"Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả, cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về sau." President Ronald Reagan
Mẹ
tôi chỉ là một thư ký cho một công sở ở Sài Gòn trước năm 1975. Vào cái
trưa ngày 30/04/1975, khi biết chắc miền Nam đã thất thủ và bọn giặc
cướp cộng phỉ đang từ từ tiến vô Sài Gòn, Mẹ tôi lặng lẽ mở tủ lấy lá Cờ
Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, bỏ vô chiếc thau đồng vẫn thường để đốt
vàng bạc trong các dịp cúng giỗ trong gia đình, rồi đem xuống bếp, thắp
ba cây nhang lâm râm khấn vái trước khi châm lửa đốt.
Lúc
đó, chúng tôi cũng biết việc cất giữ những gì thuộc về chế độ cũ sẽ
mang tới tai hoạ cho gia đình, huống chi là lá Cờ Quốc Gia, nên Mẹ tôi
phải đốt đi; nhưng những điều mà Mẹ tôi giải thích sau đó về việc khấn
vái trước khi đốt lá cờ mang một ý nghĩa khác hơn mà suốt đời tôi không
quên được. Mẹ tôi nói:
«Biết
bao nhiêu anh Chiến Sĩ Quốc Gia đã chết dưới lá cờ ni, chừ vì thời thế
mà mình phải đốt đi, mình cũng phải xin phép người ta một tiếng!».
Thế
rồi, những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản man rợ bắt đầu đến với
người dân miền Nam. Như bao nhiêu gia đình khác, gia đình tôi ngơ ngác,
bàng hoàng qua những chiến dịch, chính sách liên tiếp của bọn Việt cộng;
hết “chiến dịch đổi tiền”, “chính sách lương thực, hộ khẩu”, đến “chính
sách học tập cải tạo đối với nguỵ quân, nguỵ quyền”, “chiến dịch đánh
tư sản mại bản”, «chính sách kinh tế mới » … và nhiều nữa không thể nào
kể hết.
Ai
nói lũ cộng phỉ ngu ngốc, chứ riêng tôi thì thấy bọn chúng chỉ là một
loài vô đạo đức, vô học, vô nhân cách và kém văn hoá, kỹ thuật; chứ thủ
đoạn chính trị thì thật thâm hiểm, lưu manh, gian trá, quỷ quyệt, tráo
trở, lật lọng! Chính sách nào của lũ cộng phỉ cũng cốt là để làm cho
người dân miền Nam khốn đốn, kiệt quệ, nghèo đói, dìm sâu con người miền
Nam xuống đến tận bùn đen để không còn sức phản kháng lại bọn chúng.
Đầu
tiên là «chiến dịch đổi tiền», bọn chúng phát cho mỗi gia đình một số
tiền bằng nhau, như vậy mỗi gia đình đều nghèo như nhau, không ai có thể
giúp ai được. Để ăn cướp của người dân miền Nam, bọn chúng trắng trợn
và trâng tráo tuyên bố vàng, bạc, quý kim, đá quý là thuộc tài sản của
nhà nước, ai mua, bán, cất giữ thì bị tịch thu.
Kế
đến là «chính sách hộ khẩu», tức là mổi gia đình phải kê khai số người
trong gia đình để được mua lương thực (tức là gồm khoai, sắn và gạo mốc)
theo tiêu chuẩn, nghĩa là mỗi người (mà chúng gọi là «nhân khẩu») được
13 kg lương thực mổi tháng.
Bao
vây như vậy vẫn chưa đủ chặt, bọn cộng phỉ sau đó còn ban hành lệnh cấm
người dân mang gạo và các loại hoa màu khác từ vùng này sang vùng khác,
bất kể là buôn bán hay chỉ là để cho bà con, con cháu. Thành thử các
vùng thôn quê miền Nam (vốn dư thừa lúa gạo) mà lúc bấy giờ cũng không
thể đem cho bà con, con cháu ở thành phố; nhiều bà nội, ngoại phải giấu
gạo trong lon sữa guigoz để đem lên thành phố nuôi con cháu bị bệnh
hoạn, đau ốm…
Như
vậy là bọn chúng đã hình thành một cái chuồng gia-súc-người khổng lồ,
con vật-người nào ngoan ngoãn thì được cho ăn đủ để sống, con nào đi ra
khỏi cái chuồng đó thì chỉ có chết đói.
