Cuộc
chiến đã kết thúc cách đây đã gần một phần tư thế kỷ rồi, tiếng súng đã
thực sự chấm dứt nhưng thanh bình vẫn chưa trở về trên quê hương. Màu
xanh của lá phủ lại núi rừng, hố bom biến thành ao cá, bông lúa trổ đầy
ruộng nương nhưng cuộc sống người dân vẫn còn tăm tối. Hình ảnh cuộc
chiến vẫn còn lai vãng nơi đây mặc dù tên những trận địa nổi tiếng không
ai buồn nhắc tới. Đáng lẽ mọi người phải mừng rỡ khi không còn cảnh
bồng bế dẫn nhau đi chạy giặc, không ai còn hồi hộp hay lo âu đạn pháo
lạc vào nhà nhưng thực tế đã không phải vậy, lòng người vẫn chưa bình
yên và mỗi ngày là một cuộc chiến mới… trên mặt trận cơm áo.
Trong
bối cảnh này, tập thể thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa chịu nhiều bất
hạnh nhất, đau thương nhất. Cuộc đời của những anh em này mất mát nhiều
quá. Mỗi người nếu không cụt cả hai chân, mất cả hai tay hay mù cả hai
mắt thì cũng mất một khúc chân, một khúc tay hay một con mắt, đó là chưa
kể những mảnh đạn bom ghim đầy trong người giấu dưới những vết sẹo.
Phải làm gì với tấm thân tàn phế này trong cuộc sống mà ngay chính những
người có đầy đủ cả tứ chi, còn có cả gia đình đứng sau lưng làm hậu
thuẫn, vẫn không sống nổi. Thêm vào đó là nỗi khổ tinh thần. Bị gia đình
bỏ rơi, xã hội ruồng rẫy, phải có một ý chí sắt đá lắm mới kéo dài cuộc
sống cho tới ngày nay. Sắt đá thì lòng dạ có sắt đá nhưng tập thể anh
em phế binh không chống chọi nổi với thời gian khi gia đình và con cái
thiếu ăn, thiếu mặc và thiếu học. Thân xác các anh bệ rạc, tinh thần các
anh hao mòn, mặc cảm thua thiệt và bị bỏ rơi chiếm ngự mọi suy nghĩ của
các anh. Hình ảnh tiều tụy, đau thương và đói khổ của các anh em thương
phế binh không được chế độ này thương xót. Không những không được cứu
giúp, những người của chế độ này còn muốn xóa sổ luôn những người lính
tàn phế đã một thời dám chống lại họ.
Đời sống của các anh em thương
phế binh Việt Nam Cộng Hòa do đó cần được nhiều người biết tới, biết để
đánh giá mức độ nhân đạo mà chế độ này thường rêu rao và biết để đừng
quên những người đã từng cống hiến xương máu để xã hội miền Nam được
bình yên. Sở dĩ phải nhắc lại quá khứ đau buồn này chỉ vì muốn kêu gọi
lòng từ tâm của những người Việt Nam, những người có thể đã trải qua
những tháng ngày gian khổ trong nước nhưng đã vượt thoát ra được và hiện
nay đang ở hải ngoại, thương cảm và đoái hoài đến hoàn cảnh và nỗi lòng
của những anh em thương phế binh trong nước. Ở đây tôi chỉ mạn phép kể
lại một vài cuộc sống mà tôi có cơ hội gần gũi và chứng kiến. Những hình
ảnh tuy nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa, mà ý nghĩa lớn nhất là sức sống
mãnh liệt của những con người đã mất tất cả và không còn gì để mất nữa.
Sống
để làm gì? Đó là câu hỏi mà các anh em thương phế binh thường tự đặt ra
cho mình. Có người tìm được câu trả lời bằng cách tự sát, treo cổ, nhảy
xuống sông hay uống thuốc ngủ. Người khác thì muốn tiếp tục sống để
nhìn ánh sáng của thông điệp tình yêu một ngày nào đó soi sáng khắp mọi
miền đất nước. Những người còn lại chỉ muốn sống để làm chứng nhân,
chứng nhân cho chính mình và chứng nhân cho một cách đối xử. Hình ảnh
của những người què cụt, đui mù dắt díu nhau đi khắp nẻo đường bán từng
bó nhang, van xin từng chén cơm bị hành hạ chỉ vì mang tội tàn phế,
không đủ sức lao động. Ghi lại những hình ảnh này để các thế hệ mai sau
đừng quên rằng đất nước Việt Nam đã có một thời con người đã quá tàn ác
đối với con người, đó là dưới chế độ cộng sản hiện nay.
Cũng nên
nhắc lại là trước tháng 4-1975, nơi qui tụ đông đảo nhất gia đình các
anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa là "Làng thương phế binh Thủ
Đức". Gọi là làng vì lối tổ chức nơi này không khác gì một làng xã bình
thường, chỉ khác một điều là dân làng chỉ toàn thương phế binh. Cũng có
trường học, chợ búa, nhà thờ, chùa chiền như mọi nơi khác. Làng này chỉ
khác với các ghetto thời Đức Quốc Xã là mọi người đều sống tự do, ai
muốn đi đâu cũng được và muốn làm gì thì làm. Hai điều kiện này hiện nay
không còn hiện thực nữa vì "Làng thương phế binh Thủ Đức" đã bị chính
quyền cộng sản xóa bỏ ngay khi vừa tiến chiếm Sài Gòn. Những kỷ vật của
một thời chinh chiến đã qua đều bị đập phá như bức tượng Thương Tiếc, kể
cả mộ phần những người đã vì tổ quốc hy sinh.
Mức sống người dân
trong "Làng thương phế binh Thủ Đức" trước kia sung túc là nhờ tiền trợ
cấp của chính phủ, mỗi anh em thương phế binh đều có sổ cấp dưỡng và cứ
đến kỳ lãnh tiền thì lên Sài Gòn vào ngân khố lãnh tiền. Nhiều người gọi
đây là tiền lương vì được trả đều mỗi tháng hay mỗi tam cá nguyệt. Tùy
theo quyết định của hội đồng giám định y khoa, số tiền lãnh được thường
cao hơn mức tiền đã lãnh khi còn ở trong quân ngũ, do đó đời sống vật
chất của các anh em thương phế binh trong "Làng thương phế binh Thủ Đức"
không có gì đáng để phàn nàn.
Vào giữa tháng 5-1975, chính
quyền cộng sản ra lệnh giải tán "Làng thương phế binh Thủ Đức" và đưa bộ
đội vào chiếm đóng. Các gia đình thương phế binh một số di tản về quê,
số còn lại đi vùng kinh tế mới. Gọi là vùng kinh tế mới nhưng chẳng có
gì là kinh tế, nơi đây đúng là địa ngục trần gian, không có nhà cửa,
điện nước, nhà thương hay trường học, chỉ toàn là rừng với cỏ. Những tấm
thân què cụt không thể chặt cây phá rừng, vợ con của họ cũng không
thành thạo công việc làm rẫy. Miếng ăn trở nên quí hiếm, con người trở
thành ích kỷ. Nhiều người đã chết vì bệnh sốt rét rừng, vì dẫm phải mìn
bom còn sót lại hay vì suy dinh dưỡng. Không sống được nơi chốn rừng
sâu, từng đoàn người đã kéo nhau trở về thành phố.
Vì bản năng
sinh tồn, tất cả phải tìm một nghề gì đó sinh sống. Những người may mắn,
thân thể còn nguyên vẹn thì làm những nghề khuân vác hay đạp xích lô
còn những anh em thương phế binh? Người nào may mắn tìm được gia đình
tại thành phố thì được nuôi ăn, những anh em còn lại phải lê lết xin ăn,
thật là nhục nhã. Nếu có đầy đủ chân tay bình thường, cho dù có nghèo
khổ đến đâu ai cũng muốn xoay sở để có miếng ăn qua ngày, nhưng với tấm
thân què cụt không còn giải pháp nào khác ngoài đi xin. Nhiều anh em còn
cố làm ra vẻ thảm thương để người ta thương hại cho tiền.
