biết rằng mình đã mơ lầm tiếng ai gọi mà đi sớm mất rồi. Ngồi nghỉ đây để chờ bọn bạn ư? Không thể được. Rủi gặp anh du kích nào đi tuần thì tiêu ngay mấy chục ký đậu xanh và còn bị phiền phức nữa! Tôi lẩm bẩm lập lại một câu mà nhiều người đi Bình Giả ban đêm thường nói “Mồ hôi nước mắt, mất nó là con đói. Ma âm phủ không tác hại thực tế bằng ma trần gian!”. Thế là tôi lại bước thật nhanh như sợ ai đuổi theo sau mình. Không phải sợ ma nữa mà sợ đồng bọn của Hoàng Cùi. Tôi cố bước thật nhanh cho chắc ăn…
Khi thấy cánh đồng Bình Giả hiện ra trước mắt tôi mới biết ngay mình đang ở trạm kiểm soát cuối cùng của xã Xuân Sơn. Đã ra khỏi Xuân Sơn nhưng tôi vẫn thấy khó tính. Cánh đồng Bình Giả đầy ma như người ta vẫn đồn, bây giờ một mình tôi đàn bà yếu đuối làm sao mà đi đây? Nghỉ tạm đây hoặc trở lui cũng không được, ma trần gian vớ được thì khốn. Thôi, cứ mặc ma âm phủ muốn làm chi thì làm! Người tôi đã quá mệt vì gánh nặng lại chạy nhanh không nghỉ trên một quãng đường quá dài. Chỉ cần qua được cánh đồng Bình Giả thì thật sự an toàn. Nghĩ thế rồi tôi lại tiếp tục chạy. Tôi cố tập trung sức chạy để đầu óc khỏi rảnh rỗi mà sợ hãi. Nhưng đến khoảng giữa cánh đồng thì chân tôi muốn khuỵu xuống. Tôi biết sức mình không thể gắng thêm, đành đặt gánh xuống và ngồi bệt bên vệ đường. Ngồi thở chốc lát tôi mới thấy đỡ mệt một chút. Tôi đưa mắt nhìn quanh, định nghỉ thêm vài phút nữa. Bỗng tôi thấy từ ngoài xa đường lộ, một toán người lố nhố đang chạy về phía tôi. Hoảng hốt, tôi lại đặt gánh lên vai và tiếp tục cắm đầu chạy. Hình như có tiếng người thình thịch đuổi theo sau lưng. Tôi sợ quýnh lên và vẫn cố chạy. Bỗng tôi lại thấy trước mặt một toán người khác cũng đang lố nhố chạy về phía tôi. Sau có người đuổi, trước có người chận, tim tôi đập mạnh, người tôi run lên bần bật. Thế rồi tôi ngã xuống và không biết gì nữa…
Bỗng tiếng bánh xe lăn lộc cộc và tiếng chân bò nện trên đường đã khiến tôi tỉnh dậy. Tôi nghe tiếng một người đàn ông hỏi lớn:
– Cái chị bán rau sao lại nằm giữa đường thế này?
Không biết tôi đã ngất đi bao lâu. Tôi mở mắt ra thì thấy chiếc xe bò đang ngừng. Con bò có vẻ thèm thuồng mớ rau lang của tôi. Nó đang hướng mắt tới những bó rau non mà liếm mép. Tôi vùng đứng dậy rồi đặt gánh lên vai. Trời đã hơi hưng hửng. Nhìn lại phía sau tôi thấy một đoàn người cũng đang gánh hàng nói cười oang oang. Lần này tôi nghe rõ cả tiếng những người quen. Đó đúng là những người vẫn thường đi với tôi, tôi đứng lại chờ họ.
– Chà, thím Lý bữa ni không thèm đợi tụi tôi, bỏ mà đi trước!
– Đi sớm một mình như vậy cô không sợ ma à?
– Ma trần gian mới đáng sợ chứ ma âm phủ ngán chi cô Lý hỉ!
Người này một câu, kẻ khác một câu đã thâu ngắn đoạn đường còn lại…
Trên đường trở về Xuân Sơn, tôi quan sát kỹ hai bên cánh đồng Bình Giả nơi hồi khuya những đám người lạ đã xuất hiện chỉ thấy rất nhiều bụi cây nhỏ mọc lố nhố từng hàng trên các bờ ruộng. Chợt một ý nghĩ chớm lên trong đầu: Có lẽ chính những bụi cây ấy đã khiến tôi nhìn thành những bóng người trong lúc tâm thần hoảng hốt chăng?
Ngô Viết Trọng