Chính
sách này của bọn chúng còn thâm hiểm và ác độc ở chỗ mà Miền Nam ngày
trước không có là không thể có cái việc «các má, các chị nuôi giấu cán
bộ giải phóng trong nhà» như lũ giặc cướp cộng phỉ đã đĩ miệng, phỉnh
phờ lừa gạt những người dân nhẹ dạ theo chúng trước đây.
Ba
tôi rồi cũng đi tù lao động khổ sai như bao nhiêu sĩ quan, công chức
Miền Nam khác, Mẹ tôi ở lại một mình phải nuôi bầy con nhỏ. Bây giờ mổi
khi hồi tưởng lại đoạn đời đã qua, tôi vẫn tự hỏi, nếu mình là mẹ mình
hồi đó, liệu mình có thể bươn chải một mình để vừa nuôi chồng trong tù,
vừa nuôi một đàn con dại như vậy không? Trong lòng tôi vẫn luôn có một
bông hồng cảm phục dành cho Mẹ tôi và những phụ nữ như Mẹ tôi đã đi qua
đoạn đời khắc nghiệt xưa đó.
Từ
một công chức cạo giấy Mẹ tôi trở thành “bà bán chợ trời” (bán các đồ
dùng trong nhà để mua gạo ăn), rồi sau khi kiếm được chút vốn đã “tiến
lên” thành một «bà bán vé số, thuốc lá lẻ» đầu đường.
Thời
đó, cái thời chi mà khốn khổ ! Mẹ tôi buôn bán được vài bữa thì phải
tạm nghỉ vì hễ khi có «chiến dịch làm sạch lòng, lề đường», bọn công an
đuổi bắt những người buôn bán vặt như Mẹ tôi, thì phải đợi qua “chiến
dịch” rồi mới ra buôn bán lại được. Có khi Mẹ tôi đẩy xe vô nhà sớm hơn
thường lệ, nằm thở dài, hỏi ra mới biết Mẹ tôi bị quân lưu manh lường
gạt, cụt hết vốn.
Thời
bấy giờ, do chính sách «bần cùng hoá nhân dân» của lũ giặc cướp cộng
phỉ miền bắc đã tạo ra những tên lưu manh, trộm cắp nhiều như nấm. Có
tên đến gạt Mẹ tôi đổi vé số trúng mà kỳ thật là vé số cạo sửa, vậy là
Mẹ tôi cụt vốn; có tên đến vờ hỏi mua nguyên một gói thuốc lá Jet (thời
đó người ta thường chỉ mua một, hai điếu thuốc lẻ, nên bán được nguyên
gói thuốc là mừng lắm), thế rồi hắn xé bao lấy một điếu, rồi giả bộ đổi
ý, trả gói thuốc lại, chỉ lấy một điếu thôi, vài ngày sau Mẹ tôi mới
biết là hắn đã tráo gói thuốc giả!
Một
buổi tối, tôi ra ngồi chờ để phụ Mẹ tôi đẩy xe thuốc vô nhà, thì có một
tên bộ đội, còn trẻ cỡ tuổi tôi, đội nón cối, mặc áo thun ba lỗ, quần
xà lỏn (chắc là đóng quân đâu gần đó) đến mua thuốc lá.
Hồi
đó, bọn bộ đội cộng phỉ, vốn bản chất xảo trá, quỷ quyệt cộng với cái
bản chất hèn hạ, nên thường che giấu không mang quân hàm, nên chẳng ai
biết lũ chúng là cấp bậc nào, chỉ đoán là tên nào trẻ, mặt mày ngố ngố
đần độn là lũ bộ đội thường, cấp nhỏ, tên nào người lùn tẹt, răng hô,
môi tím tái, da xanh bủng, mặt mày thâm hiểm, quắt queo, kinh tởm như
mặt loài chuột bẩn thỉu thì có thể là lũ công an hay chính trị viên…
Tên bộ đội hỏi mua 3 điếu thuốc Vàm Cỏ, rồi đưa ra tờ giấy một đồng đã rách chỉ còn hơn một nửa. Mẹ tôi nói:
«Anh đổi cho tờ bạc khác, tờ ni rách rồi, người ta không ăn».