Nhưng
anh Thương, phế binh cụt hai chân, không muốn làm vậy. Anh có niềm tự
hào của anh. Ngày trước anh là con một gia đình tương đối khá, khi còn ở
"Làng phế binh Thủ Đức" gia đình anh không muốn xuống thăm anh, lâu rồi
không còn ai trong gia đình anh biết anh đang ở đó. Chính gia đình anh
đã quên anh. Những ngày đầu tháng 4-1975, anh về Sài Gòn thăm nhà trách
móc không ai còn nhớ đến anh, cha mẹ anh giả lã nói đường sá bây giờ
nguy hiểm thấy anh về là vui mừng rồi, cuộc sống bây giờ quá khó nên ít
có thì giờ. Khi bị đuổi ra khỏi làng anh về lại Sài Gòn tìm gia đình thì
mới biết nhà anh đã bị ủy ban quân quản chiếm đóng, nói là nhà vô chủ.
Gia đình anh đã đi di tản từ hồi nào, bỏ lại anh ở đây. Lần này anh về
lại Sài Gòn nhưng từ vùng kinh tế mới và sống kiếp ăn xin. Anh Thương
rất ngượng ngùng khi lần đầu chìa tay xin tiền một phụ nữ ngoài chợ Vườn
Chuối. Anh sửa lại áo quần rồi cúi đầu nói lí rí trong miệng, tay chìa
nón ra xin, cũng may người phụ nữ tốt bụng đã cho anh một ít tiền. Lâu
dần thành quen, anh ít ngại ngùng hơn nhưng vẫn không dám cónhững hành
vi "khó coi" như những anh bạn đồng cảnh ngộ.
Những lúc ngồi một
mình ăn một gói xôi trong công viên buổi trưa, anh Thương xót xa nhớ về
những ngày tháng cũ, lúc còn cắp sách đến trường… rồi khi vào trong
quân ngũ. Anh tình nguyện ghi tên binh chủng Nhảy Dù, một binh chủng đã
từng một thời oanh liệt. Cũng chính vì quá oanh liệt nên binh chủng Dù
làm tăng mật độ trong các nghĩa trang và cung cấp nhiều thương binh
nhất, anh Thương chẳng may có tên trong số người đó. Có lúc chán đời,
anh tự an ủi bằng cách tựa lưng vào một góc tường, châm một điếu thuốc
thơm lim dim nhớ nếp sống hùng của thời trai trẻ và đôi khi… mơ thấy một
tương lai đầy sáng lạng. Giấc mộng nào cũng sớm tàn, khi tỉnh lại anh
Thương thấy mắt mình cay cay. Thì ra anh đã khóc, khóc cho thân phận và
khóc cho hoàn cảnh của những bạn phế binh. Hôm nay anh chỉ trơ trọi một
mình, một khách độc hành trên con đường không có đích tới. Từ nay mỗi
ngày anh phải lê lết tấm thân tàn tạ trên khắp nẻo đường mà có một thời
anh đã hiên ngang, hùng dũng đi qua…
Anh Qườn thì khá hơn. Vì
chỉ cụt một chân, anh sắm một ít đồ nghề, ra vỉa hè sửa và vá ruột xe
đạp. Tuy là một nghề bất đắc dĩ nhưng ít ra anh không phải sống kiếp ăn
xin như phần lớn nh¨ững bạn bè khác. Anh Quờn có cái may là tìm được một
người thân, anh còn ông chú ở Khánh Hội, nên khi vừa từ kinh tế mới trở
về anh tìm đến nhà và được chú anh nhận lại. Vì cha anh mất lúc anh còn
ở trong quân ngũ, chú anh Quờn thương anh nhiệt tình. Chính ông chú này
chỉ cho anh nghề sửa và vá ruột xe đạp. Những đứa em con người chú đôi
khi còn ra ngoài đường phụ giúp anh, đứa cháu gái thì ra ngồi bán thuốc
lá lẻ bên cạnh chỗ anh sửa xe đạp cho vui.
Những khi vắng khách,
anh Quờn trải chiếu ra nằm nghỉ và nhớ lại chuyện ngày xưa lúc còn đi
học. Anh muốn trở thành giáo sư hay kỹ sư nên đã cố gắng học tập nhưng
lệnh tổng động viên năm 1972, mặc dù học khá nhưng vì đi học trễ anh đã
quá tuổi để học tiếp lớp mười hai, anh vào quân đội học khóa hạ sĩ quan
bộ binh Thủ Đức. Khi ra trường anh được đưa về Sư Đoàn 23 Bộ Binh đóng ở
An Khê. Trong một trận đánh anh bị trúng đạn bễ đầu gối phải cưa chân
phải và được giải ngũ sau đó. Giờ đây với khúc chân cụt này anh ngồi bơm
bánh xe đạp. Anh loay hoay với công việc hoàn toàn xa lạ và khó khăn.
Khi thì ngồi xuống, khi thì đứng lên, khi phải vặn hết sức mình một con
ốc, nhiều lúc mệt lã anh ngồi lết luôn dưới đất. Công việc này một người
bình thường chỉ mất từ năm đến mười phút là xong, nhưng với anh phải
mất gấp đôi thì giờ. Vừa làm để kiếm cơm vừa học thêm nghề, đây cũng là
một cố gắng phi thường.
Rồi nghề dạy nghề, anh Quờn quen dần với
công việc và có một cuộc sống tương đối khá. Nhiều người thương mến anh
đề cập đến chuyện vợ con, anh chỉ ngao ngán lắc đầu. Nhớ lại chuyện
tình năm xưa, anh có quen một người con gái tên là Hạnh Thảo. Hai đứa
yêu nhau, thề non hẹn biển, gia đình hai bên đã gặp mặt nhau bàn bạc
chuyện cưới xin, có thể gọi Hạnh Thảo là vợ chưa cưới cũng được. Nhưng
ngày anh bị thương cũng là ngày hai đưa chia tay. Hạnh Thảo chỉ đến thăm
anh một lần tại quân y viện rồi ra đi vĩnh biệt. Lần gặp đó, Hạnh Thảo
đã khóc rất nhiều và anh Quờn cũng nước mắt không thua. Anh nằm ở quân y
viện một mình, buồn cho thân phận. Từ đó lòng trở nên chai đá, anh càng
thấm thía khi nghe bản nhạc "Kỷ vật cho em": Đây kỷ vật, viên đạn đồng
đen, em sang sông mang làm kỷ niệm…, bên người yêu tật nguyền chai đá…,
cố quên đi một lần dang dối…
Nghe đâu Hạnh Thảo đã lấy chồng,
một công chức nhỏ ở nha thuế vụ, bây giờ đã bốn mặt con. Sau 30-4-1975,
chồng Hạnh Thảo không bị đi học tập và ra buôn bán chợ trời, nghe nói
khá lắm trong khi anh Qườn vẫn ngồi đây hẩm hiu một mình. Nhiều lúc nghĩ
về "hậu tự", anh ngậm ngùi chua xót cho đời trai. "Thân mình lo còn
chưa xong, nghĩ gì đến gia đình". Năm này qua năm nọ, tuổi đời chồng
chất, anh Qườn chỉ biết nhìn người đời vui vẻ đi qua nỗi đau của mình.
Anh không dám nghĩ ngợi xa xôi mặc dù cũng có nhiều cô gái có ý trêu
chọc anh. Có cô giả bộ xì bánh xe rồi tới nhờ anh bơm hộ, có cô đến nhờ
anh giữ hộ xe đạp để đi chợ rồi mua bánh trái và thuốc lá mang đến tặng
anh. Anh Quờn tuy có thích thú nhưng không dám tiến xa hơn, chẳng hạn
như rủ đi coi hát hay ăn chè, v.v… Anh biết thân phận mình, cho dù các
cô gái đó có chịu đi chơi với anh nhưng gia đình các cô chắc chắn sẽ
không tán đồng. Cuộc đời đã dạy anh một bài học cay đắng, không nên mơ
tưởng những chuyện quá tầm tay. Các cháu của anh lớn dần theo thời gian,
đến tuổi cập kê rồi lập gia đình, không còn đứa nào ra ngồi với anh cho
ngày tháng bớt dài. Thời gian càng tiến tới, thân xác anh cứ lụi dần,
lụi đến mức không thể trở về lứa tuổi thanh xuân. Tuổi 20 của anh đã bị
bức tử trong quân y viện, năm nay đã ngoài 40, bệnh lao đang hành hạ,
bệnh sốt rét rừng ăn cơm tháng trong thân hình tiều tụy, anh Quờn buông
xuôi tất cả chờ ngày đi vào lòng đất.