Tên bộ đội trẻ măng bỗng đổi sắc mặt, cao giọng lạnh lùng:
«Chúng tôi chưa tuyên bố là tiền này không tiêu được!».
À,
thì ra những thằng oắt con cộng phỉ rừng rú, lếu láo, vô học và vô nhân
cách này cũng biết lên giọng của kẻ chiến thắng (nhờ cúi đầu làm tay
sai đánh thuê cho bọn ngoại bang Trung Cộng – Liên Xô), giọng của kẻ
nhân danh một chính quyền ! Lúc này, tôi mới sực thấy cái quần xà lỏn
màu vàng mà tên thổ phỉ rừng rú này đang mặc được may bằng lá Cờ Vàng Ba
Sọc Đỏ !
Mẹ
tôi lẳng lặng lấy tờ tiền rách và đưa cho hắn 3 điếu thuốc. Khi hắn đã
đi xa, Mẹ tôi vò tờ bạc vất xuống cống và nói nhỏ đủ cho tôi nghe:
«Thôi
kệ, một đồng bạc, cãi lẫy làm chi cho mệt! Thí cho bọn cô hồn ăn cướp
đó đi ! Hắn mặc cái quần… làm chi rứa, thắng trận rồi thì thôi, sỉ nhục
người ta làm chi nữa, con hỉ?».
Thì
ra Mẹ tôi cũng đã nhận ra cái quần hắn mặc may bằng lá Cờ Vàng Quốc Gia
và điều mà Mẹ tôi quan tâm nhiều hơn là lá cờ, chứ không phải tờ bạc
rách!
Khi
bọn cộng phỉ mới chiếm Miền Nam, nhiều người vẫn tưởng bọn cộng phỉ
cũng là người Việt, không lẽ họ lại đày đoạ đồng bào. Nhưng sau nhiều
năm tháng sống dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu ra rằng bọn cộng phỉ xem
dân Miền Nam như kẻ thù muôn kiếp, bọn chúng tự cho bọn chúng là phe
chiến thắng «vẻ vang» và có quyền cai trị tuyệt đối đám dân xem như
không cùng chủng tộc này.
Một
hôm, đang ngồi bán thuốc lá, Mẹ tôi tất tả vô nhà, kêu đứa em tôi ra
ngồi bán để mẹ đi có việc gì đó. Một lúc sau Mẹ tôi trở về và kể cho
chúng tôi một câu chuyện thật ngộ nghĩnh. Mẹ kể:
«Mẹ
đang ngồi ngoài đó thì nghe mấy bà rủ nhau chạy đi coi người ta treo Cờ
Quốc Gia trên ngọn cây. Té ra không phải, có cái bao ny-lông màu vàng
có dãi đỏ, chắc là gió thổi mắc tuốt trên ngọn cây cao lắm, người ta
tưởng là Cờ Vàng Quốc Gia. Mà lạ lắm con, có con chó nó cứ dòm lên cây
mà sủa ra vẻ mừng rỡ lắm, rứa mới lạ, chắc là điềm trời rồi !».
Mẹ tôi là vậy đó, bà hay tin dị đoan, nhưng chính ra là Mẹ tôi nhìn mọi việc bằng tình cảm trong lòng mình.
Thời
gian trôi mãi không ngừng… Cuối cùng rồi Ba tôi cũng may mắn sống sót
trở về sau gần 10 năm trong lao tù khổ sai cộng sản, Mẹ tôi vẫn bán
thuốc lá lẻ, chúng tôi sau nhiều lần bị đánh rớt Đại Học, đành phải tìm
việc vặt vãnh để kiếm sống.
Đôi
khi tôi tự hỏi, cuộc đời mình sẽ ra sao, liệu mình có thể có một mái
gia đình, vợ con như bao người khác không trong khi mà cả gia đình mình
không hề thấy một con đường nào trước mặt để vươn lên, để sinh sống với
mức trung bình!? «Mọi người sinh ra đều bình đẳng… và ai cũng được quyền
mưu cầu hạnh phúc…»
Câu
ấy nghe có vẻ hiển nhiên và dễ dàng quá; nhưng phải sống dưới chế độ
cộng sản, việc gì cũng bị truy xét lý lịch đến ba đời, mới thấm thía ý
nghĩa và hiểu được vì sao người ta dùng câu ấy để mở đầu cho bản Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bất hủ.