Cảm động nhất là những anh
bị mù lòa, suốt ngày ngo ngoe chiếc gậy đi trong tăm tối. Anh Thông
không chịu đầu hàng số mệnh, suốt ngày anh dọ dẫm từ đầu đường này đến
phố chợ khác để bán từng tờ vé số, tối về thì ngủ nhờ vỉa hè nhà người
ta. Thật sự thì đời anh lúc nào cũng tối. Đời anh Thông là cả một thảm
kịch, người vợ thân thương nhất cũng đã qua đời khi hai vợ chồng vừa rời
vùng kinh tế mới trở về lại Sài Gòn. Không biết chị đã ăn và uống thứ
gì ngoài chợ, anh chỉ nghe vợ mình rên siết, tiêu chảy suốt hai ngày đêm
rồi chết. Người ta nói chị chết vì bệnh kiết lị, anh Thông buồn bã nghe
tiếng xe của sở vệ sinh đến chở xác chị đi, thế là hết. Cũng may hai vợ
chồng anh không có con, nhưng đó cũng là niềm bất hạnh. Kể từ nay anh
Thông trở thành "tứ cố vô thân", không người thân thích và chẳng ai đỡ
đần. Lắm lúc anh muốn đi ăn xin qua ngày nhưng vì lòng tự trọng và cái
"chất lính" hào hùng vẫn còn mãnh liệt nên anh đã không làm thế. Anh
Thông gom góp vốn liếng còn lại kinh doanh, anh mua vé số ở các ty tài
chánh rồi đi bán dạo. Anh bán sự may mắn cho người ta trong khi chính
anh rất cần may mắn. Từ đó anh không quản nắng ngại mưa, sớm tối tự mình
chiến đấu với "mặt trận cơm áo". Sáng gói xôi, trưa cơm chợ, chiều về
tìm quên trong chút mùi men.
Tôi tình cờ gặp lại anh Thông đang
bán vé số dạo trên đường Nguyễn Tri Phương. Hai anh em tay bắt mặt mừng,
tôi mời anh vào một quán cóc. Hai chúng tôi mỗi người ăn vài trứng vịt
lộn, húp một tô cháo lòng và "độp" một xị đế. Thật là vui sướng. Ăn uống
xong xuôi, tôi hỏi anh:
– Anh có nghĩ gì về tương lai anh không?
–
Có chứ anh. Chỉ có buồn thôi anh ạ, lắm lúc tôi đã khóc cho thân phận
không may của mình. Năm nay cũng năm mươi mấy rồi, không vợ không con,
không nhà không cửa. Tối ngày cứ đi lang thang kiếm sống, nếu chẳng may
bị bệnh đau thì ráng mà chịu, tứ cố vô thân mà. Do đó còn sức "cày" được
ngày nào thì hay ngày đó, cày không nổi thì chịu chết chứ biết sao bây
giờ.
Tương lai là nỗi ám ảnh kinh khiếp đối với các anh em
thương phế binh trên vỉa hè. Ai cũng muốn được ăn no, mặc ấm nhưng không
phải ai cũng có may mắn đó. Đối với những người sống thường trực trên
các lề đường, hàng ngày đối diện với cái đói cái lạnh, cuộc sống là một
cuộc chiến đấu không ngừng. Ai cũng muốn sống trong danh dự, kể cả những
người đang ăn xin ngoài đường, nhưng vì thân thể tật nguyền không cạnh
tranh với những người khỏe mạnh hơn, họ đành bỏ rơi danh dự. Đói quá thì
phải ăn xin. Ăn xin thì bữa no bữa đói, tất cả bị suy dinh dưỡng rồi
sinh ra bệnh tật. Mang bệnh mắc tật lại không tiền mua thuốc, mạng sống
của những người sống trên vỉa hè thành phố như chỉ mành treo chuông, chỉ
một cơn gió nhỏ là tiêu tan cuộc đời. Không ai trông mong tìm được ánh
sáng trong một đường hầm không có lối ra. Đối với họ, tương lai đồng
nghĩa với bóng đêm và ngỏ cụt.
Ý thức được sự mong manh của cuộc
đời, nhiều anh em tìm quên trong men rượu. Men rượu có giúp quên đi
thực tại khó khăn nhưng cũng cướp đi nhiều cuộc đời. Đồng tiền khó nhọc
kiếm được đều trút vào men rượu, mặc cho vợ khóc con than. Nhiều gia
đình vốn đã tan nát lại càng nát tan thêm. Tất cả chỉ vì nghèo khổ, càng
khổ các anh càng muốn tìm quên, cái vòng luẩn quẩn đó đã lôi kéo nhiều
gia đình xuống hố sâu vực thẳm… nếu không có một phép lạ.
Để
biện minh cho sự hư thân của mình, anh Sơn thường ngâm các bài thơ say
của Vũ Hoàng Chương hay của Trần Tế Xương cho tôi nghe:
Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thời hư vậy ta thời cứ say.
Đất say đất cũng lăn quay.
Trời say trời cũng đỏ gay ai cười.
Hoặc thơ của Nguyễn Tất Nhiên lúc còn ở Biên Hòa:
Tình cũng khó theo thời cơm áo khó,
Ta dìu nhau đi dưới bóng nợ nần.
Em bắt đầu ân hận chưa em?
Vì đã trót yêu anh, cái thằng quanh năm túng thiếu,
Ân hận đó em cũng đành cam chịu.
Cứ xem như sự kiện đã lâu ngày,
Như địa cầu không thể ngược vòng quay.
Anh Sơn thích nhất là bài "Ta đội nón mời em uống rượu" của Cao Thoại Châu, người Quảng Nam:
Ta đội nón mời em đi uống rượu,
Cuộc tình sầu xin tạm gác qua bên,
Vì lát nữa đây mặt trời sẽ chết.
Mùa đông về không có chỗ dung thân,
Ta đứng run trong giá lạnh.
Dáng bơ vơ như một kẻ thất tình,
Để ta trông thấy em như một bờ dốc đứng.
Còn ta là chiếc xe đò nổ lốp đứng chơ vơ!
Vậy thì xin em hãy uống,
Uống cho tàn, cho mạt kiếp nhân sinh.
Em không uống nên ta lẻ bạn,
Ta tủi hờn bóp nát chiếc ly không!…
Bài
thơ của Cao Thoại Châu còn rất dài, nhưng anh Sơn chỉ chép lại cho tôi
tới đây vì bài thơ đó đã lâu ngày và nhất là sau những cơn say đầu óc
anh lú lẫn, không còn minh mẫn như ngày xưa. Vợ con anh Sơn tuy rất
thông cảm hoàn cảnh và tinh thần của anh nhưng điều đó lại chính là nỗi
lo của gia đình.
Anh Sơn bị cụt hai chân, thân hình ốm yếu giờ
thêm men rượu tàn phá nên đã trút nợ đời sau một đêm bí tỉ. Trước khi
lâm chung, anh trăn trối: "Thế là thoát được nợ đời, thoát cảnh tật
nguyền, thoát hết nợ nần và thoát sự nghèo đói". Anh dặn vợ hãy gắng sức
nuôi hai đứa con. Chị vợ chỉ biết khóc lóc và ôm hai con vào lòng. Con
không cha như nhà không nóc, trước kia mặc dù chồng bị tật nguyền nhưng
luôn luôn ở bên cạnh nên chị Sơn cảm thấy yên tâm, nay không có anh chị
phải xoay sở ra sao giữa dòng đời nghiệt ngã? Anh Sơn ra đi cũng không
giải quyết việc gì, anh chỉ giải thoát cho riêng bản thân anh, còn vợ
con anh thì vẫn đối diện cái nghèo muôn thuở. Tội nghiệp nhất là con cái
của họ, đứa thì ở đợ, đứa thì làm thuê, có đứa ra chợ móc túi giựt dây
chuyền rồi vào tù ra khám, nhiều đứa con gái thì đêm đêm rủ nhau đứng
đường tìm khách mua hoa.
Có chuyện trớ trêu như sau. Phế binh
Long, cụt một chân, thường đứng bán nhang trước một tiệm vàng ở chợ Bàn
Cờ. Ngày nào cũng thế, ông chủ tiệm vàng thường ra đuổi anh Long đi nơi
khác vì sợ sự hiện diện của anh sẽ làm mất khách. Anh Long cố gắng kỳ
kèo để ông này mua nhang mới chịu đi nơi khác, nhưng không những không
được mua nhang mà còn bị chửi bới tục tằng. Một hôm cô con gái của phế
binh Long, lúc đó 17 tuổi rất xinh đẹp, thay cha vào chợ bán nhang tình
cờ gặp ông chủ tiệm vàng. Ông này liền nổi máu "dê", không những đã mua
hết nhang mà còn mời cô ta đi ăn cơm tối. Đêm hôm đó, ông dẫn cô con gái
"đi lạc" vào khách sạn rồi muốn giữ luôn làm vợ… bé. Cô này có hiếu,
bắt ông chủ tiệm vàng phải làm lễ ra mắt cha mẹ mới chịu. Ông chủ tiệm
vàng mới giật mình vỡ lẽ cô này là con của phế binh Long. Lúc đầu ông có
hơi ngỡ ngàng và bối rối nhưng vì siêu lòng bởi cô con gái xinh đẹp đã
gọi anh Long bằng "ba" ngọt xớt, mặc dù lớn hơn anh Long đến 10 tuổi rồi
còn tặng thêm hai chỉ vàng 24 cara để được phép đưa cô con gái lên Đà
Lạt hưởng tuần trăng mật.
Đó là số phận của những anh em mà tôi
cho là còn nhiều may mắn. Trong thực tế, còn nhiều hoàn cảnh nghiệt ngã
hơn nhiều, phần lớn là những anh em bị thương tật nặng không thể tự mình
làm những động tác bình thường nhất. Các anh luôn phải có người đứng
bên phục vụ, từ việc ăn uống cho đến phần vệ sinh. Đời các anh em này
gắn liền với chiếc xe lăn hay trên giường bố. Có anh không những bị mất
hai chân lại còn mất luôn cả một cánh tay. Riêng hoàn cảnh của anh Trần
Văn Xuyên là thê thảm nhất. Anh Xuyên bị mù hai mắt, cụt hai chân và cả
hai tay nữa. Ôi không còn nỗi bất hạnh nào đau đớn hơn hoàn cảnh này.
Nhưng trong nỗi đau ông trời vẫn còn có mắt. Anh Xuyên thật là có phước,
anh may mắn có người vợ thương anh nhiệt tình, hai đứa con anh luôn
hãnh diện có người cha bị thương tật. Bất cứ nơi đâu hai em nhỏ này cũng
nhắc đến cha, nào là cha hai em đã anh dũng chiến đấu trước kẻ thù cho
đến khi không còn chiến đấu được nữa, nào là cha hai em can đảm chịu
đựng nỗi đau tàn phế mà không than van lời nào. Cũng hiếm hoi có được
người đàn bà chịu thương, chịu khó và thủy chung đến như vậy. Mặc dầu họ
ăn bữa đói bữa no nhờ sự bố thí của thiên hạ nhưng không bao giờ trong
gia đình có sự xào xáo, hai vợ chồng ăn ở thuận hòa và hai đứa con một
lòng hiếu thảo. Kể cũng tội nghiệp, họ sống để mà sống vì không thể chết
được.
Ôi, kể sao cho hết những những mảnh đời đau thương rách
nát cùng cực này, những mảnh đời của những thương phế binh và cô nhi quả
phụ trong cuộc sống hiện nay. Họ bị liệt vào hàng cặn bã xã hội, sự
hiện diện của họ trong cuộc sống này không cần thiết. Những người của bộ
máy cầm quyền cộng sản đã muốn những người này chết đi để thưởng thức
trọn vẹn chiến thắng, họ không muốn nhìn thấy vết thương do chính họ gây
ra trong thời chiến tranh. Những kẻ chiến bại không có quyền tồn tại
trong chế độ này. Chính sách "tập trung cải tạo" dầu sao cũng thể hiện
được tính chất trả thù, như đưa người lên vùng kinh tế mới để họ chết
dần chết mòn trong chốn rừng sâu là một chính sách thâm độc loại trừ
những người mà chế độ này không muốn nhìn thấy. Nhiều người lãnh đạo
cộng sản còn rêu rao tha cho được sống là nhân đạo lắm rồi.
Ai
có quyền tha ai và nhân đạo chỗ nào? Làm người ai không muốn được sống
bình yên, người cộng sản lấy quyền gì tước bỏ đời sống người khác. Hơn
nữa đất nước đã thống nhất mọi người Việt đều là công dân Việt Nam,
người cộng sản lấy quyền gì để cho người này được ở, người kia đuổi đi.
Cho dù miền Nam có bị thua trận nhưng đất nước này vẫn là của chung, mọi
người Việt Nam đều có quyền sinh sống và góp phần xây dựng đất nước.
Người lành lặn góp phần theo kiểu người lành lặn, người tàn tật góp phần
theo kiểu người tàn tật, ai có phận sự nấy. Dân tộc Việt Nam đau khổ
quá nhiều rồi, ai cũng muốn được sống yên ấm tự do.
Tại sao lại
có công dân hạng một và công dân hạng hai? Tại sao chỉ những người cúc
cung phụng sự chế độ thì được quyền đè đầu đè cổ nhân dân, còn những
người khác chỉ có nhiệm vụ cúi đầu? Không, không thể chấp nhận được. Chế
độ này nuôi dưỡng quá nhiều bất công, chỉ cần một tia lửa nhỏ đám rơm
thịnh nộ sẽ bốc bùng lên, lúc đó thì đã quá muộn. Không ai muốn tình
trạng này xảy ra trên đất nước. Nếu có tình trạng hỗn loạn xảy ra lỗi đó
không phải là phía nhân dân, những người gieo ác sẽ gặt quả ác, luật bù
trừ của đấng tạo hóa muôn đời bất diệt. Tập thể anh em thương phế binh
và cô nhi quả phụ trong nước hiểu rất rõ điều đó nên cố gắng chịu đựng,
sống sót chờ ngày quê hương bừng sáng.
* * *
Sau đây tôi xin
được bộc bạch về cuộc đời của tôi, cuộc đời trôi giạt lang thang, từ
Sài Gòn ra miền Trung, rồi từ miền Trung phiêu bạt về Sài Gòn. Trên
những đoạn đường đi qua, những cảnh mắt thấy tai nghe khiến tôi trở
thành chứng nhân của thời đại. Những điều nghe thấy đó đã ghi đậm vào
tâm trí tôi nên thường toát ra trong mọi diễn giải. Tôi thấy cái chết
nhiều hơn sự sống, nỗi khổ nhiều hơn niềm vui, nước mắt nhiều hơn nụ
cười và bất công nhiều hơn hạnh phúc. Tôi khổ vì những điều đã nghe và
thấy đó.
Khắp nơi trên toàn cõi miền Nam sau ngày 30-4-1975 đều trở
thành hỏa ngục. Hỏa ngục cho những người như chúng tôi, những người bại
trận. Thật vậy, không có chỗ đứng cho những người thua trận. Mọi tội lỗi
xấu xa đều trút đổ lên đầu chúng tôi. Những người còn lành lặn thì bị
đưa đi "học tập cải tạo", những người tàn phế hay có dính líu đến chế độ
cũ thì bị đưa lên "vùng kinh tế mới". Tuy là hai danh xưng nhưng chỉ
một mục đích, loại trừ những thành phần "nguy hiểm" và "cặn bã" ra khỏi
cuộc sống. Nguy hiểm được gán cho những thành phần quân nhân công chức
của chế độ cũ, cặn bã là những thương phế binh, cô nhi quả phụ nghèo
khó, vô gia cư và vô nghề nghiệp.