Một
ngày khoảng đầu năm 1990, bọn công an phường đến đưa cho Ba tôi một tờ
giấy có tiêu đề và đóng dấu của công an thành phố, nội dung vỏn vẹn “đến
làm việc”. Gia đình tôi lo sợ là Ba tôi sẽ bị bắt vô tù lại, Ba tôi thì
lẳng lặng mặc áo ra đi, hình như các ông sĩ quan đi tù khổ sai của bọn
cộng phỉ về đều trở thành triết gia, bình thản chấp nhận thực tại. Hay
là thân phận của con cá nằm trên thớt, thôi thì muốn băm vằm gì tuỳ ý.
Rồi
Ba tôi về nhà với một tin vui mà cả nhà tôi có nằm mơ cũng không thấy
được, bọn công an thành phố kêu Ba tôi về làm đơn nộp cho Sở Ngoại Vụ vì
gia đình tôi đã được cho đi định cư ở Hoa Kỳ! Thật không sao kể xiết
nỗi vui mừng của gia đình tôi với tin này, đang từ một cuộc sống tuyệt
vọng nơi quê nhà mà nay được ra đi đến một quốc gia tự do, giàu mạnh
nhất thế giới!
Những
ngày sau đó lại cũng là Mẹ tôi đi vay mượn, bán những món đồ cuối cùng
trong nhà chỉ để có tiền làm bản sao photocopy các giấy tờ “Ra Trại” của
Ba tôi, khai sinh của chúng tôi, đóng tiền cho “Dịch Vụ”… để làm thủ
tục xuất cảnh.
Chỉ
khoảng 6 tháng sau là gia đình tôi lên máy bay để bay qua trại chuyển
tiếp bên Thái Lan. Tôi lên máy bay, ngồi nhìn xuống phi trường Tân Sơn
Nhứt dưới kia mà nước mắt cứ trào ra không ngăn được.
Thế
là hết, đất nước này của tôi, thành phố Sài Gòn này của tôi, nơi mà tôi
sinh ra và lớn lên, một lát nữa đây sẽ vĩnh viễn rời xa, bao nhiêu vui
buồn ở đây, mai sau chỉ còn trong kỷ niệm! Tôi quay lại nhìn thấy Ba tôi
mặt không lộ vẻ vui buồn gì cả, còn Mẹ tôi thì nhắm mắt như đang cầu
nguyện và Mẹ tôi cứ nhắm mắt như thế trong suốt chuyến bay cho đến khi
đặt chân xuống Thái Lan, Mẹ tôi mới nói:
“Bây giờ mới tin là mình thoát rồi!”.
Sau
khoảng 3 tuần ở Thái Lan, gia đình chúng tôi lên máy bay qua Nhật, rồi
đổi máy bay, bay đến San Francisco, California, Hoa Kỳ.
Ngày
đầu tiên đến Mỹ được người bà con chở đi siêu thị của người Việt, thấy
lá cờ Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới trên mái nhà, Mẹ tôi nói:
«Úi chao, lâu lắm mình mới thấy lại lá cờ ni, cái Lá Cờ Quốc Gia VNCH của mình răng mà hắn hiền lành, dễ thương hí?»
Rồi Mẹ kêu tôi đi hỏi mua cho mẹ một lá Cờ Quốc Gia VNCH bằng vải, đem về cất vào ngăn trên trong tủ thờ.
Chúng
tôi dần dần ổn định cuộc sống, cả nhà đều ghi tên học College, Mẹ tôi
cũng đi học College nữa và xem ra bà rất hứng thú với các lớp ESL
(English as a Second Language); đặc biệt là các lớp có viết essays (luận
văn).
Mẹ
tôi viết luận văn rất ngộ nghĩnh, thí dụ đề tài là «Bạn hãy nói các
điểm giống nhau và khác nhau của một sự việc gì đó giữa nước Mỹ và nước
của bạn» thì Mẹ tôi lại viết về lá Cờ Quốc Gia. Ý Mẹ tôi (mà chắc chỉ có
mình tôi hiểu được) là nước Việt Nam có đến hai lá cờ khác nhau với hai
chế độ tương phản nhau mà người Mỹ thời này hay ngộ nhận cờ Việt Nam là
cờ đỏ sao vàng của Việt cộng; trong khi lá cờ đó không phải là lá cờ
thiêng liêng của người Việt tại Mỹ.
Rải
rác trong suốt bài luận văn dài tràng giang đại hải của Mẹ tôi là những
mẩu chuyện thật mà Mẹ tôi đã trải qua suốt thời gian sống dưới chế độ
cộng phỉ man rợ. Mẹ tôi kể là mẹ thấy bà giáo Mỹ đọc say mê (tôi nghĩ có
lẽ là bà giáo Mỹ sống ở nước tự do, dân chủ không thể ngờ là có những
chuyện chà đạp, bức hiếp con người như thế dưới chế độ cộng sản tàn ác
và man rợ).
Khi
bài được trả lại, tôi cầm bài luận của Mẹ tôi xem thì thấy bà giáo phê
chi chít ngoài lề không biết bao nhiêu là chữ đỏ: «interesting!»,
«Narrative», «I can’t believe it!”… . và cuối cùng bà cho một điểm “D”
vì… lạc đề!
Cuộc
sống chúng tôi dần dần ổn định, vô Đại Học, lấy được bằng cấp, chứng
chỉ, rồi đi làm, cuộc sống theo tôi như thế là quá hạnh phúc rồi.
Dạo
đó, có anh chàng Trần Trường nào đó ở miền Nam California, tự nhiên giở
chứng đem treo lá cờ đỏ sao vàng bẩn thỉu kinh tởm của bọn cộng phỉ
trong tiệm băng nhạc của anh ta làm cho người Việt quanh vùng nổi giận,
Đồng
bào tỵ nạn đã đem cả ngàn Lá Cờ Quốc Gia, Nền Vàng Ba Sọc Đỏ đến biểu
tình trước tiệm anh ta suốt mấy ngày đêm. Mẹ tôi ngồi chăm chú xem trên
truyền hình và nói với tôi:
“Tinh thần của người ta còn cao lắm chớ, mai mốt đây mà về thì phải biết!”
Ý
Mẹ tôi nói là sau này khi không còn cộng sản ở Việt Nam nữa thì chắc
đồng bào sẽ hân hoan trở về treo lên cả rừng Cờ Quốc Gia chớ không phải
chỉ chừng này đâu.
Thời
gian trôi nhanh quá, chúng tôi đã xa quê hương gần 20 năm, Việt cộng
vẫn còn đó, vẫn cai trị đất nước tôi. Sau này do chúng tôi, kể cả cha
chúng tôi nữa, đều học xong và ra đi làm, không ai có thể chở Mẹ tôi đi
học ESL nữa nên Mẹ tôi phải ở nhà thui thủi một mình, buồn lắm. Có lần
tôi hỏi mẹ có muốn về Việt Nam một chuyến để thăm bà con lần cuối không,
Mẹ tôi nói:
“Không, về làm chi, rồi mình nhớ lại cảnh cũ, mình thêm buồn; khi mô mà hoà bình rồi thì mẹ mới về!”
Ý mẹ nói “hoà bình” nghĩa là khi không còn cộng sản nữa.
Rồi
Mẹ tôi bệnh, đưa vô nhà thương, bác sĩ chẩn đoán Mẹ tôi bị ung thư
phổi, cho về nhà để Hospice Care đến chăm sóc (Hospice là các tổ chức
thiện nguyện ở khắp nước Mỹ, nhiệm vụ của họ là cung cấp phương tiện,
thuốc men miễn phí nhằm giảm nhẹ đau đớn cho những người bệnh không còn
cứu chữa được nữa). Mẹ tôi mất không lâu sau đó. Mẹ nằm lại đất nước Mỹ
này và vĩnh viễn không còn nhìn thấy lại quê hương mình lần nào nữa.
Trong
lúc lục giấy tờ để làm khai tử cho mẹ, tôi tìm thấy chiếc ví nhỏ mà Mẹ
tôi vẫn thường dùng để đựng ít tiền và các giấy tờ tuỳ thân như thẻ an
sinh xã hội, thẻ căn cước… Trong một ngăn ví là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
bằng giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín dụng mà có lẽ Mẹ tôi đã cắt ra từ một
tờ báo nào đó.