Tôi chẳng may bị xếp vào thành
phần cặn bã của xã hội vì là một thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa.
Cuộc sống của chúng tôi không có giá trị, chỉ cần một cái lắc đầu nhẹ
của bất cứ người nào trong chính quyền, từ công an khu vực đến anh quản
lý chợ, là cuộc đời chúng tôi thay đổi ngay. Không bị đuổi ra khỏi khu
vực buôn bán thì cũng bị đẩy lên xe đưa vào "nhà nuôi". Gọi là "nhà
nuôi" nhưng chính là "nhà tù" vì trại viên tại đây bị giam giữ và hành
hạ như những tội phạm.
May mắn duy nhất trong đời tôi là giữ
được mạng sống cho đến ngày nay. Trong suốt thời gian qua, từ lúc thiếu
thời cho đến tuổi trung niên, tôi đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh
chết. Cha tôi mất sớm lúc tôi vừa tròn 8 tuổi, tôi đã đứng khóc bên quan
tài tài cha tôi hai ngày đêm liền. Mẹ tôi một mình thức khuya dậy sớm
nuôi tôi ăn học nên người. Sống tại miền quê Quảng Ngãi, vào tuổi thiếu
thời tôi đã thấy gia đình cậu mợ tôi, cô chú tôi khóc cậu, khóc cậu chú
tôi bị sát hại dã man. Trong đêm tối, quân du kích cộng sản vào làng bắt
cóc cậu chú tôi dẫn vào rừng, sáng hôm sau dân làng thấy xác hai người
nằm ở bìa rừng, ngực bị đâm lủng nát, lòi ruột ra ngoài với bản án ghim
trên ngực: "thành phần ác ôn gây tội ác với nhân dân".
Cậu chú
tôi nào có gây nên tội tình gì, chẳng qua được dân chúng bầu làm ấp
trưởng, xã trưởng chuyên lo việc giấy tờ cho dân mà cũng bị sát hại. Căm
tức và muốn trả thù cho cậu chú tôi nên vừa tới tuổi trưởng thành, tôi
xin phép mẹ tôi đi vào quân đội. Tôi quyết cầm súng bảo vệ quê hương,
bảo vệ gia đình vì các em mợ cô tôi còn quá nhỏ để có thể trả thù cho
cha.
Trong một trận đánh ngày 20-2-1975 trên quốc lộ 14 gần Buôn
Hô, tôi đạp phải mìn bị thương nặng, phải cưa hai chân. Lúc đầu tôi
được đưa về quân y viện Nha Trang, sau về Tổng Y Viện Cộng Hòa. Chiều
ngày 30-4-1975, bộ đội cộng sản vào quân y viện đuổi hết nhân viên quân
sự và dân sự ra khỏi viện. Anh em thương phế binh chúng tôi nhận được
lệnh xuất viện ngày hôm sau, 1-5. Vết thương tuy chưa lành hẳn, hai khúc
chân còn quấn trong băng, hai tay, đầu và một mắt cũng bị băng, tôi cố
chống lết ra được ngoài cổng Tổng Y Viện đón xe cùng với anh lính nuôi
tôi và anh Nhơn, người quê Bình Định, bị cụt hai giò như tôi. Chờ từ 7
giờ đến 9 giờ sáng mới đón được một chiếc xe xích lô máy chở chúng tôi
về địa chỉ 112/12 Lê Văn Duyệt, Gia Định (nay là Đinh Tiên Hoàng, trên
Lăng Ông Lê Văn Duyệt một đoạn), nơi mẹ tôi ở trọ. Trên đường đi là một
rừng người tấp nập, hỗn độn, bát nháo.
Về tới nhà nhà mẹ tôi
mừng rỡ. Tôi được mẹ già ẵm vào nhà, còn người lính nuôi tôi, tôi để nó
phụ giúp anh Nhơn vì anh bị đệ tử ôm tiền trốn biệt mấy ngày trước đó
nên rất bơ vơ, đúng là nước có loạn mới biết tôi trung. Ở được mấy hôm,
vết thương của tôi và của anh Nhơn làm mủ, mẹ tôi đi tìm y tá về chích
thuốc và băng bó vết thương. Đến ngày 6-5 chúng tôi được lệnh gọi ra
trình diện xã Bình Hòa, Ấp I. Nơi đây, ban quân quản đề nghị chúng tôi
trở về nguyên quán. Quê tôi ở Quảng Ngãi thì phải trở về Quảng Ngãi, anh
Nhơn quê ở Bình Định thì phải về Bình Định, thật là giản dị. Tối hôm
đó, mẹ tôi đi quyên góp lối xóm được một ít tiền và quần áo chia cho anh
Nhơn. Thật là tội nghiệp, anh lính mà tôi nhường để giúp anh Nhơn quê ở
Vĩnh Long, không thể theo anh Nhơn về Bình Định được nên chỉ đưa anh ra
bến xe mà thôi, vì anh này cũng muốn về lại quê nhà ở xã Tân Long. Cảnh
chia tay thật là buồn bã, tôi bắt tay anh Nhơn và anh lính phục dịch
nước mắt lưng tròng. Cụt hai chân, vết thương chưa lành đã phải tự túc
về quê, tôi chỉ biết thương xót cho anh Nhơn mà không làm gì hơn được.
Anh Nhơn đi ngày mùng 6-5, còn tôi và mẹ tôi ngày mùng 7.
Sau
một ngày chật vật đón xe trên xa lộ Biên Hòa, hai mẹ con tôi được một
chiếc xe tải chở hàng ra miền Trung chịu chở về quê. Mẹ tôi phải nhờ
những người hành khách phụ đỡ tôi lên xe, hai bên ván gỗ bít bùng và một
tấm bạt che ở phía sau. Trên xe tôi thấy có sẵn một đám người đã ngồi
trong đó từ hồi nào, khó khăn lắm hai mẹ con tôi mới tìm được chỗ ngồi
trên những gói hàng trên sàn xe. Tôi có cảm tưởng đây là xe áp tải tù
nhân vì chật chội, hôi thối và ngộp thở. Nhưng chính vì điều này cũng đỡ
đi phần nào, du kích không dám leo vào trong xe xét hỏi giấy tờ. Đến
chỗ cầu gãy, xe phải chạy băng qua những khúc sông cạn rồi đi tiếp.
Thỉnh thoảng đi ngang qua những dãy nhà cháy, mùi khét bay vào xe nồng
nặc. Có lúc ngộp quá, một vài hành khách tháo tấm bạt che phía sau xe để
hít không khí, chúng tôi mới nhìn thấy cảnh tang thương đổ nát hai bên
đường, nhà cửa loang lỗ đầy những vết đạn. Nhiều đoạn đường bị cấm, xe
phải đi lòng vòng qua các ruộng hoang hay các thôn xóm. Tất cả đều hoang
vắng đến rợn người, cả tiếng chim kêu cũng không có. Xe càng lúc lắc,
vết thương tôi bị động, máu cứ ri rỉ chảy ra, tôi mệt lã người.
Bình
thường xe chỉ đi mất hai ngày một đêm, nhưng chuyến đi này mất một tuần
lễ. Một tuần lễ mệt nhọc, mẹ tôi phải bồng ẵm, đút cho tôi từng muỗng
cháo, muỗng nước, đỡ tôi đi cầu, đi tiểu. Xe tải thì cao mẹ già thì yếu
nên có lúc tôi phải nhờ một số khách đồng hành phụ giúp đỡ tôi lên xuống
xe. Nhớ mãi là thịnh tình của chị Bùi Thị Cẩm, người đã đắc lực giúp mẹ
tôi chăm sóc tôi suốt đoạn đường dài. Lúc này toàn thân tôi hoàn toàn
bị băng bó, trông giống như một xác chết đã lịm rồi. Sau chuyến đi này
tôi không gặp lại chị Cẩm nữa, không biết bây giờ chị ở đâu. Tôi nguyện
nếu ngày nào gặp lại chị Cẩm tôi sẽ làm hết sức để tạ ơn chị những ngày
đã qua. Tôi chỉ biết chị quê ở Quảng Ngãi về tìm cha là một quân nhân
như tôi.