Tôi
bồi hồi xúc động, thì ra Mẹ tôi vẫn giữ mãi lá Cờ Quốc Gia bên mình, có
lẽ lá Cờ Vàng hiền lành này đối với Mẹ tôi cũng thiêng liêng như linh
hồn của những người đã anh dũng chiến đấu và hy sinh để bảo vệ Tự Do,
Công Bằng và Bác Ái cho Miền Nam Việt Nam.
Mẹ
tôi chỉ là một thư ký cho một công sở ở Sài Gòn trước năm 1975. Vào cái
trưa ngày 30/04/1975, khi biết chắc miền Nam đã thất thủ và bọn giặc
cướp cộng phỉ đang từ từ tiến vô Sài Gòn, Mẹ tôi lặng lẽ mở tủ lấy lá Cờ
Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, bỏ vô chiếc thau đồng vẫn thường để đốt
vàng bạc trong các dịp cúng giỗ trong gia đình, rồi đem xuống bếp, thắp
ba cây nhang lâm râm khấn vái trước khi châm lửa đốt.
Lúc
đó, chúng tôi cũng biết việc cất giữ những gì thuộc về chế độ cũ sẽ
mang tới tai hoạ cho gia đình, huống chi là lá Cờ Quốc Gia, nên Mẹ tôi
phải đốt đi; nhưng những điều mà Mẹ tôi giải thích sau đó về việc khấn
vái trước khi đốt lá cờ mang một ý nghĩa khác hơn mà suốt đời tôi không
quên được. Mẹ tôi nói:
«Biết
bao nhiêu anh Chiến Sĩ Quốc Gia đã chết dưới lá cờ ni, chừ vì thời thế
mà mình phải đốt đi, mình cũng phải xin phép người ta một tiếng!».
Thế
rồi, những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản man rợ bắt đầu đến với
người dân miền Nam. Như bao nhiêu gia đình khác, gia đình tôi ngơ ngác,
bàng hoàng qua những chiến dịch, chính sách liên tiếp của bọn Việt cộng;
hết “chiến dịch đổi tiền”, “chính sách lương thực, hộ khẩu”, đến “chính
sách học tập cải tạo đối với nguỵ quân, nguỵ quyền”, “chiến dịch đánh
tư sản mại bản”, «chính sách kinh tế mới » … và nhiều nữa không thể nào
kể hết.
Ai
nói lũ cộng phỉ ngu ngốc, chứ riêng tôi thì thấy bọn chúng chỉ là một
loài vô đạo đức, vô học, vô nhân cách và kém văn hoá, kỹ thuật; chứ thủ
đoạn chính trị thì thật thâm hiểm, lưu manh, gian trá, quỷ quyệt, tráo
trở, lật lọng! Chính sách nào của lũ cộng phỉ cũng cốt là để làm cho
người dân miền Nam khốn đốn, kiệt quệ, nghèo đói, dìm sâu con người miền
Nam xuống đến tận bùn đen để không còn sức phản kháng lại bọn chúng.
Đầu
tiên là «chiến dịch đổi tiền», bọn chúng phát cho mỗi gia đình một số
tiền bằng nhau, như vậy mỗi gia đình đều nghèo như nhau, không ai có thể
giúp ai được. Để ăn cướp của người dân miền Nam, bọn chúng trắng trợn
và trâng tráo tuyên bố vàng, bạc, quý kim, đá quý là thuộc tài sản của
nhà nước, ai mua, bán, cất giữ thì bị tịch thu.
Kế
đến là «chính sách hộ khẩu», tức là mổi gia đình phải kê khai số người
trong gia đình để được mua lương thực (tức là gồm khoai, sắn và gạo mốc)
theo tiêu chuẩn, nghĩa là mỗi người (mà chúng gọi là «nhân khẩu») được
13 kg lương thực mổi tháng.