Vừa đặt chân đến làng quê là bà con lối xóm giúp tôi đi
trình diện ủy ban quân quản địa phương ngay. Người ta cho tôi về nhà
điều trị vết thương nhưng mỗi sáng thứ bảy phải đến trình diện một lần.
Độ hai tuần sau, tôi được lệnh tập trung "học tập cải tạo" tại chỗ trong
thời gian 17 ngày. Tội nghiệp cho thân già mẹ tôi, suốt đời tần tảo
nuôi con ăn học những mong lớn khôn đặng nhờ tuổi già. Nào ngờ giờ đây
bà phải tất bật sớm hôm gánh gồng đôi thúng ra chợ bán buôn nuôi con tật
nguyền. Thấm thoát một tháng trôi qua, vết thương tôi cũng khô lành
dần. Hai tay tôi lành trước, kế là đầu và mắt, tiếp theo là khúc chân
trái và sau cùng khúc chân phải. Quả mìn thật quái ác, nó không sát hại
mạng người mà chỉ gây thương tật. Ai may mắn lắm khi đạp phải nó chỉ bị
cụt một chân, thường thì cụt cả hai chân. Sức ép của nó không mạnh lắm,
chỉ những ai không may bị va vào vách đá hay thân cây thì mới bị chết.
Nhiều lúc tôi ước ao có lại đôi chân để ra đồng ngắm nhìn ruộng nương,
hoặc dạo mát trên những bờ đê như những ngày thơ ấu. Ước ao này không
bao giờ đến.
Bức xúc với hoàn cảnh mới, tôi mở lớp dạy kèm và
dạy vẽ chân dung cho trẻ em trong xóm để phụ giúp mẹ tôi. Nhưng dạy kèm
trong thời buổi này thật là khó khăn, không phải vì thiếu vắng học trò
mà là phải có giấy phép của ty thông tin văn hóa. Tôi bị mời lên, mời
xuống nhiều lần về việc này. Cuối cùng tôi phải nghỉ dạy chữ mà chỉ dạy
vẽ chân dung và nhận hình họa, cuộc sống cũng tạm ổn định.
Thấy
tôi bị thương tật mà vẫn còn minh mẫn, một gia đình hàng xóm có người
con gái muốn gả cho tôi. Thế là tôi lập gia đình năm 1977, đó không
những là niềm mơ ước của riêng tôi mà còn là ước muốn của mẹ tôi nữa, vì
tôi là con trai độc nhất. Quan niệm phong kiến mà. Tôi là con một,
nhưng bà lại thích con đàn cháu đống. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ tôi vui
sướng như lúc này, điều này càng làm hai vợ chồng tôi thêm hạnh phúc nên
sinh cho bà bốn trai, một gái. Nhưng chính con đàn cháu đống này đã làm
hại tôi, thân tàn ma dại mà con đông quá chỉ có nghèo nàn và dốt nát.
Biết suy nghĩ thì việc đã rồi. Đến năm 1987, vợ tôi phải triệt sản gấp.
Cuộc sống trở nên khó khăn, chỗ vợ tôi bán chè bị cấm, mẹ tôi lại đau ốm
thường xuyên. Đã thiếu ăn còn lo chạy thuốc, nợ nần mỗi ngày mỗi chồng
chất. Thế là cuộc đời đi vào bế tắc.
Năm 1989, vì kế mưu sinh
cho gia đình, tôi phải liều mạng đưa cả nhà vào Nam sinh sống. Sài Gòn
đúng là miền Đất Hứa. Thuê được nhà xong, vợ và các con tôi đi bán vé
số, còn tôi ở nhà lo cơm nước, giặt giũ áo quần. Lạ đất lạ người, vợ và
các con bị người ta lừa hết vé số, mất hết vốn. Không đủ tiền trả tiền
thuê nhà, tiền điện tiền nước, gia đình tôi đành phải tạm ra sống bụi
đời ở bến xe Gia Định (nay là Văn Thánh). Cả nhà che tấm ny lông ra ngủ
ban đêm, ban ngày phải cất xuống nếu không thì sẽ bị phạt về tội làm mất
mỹ quan thành phố. Tôi tìm được một chỗ che dù bán trà đá, còn vợ và
các con vẫn tiếp tục đi bán "may rủi". Con cái đều thất học, chúng không
những đói cơm mà còn đói cả chữ. Sống chung với bọn du thủ du thực,
cướp bóc tại bến xe lòng tôi không yên chút nào. Nhiều đêm cả nhà phải
ngồi bó gối chờ trời dứt cơn mưa, những trận mưa xối xả hất tung cả lều,
ướt cả chỗ nằm… Lắm khi sáng ra, quần áo, đồ đạc, nồi niêu bị chúng nó
"cuỗm" đi mất. Nhiều lúc nghĩ lại giai đoạn ấy thấy kinh hồn khiếp vía.
Thời
gian sau tôi lại đi xin được một chỗ ở tạm dưới mái hiên một người mới
quen. Người này giới thiệu cho tôi đi dạy kèm. Vợ tôi thì mở quán cóc
bán thức ăn bên đường. Dần dà cuộc sống tạm ổn định lại, tôi cho hai đứa
nhỏ đi học. Nhưng rồi thành phố phát triển theo nhu cầu đổi mới, chỗ
tôi ở bị chủ nhà đòi lại để xây dựng thêm. Thật là gian nan, tôi đâu có
tiền để thuê nhà khác. Cả nhà lại rời đi nơi khác, cuộc đời chúng tôi
không khác gì dân Do Thái, cứ bị xua đuổi liên miên, không biết đâu là
nhà.
Năm 1994, gia đình tôi lại trôi giạt từ Sài Gòn về làng
Phước Bình vì có người giới thiệu bán cho một căn nhà lá rẻ tiền trên
nghĩa địa, giá 12 chỉ vàng cho trả góp. Vì quá sốt ruột tìm chỗ che mưa
trú nắng cho vợ cho con, "một liều ba bảy cũng liều cầm bằng như trẻ
chơi diều đứt dây" tôi tự nhủ với lòng mình như vậy, tôi nhắm mắt đưa
chân về khu nghĩa địa này. Vợ con tôi không đi bán vé số dạo nữa vì dân
cư nơi đây quá nghèo, lại thưa thớt nên bắt đầu làm quen với môi trường
sống mới. Hàng ngày cả nhà đi làm mướn, kể cả ở đợ, bưng phở cho quán
ăn, tối về nhà ngủ. Tôi cố gắng đi xin việc làm. Thật là đau đớn, nhiều
chỗ nói thẳng vào mặt tôi: "Què cụt mà làm được gì?". Tôi cảm thấy tủi
thân, mắt lại cay cay, vội quay mặt trốn đi.
Mãi mấy tháng sau
tôi được vào làm ở một sở sản xuất hàng gỗ mỹ nghệ xuất khẩu, khâu chà
nhám và pha màu. Trong thời gian làm việc tôi mắc bệnh trỉ, sa hậu môn
nặng, ra máu nhiều nên phải nghỉ làm. Chẳng bao lâu sau, cơ sở này cũng
đóng cửa vì không có hợp đồng. Sống ở khu nghĩa địa này, ngoài cái lo
đói rét, bệnh tật, còn nỗi kinh hoàng khác là vợ và các con tôi luôn
luôn sợ hãi, vì nhìn đâu cũng thấy mồ mả. Đúng là người sống ở chung với
người chết. Những đêm mưa sấm lập lòe, những trưa nắng gắt, khu nghĩa
địa này bốc lên một mùi hôi thối lợm người. Nếu ở mãi với cảnh này, tâm
sinh lý các con tôi sẽ bị khủng hoảng nặng. Biết vậy nhưng biết làm sao
hơn, "lực bất tòng tâm" là vậy. Có người hỏi tôi sao giỏi chịu đựng vậy?
Phi thường quá, bản lãnh quá. Xin thưa là "quân tử cố cùng".
Rồi
tai họa giáng xuống cho tôi. Mẹ tôi ngoài quê qua đời. Khi tôi đi, bà
chị tôi xin nhận phụng dưỡng mẹ già. Nhận được điện tín mẹ mất mà không
có tiền mua vé xe về quê chịu tang mẹ, thật là buồn tủi. Vợ tôi thương
tình đã phải chạy lại tìm người quen vay. Năm lần, bảy lượt mới vay được
một ít tiền làm lộ phí. Đau khổ làm sao, đường sá xa xôi ba ngày sau
tôi mới về tới. Ngoài quê nghèo khó quá nên xác mẹ tôi không để lâu nên
tôi không được nhìn mặt mẹ lần cuối cùng. Mẹ tôi đã mất một phần vì sức
yếu, bệnh đau không có thuốc, một phần vì đói nghèo và thương con tật
nguyền nên đã sớm tắt.
Hình như bất hạnh chưa buông tha tôi. Khu
nghĩa địa nơi chúng tôi cư trú được lệnh giải tỏa. Ruột gan tôi rối
bời. Buồn quá, biết ở đâu bây giờ, tiền nhà ở đây cũng chưa trả hết.
Công ăn việc làm của vợ con ngày càng bấp bênh, ban quản lý chợ và đội
truy quét đường phố đuổi chạy suốt ngày, không bị tịch thu bàn ghế, nồi
niêu chén bát là may rồi. May thì có may nhưng đói thì vẫn đói. Quán cơm
bình dân đó đã nuôi sống gia đình tôi từ bấy lâu nay, bây giờ cứ lo
chạy trốn thì cả nhà lấy gì mà ăn. Thêm vào đó, chúng tôi còn phải lo
nuôi mẹ vợ hay bị đau ốm và em trai vợ bị bệnh tâm thần. Gánh gia đình
đã nặng nay càng nặng thêm. Lúc này tôi khủng hoảng vô cùng. Rồi một
phép lạ chợt đến.
Tôi được bạn bè, cũng là thương phế binh cho
biết hiện nay ở hải ngoại có nhiều mạnh thường quân đang phát động
chương trình cứu trợ thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Tôi liền kính
thư gởi đi khắp nơi. Thật là may mắn, đúng như lời thánh kinh: tìm thì
gặp, xin thì cho, gõ thì mở. Một số mạnh thường quân đã nghe tiếng gõ,
mở rộng cửa lòng ban cho chúng tôi quà tiền. Nhờ vậy, tinh thần tôi đỡ
căng thẳng, nhất là có người thương tình bán cho một chỗ đất trả góp.
Tôi cảm thấy lòng mình thật bình an và tràn đầy hạnh phước. Đến cuối năm
1996, tôi được một số anh em bạn bè cho vay không phải trả lãi nên đã
hoàn tất được một căn nhà nhỏ đủ che mưa trú nắng cho cả gia đình gồm 9
người. Tôi đã dọn về đây từ đầu năm 1997.
Mặc dầu nỗi đau vẫn
còn đây, gia đình chúng tôi và tập thể anh em thương phế binh thành kính
cảm tạ thịnh tình của những hội cứu trợ, hội thiện nguyện, hội nhân
đạo, hội cựu quân nhân, những mạnh thường quân, những con người luôn
sống theo mệnh lệnh của trái tim tại Pháp, Mỹ, Úc, Canada, Tân Tay Lan,
Đức… Để tỏ lòng tri ân đối với những con người có tấm lòng vàng này, tôi
xin đại diện tập thể anh em thương phế binh trân trọng cảm ơn những tập
thể, những cá nhân, những chiến hữu vô danh (dấu tên) đã hy sinh tiền
của, công sức, tâm huyết mình trong thời gian qua, ngay trong hiện tại
và cả tương lai nữa cho tập thể thương phế binh ở quê nhà.
* * *
Sau
đây là danh sách tham khảo của đa số anh em thương phế binh đã nhận
tiền và phẩm vật trong suốt thời gian qua. Cá nhân tôi vì không thể gom
nhặt đầy đủ những tư liệu nên có thể thiếu sót, kính mong quý vị mạnh
thường quân, vốn đã giàu lòng từ ái, niệm tình tha thứ cho. Chúng tôi
xin ghi ân quí vị ân nhân ở khắp năm châu bốn bể như sau:
Ở Pháp:
–
Bác sĩ Phan Minh Hiển, người đã năng nổ đóng góp trong công tác thiện
nguyện rất nhiều. Năm 1986, ông đã thành lập Hội Médecins du Vietnam
cùng với một số bác sĩ Việt Nam thiện chí để giúp các thuyền nhân trên
Biển Đông. Từ năm 1992, hội hoạt động thêm ở quốc nội: mở một số chẩn y
viện, cấp học bổng cho các em học sinh nghèo, mở nhiều lớp học tình
thương cho trẻ em mồ côi, bụi đời, giúp nạng và xe lăn cho người tàn
tật, phong cùi. Năm 1994, ông thành lập lập Hội Giúp Đỡ Những Người Tàn
Tật Vì Chiến Tranh để đánh động dư luận cộng đồng Việt Nam hải ngoại về
thảm trạng của những phế binh không nuôi sống được bản thân và gia đình.
Anh em thương phế binh ở đây hầu như ai cũng nhận được tiền cứu giúp
của bác sĩ Hiển từ năm 1994 đến 1997. Có anh mỗi năm nhận được hai lần,
mỗi lần ít nhất 300 ngàn đến một triệu đồng Việt Nam.
Về sau, bác sĩ
Hiển đã giúp chúng tôi bằng cách giới thiệu cho các nhà mạnh thường
quân có lòng từ tâm trực tiếp gởi cho từng cá nhân thương phế binh và
hiện nay ông cũng đang vận động gây quỹ để tiếp tục giúp đỡ những anh em
thương phế binh chưa được trợ cấp bên nhà. Lúc trước cùng cộng tác với
ông có bác sĩ Trần Quang Lộc và ông Nguyễn Quang Hạnh.
– Giáo sư
Lương Thị Nga, người đã đứng ra vận động bênh vực cho quyền lợi anh em
thương phế binh ở Việt Nam rất lớn. Bà đã cưu mang, giúp đỡ tiền bạc cho
nhiều thương phế binh.
Nhưng người chúng tôi mang ơn nhiều nhất là
nhà báo Nguyễn Văn Huy ở Paris, mặc dù chưa bao giờ được dịp liên lạc
trực tiếp với anh. Những bài viết của anh đã gây xúc động lòng người và
làm phong trào cứu trợ thương phế binh trong nước có được tầm vóc như
ngày nay. Ơn này chúng tôi không bao giờ quên.
Ở Mỹ:
– Hội
Huynh Đệ Chi Binh của ông Lê Đình Vọng ở San José. Ông cũng đã giúp đỡ
cho một số anh em thương phế binh ở Sài Gòn mỗi người 50 USD. Hiện nay
ông vẫn tiếp tục công tác từ thiện này. Anh em chúng tôi cũng đang trông
chờ ở ông lắm đấy.
– Ngoài ra, còn có một hội – tên gì anh em chúng
tôi không rõ lắm, có lúc ghi là bác Tổng, có lúc là bác Cả tặng – nhưng
cứ mỗi năm một lần gởi tặng một số anh em mỗi người 50 USD, mỗi lần
giúp chừng 20-30 người. Xin có lời chân thành cảm tạ.
(Ghi chú: đây
là Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức và Nam Định ở San José do cựu đại
tá Ngô Thế Linh và ông Cao Thiện Chánh điều hành)
– Gia đình Mũ Đỏ ở San José, tổng thư ký Hải Âu và mạnh thường quân giúp đỡ.
–
Bà Hoàng Minh Thúy (tạp chí Xây Dựng, Texas). Bà đã giúp đỡ các anh em
thương phế binh thuộc miền Nam, Sài Gòn. Mỗi anh em tệ nhất cũng nhận
được của bà một hai đợt tiền, mỗi đợt là 50 USD từ năm 1994 đến nay. Bây
giờ chương trình trợ giúp của bà vẫn còn tiếp tục.
– Ông Ngô Văn
Tuyên, thành viên ban chấp hành Hội thiện nguyện HO (New Orleans, Mỹ),
đã giúp đỡ cho mỗi anh em 50 USD vào năm 1995.
– Ông Nguyễn Văn Quởn ở Houston đã giúp cho một số anh em thương phế binh mỗi người 50 USD.
–
Ông Vũ Trọng Mục, hội trưởng Hội Cứu Trợ Thương Phế Binh và Cô Nhi Quả
Phụ, bà Hạnh Nhân, hội phó (Santa Clara) đã và đang vận động cứu giúp
cho anh em thương phế binh và cô nhi quả phụ mỗi người 50 USD.
– Hai
bà Bích Huyền – Quỳnh Lưu (chồng là Phó Thịnh Việt) và quý ông Chu Tất
Tiến, ông Toàn, những con người thường xuyên quan tâm đến đời sống anh
em thương phế binh ở quê nhà bằng cách vận động trong chương trình phát
thanh "Tâm tình bạn gái" ở California, những tấm lòng vàng có tâm tình
nhường cơm xẻ áo cho anh em thương phế binh. Chính hai bà đã tiên phong
trong cuộc vận động này. Hai bà đã giúp cho một số thương phế binh mỗi
người 50 USD và có gởi tặng băng cassette "Tâm tình bạn gái".
Trong
chương trình này, phải nhắc đến bà Thủy ở Costa Mesa đã âm thầm giúp cho
một số anh em thương phế binh và số anh em này cũng đã kính thư cảm tạ
tấm lòng vàng của bà.
– Cô Võ Thị Mỹ Lan (Santa Clara) có giúp cho
một số anh em ở Sài Gòn – Thủ Đức mỗi người từ 50 đến 100 USD vào các
dịp lễ lạc và ngày Tết.
– Bà Trần Thị Mận ở Westminster có giúp cho một số anh em thương phế binh mỗi người 30 USD vào dịp Tết qua.
Ở Úc:
–
Đại tá Vũ Ngọc Hướng, hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Trung Ương. Ông đã thực hiện chuyến đi quanh Châu Âu và Hoa Kỳ đến ba
tháng, mục đích vận động các nước thành lập hội cựu quân nhân ngõ hầu có
điều kiện giúp đỡ các anh em thương phế binh ở quê nhà và tìm gặp các
chiến hữu cũ và các hội đoàn thiện nguyện vào năm 1996.
Hiện nay,
ông Phạm Văn Quát thay ông vì năm nay sức khỏe của ông có phần sa sút.
Tuy thế ông Hướng vẫn hết mình vận động bênh vực quyền lợi, giúp đỡ anh
em thương phế binh trong nước. Ngoài ra trong ban chấp hành hội gồm có
ông Nguyễn Dân Cường, phó chủ tịch nội vụ, chiến hữu Lê Văn Thắng phó
chủ tịch, Tạ Quang Hải, phó chủ tịch nguyên vụ kiêm chủ tịch chi hội
KSL.
– Các anh Nguyễn Cảnh Tân, Đặng Văn Đạt cùng các anh trong Gia
Đình Mũ Đỏ ở Úc. Anh Lê Minh Phó, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Văn Rạng,
Phùng Hoàng Tuyết, Trương Đăng Sĩ, Trần Văn Đức, đã giúp cho một số anh
em thương phế binh mỗi người 100 Úc kim.
Ở Canada:
– Ông
Dương Ngọc Hướng (Ottawa) thành lập Quỹ Yểm Trợ Người Khuyết Tật có giúp
cho anh em thương phế binh mỗi người từ 50 USD đến 100 USD. Ông cũng
giúp đỡ xe lăn và tiền bạc ở khu vực miền Trung: Quảng Nam- Đà Nẵng.
Xin có lời cảm tạ Gia Đình Mũ Đỏ Canada.
–
Hội Viet Can Philanthropy Foundation do ông Nguyễn Cao Cảo, Phạm Kim
Hưng, Đỗ Quang Trọng (đại diện), cùng các bác sĩ, kỹ sư, nhà doanh
nghiệp, thương gia, nhà hảo tâm, những vị mạnh thường quân giúp cho một
số thương phế binh nặng mỗi người 300 CAD. Hiện nay hội vẫn tiếp tục làm
việc để tiếp tục giải quyết số hồ sơ của thương phế binh chưa được
giúp.
– Ông Nguyễn Hữu Lương (Québec) có giúp cho một số anh em thương phế binh ở Sài Gòn mỗi người 50 USD.
Ở
Đức có bác sĩ Bùi Văn Nghiệm. Vào cuối năm 1995 ông có giúp cho một số
thương phế binh mỗi người 50 DEM. Ông có nhã ý giúp cho anh em thương
phế binh tự tạo cuộc sống lâu dài.
Ở Tân Tây Lan (New Zealand),
vào tháng 5-1997 anh Lê Quang Long đại diện có giúp cho một số thương
phế binh ở Sài Gòn và Thủ Đức mỗi người 500 ngàn đồng Việt Nam (50 USD).
Ngoài ra tôi có ba vị ân nhân tôi không thể nào quên đó là ông Bách, bà
Hồ Bích Vân và ông Nguyễn Công Thành ở Mỹ. Xin chân thành ghi lòng tạc
dạ quí vị ân nhân kính ái.
Theo lời bác sĩ Phan Minh Hiển, cộng
đồng người Việt hải ngoại đã quyên góp hơn 500 ngàn USD gởi về giúp
thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa trong suốt 5 năm qua.
* * *
Tôi
còn biết, ngoài việc cứu trợ các anh em thương phế binh như chúng tôi,
quý ân nhân và hội đoàn thiện người Việt hải ngoại còn ưu ái giúp đỡ một
số đồng bào bất hạnh khác trong nước nhà qua các tu sĩ hai tôn giáo lớn
tại Việt Nam, Công giáo và Phật giáo. Công đức này Trời cao sẽ đền đáp
xứng đáng. Chúng tôi, những con người trần thế không toàn vẹn thân thể,
chỉ ghi nhận nơi tấm lòng vàng của quý ân nhân và cầu nguyện cho chương
trình cứu trợ được lâu bền.
Chính việc làm bằng con tim và khối
óc nhân ái của tất cả quý vị ở hải ngoại đó đã đem đến cho tất cả tập
thể thương phế binh chúng tôi hơi thở của sự sống, hàn gắn được nhiều
rạn nứt, đổ vỡ, cứu được nhiều gia đình có cơm ăn, áo mặc, con cái học
hành và có cơ hội chữa lành được bệnh tật và nhất là đã an ủi, khích lệ
chúng tôi về đời sống tinh thần rất lớn lao và đầy ý nghĩa, khiến anh em
chúng tôi sống cuộc sống vui thỏa, bình an và quên đi phần nào nỗi đơn
độc trong cuộc sống đầy đau thương và bất hạnh này.
Mong ngày
càng có nhiều hơn những con người, những tấm lòng nhân hậu, biết thương
xót anh em, đồng loại, đang vô cùng cơ cực, chết dở sống dở, chờ mong sự
giúp đỡ của tất cả quý vị từng ngày từng giờ hầu sống nốt những ngày
của quãng đời còn lại. Chúng tôi nguyện ghi lòng tạc dạ.
Dẫu mai
đây có qua đời, chúng tôi cũng lấy làm mãn nguyện mà ngậm cười nơi chín
suối. Xin mượn những trang giấy này làm bia lòng, bia miệng ghi tạc
những quả tim nhân ái luôn tha thiết hướng về những nỗi đau thương của
đồng loại, trên tinh thần "lá lành đùm lá rách", "thương người như thể
thương thân".
Hy vọng sợi dây thân ái giữa trong và ngoài nước
ngày càng thắt chặt và đất nước này sẽ vươn lên. Hy vọng quê hương rộn
lại tiếng chim, nụ cười nở rộ trên môi trẻ thơ và các cụ già vui sướng
nhìn đàn con cháu khôn ngoan nên người. Hy vọng mọi người chia sẻ niềm
hãnh diện là người Việt Nam.
(còn tiếp)