Bao
vây như vậy vẫn chưa đủ chặt, bọn cộng phỉ sau đó còn ban hành lệnh cấm
người dân mang gạo và các loại hoa màu khác từ vùng này sang vùng khác,
bất kể là buôn bán hay chỉ là để cho bà con, con cháu. Thành thử các
vùng thôn quê miền Nam (vốn dư thừa lúa gạo) mà lúc bấy giờ cũng không
thể đem cho bà con, con cháu ở thành phố; nhiều bà nội, ngoại phải giấu
gạo trong lon sữa guigoz để đem lên thành phố nuôi con cháu bị bệnh
hoạn, đau ốm…
Như
vậy là bọn chúng đã hình thành một cái chuồng gia-súc-người khổng lồ,
con vật-người nào ngoan ngoãn thì được cho ăn đủ để sống, con nào đi ra
khỏi cái chuồng đó thì chỉ có chết đói.
Chính
sách này của bọn chúng còn thâm hiểm và ác độc ở chỗ mà Miền Nam ngày
trước không có là không thể có cái việc «các má, các chị nuôi giấu cán
bộ giải phóng trong nhà» như lũ giặc cướp cộng phỉ đã đĩ miệng, phỉnh
phờ lừa gạt những người dân nhẹ dạ theo chúng trước đây.
Ba
tôi rồi cũng đi tù lao động khổ sai như bao nhiêu sĩ quan, công chức
Miền Nam khác, Mẹ tôi ở lại một mình phải nuôi bầy con nhỏ. Bây giờ mổi
khi hồi tưởng lại đoạn đời đã qua, tôi vẫn tự hỏi, nếu mình là mẹ mình
hồi đó, liệu mình có thể bươn chải một mình để vừa nuôi chồng trong tù,
vừa nuôi một đàn con dại như vậy không? Trong lòng tôi vẫn luôn có một
bông hồng cảm phục dành cho Mẹ tôi và những phụ nữ như Mẹ tôi đã đi qua
đoạn đời khắc nghiệt xưa đó.
Từ
một công chức cạo giấy Mẹ tôi trở thành “bà bán chợ trời” (bán các đồ
dùng trong nhà để mua gạo ăn), rồi sau khi kiếm được chút vốn đã “tiến
lên” thành một «bà bán vé số, thuốc lá lẻ» đầu đường.
Thời
đó, cái thời chi mà khốn khổ ! Mẹ tôi buôn bán được vài bữa thì phải
tạm nghỉ vì hễ khi có «chiến dịch làm sạch lòng, lề đường», bọn công an
đuổi bắt những người buôn bán vặt như Mẹ tôi, thì phải đợi qua “chiến
dịch” rồi mới ra buôn bán lại được. Có khi Mẹ tôi đẩy xe vô nhà sớm hơn
thường lệ, nằm thở dài, hỏi ra mới biết Mẹ tôi bị quân lưu manh lường
gạt, cụt hết vốn.
Thời
bấy giờ, do chính sách «bần cùng hoá nhân dân» của lũ giặc cướp cộng
phỉ miền bắc đã tạo ra những tên lưu manh, trộm cắp nhiều như nấm. Có
tên đến gạt Mẹ tôi đổi vé số trúng mà kỳ thật là vé số cạo sửa, vậy là
Mẹ tôi cụt vốn; có tên đến vờ hỏi mua nguyên một gói thuốc lá Jet (thời
đó người ta thường chỉ mua một, hai điếu thuốc lẻ, nên bán được nguyên
gói thuốc là mừng lắm), thế rồi hắn xé bao lấy một điếu, rồi giả bộ đổi
ý, trả gói thuốc lại, chỉ lấy một điếu thôi, vài ngày sau Mẹ tôi mới
biết là hắn đã tráo gói thuốc giả!
Một
buổi tối, tôi ra ngồi chờ để phụ Mẹ tôi đẩy xe thuốc vô nhà, thì có một
tên bộ đội, còn trẻ cỡ tuổi tôi, đội nón cối, mặc áo thun ba lỗ, quần
xà lỏn (chắc là đóng quân đâu gần đó) đến mua thuốc lá.
Hồi
đó, bọn bộ đội cộng phỉ, vốn bản chất xảo trá, quỷ quyệt cộng với cái
bản chất hèn hạ, nên thường che giấu không mang quân hàm, nên chẳng ai
biết lũ chúng là cấp bậc nào, chỉ đoán là tên nào trẻ, mặt mày ngố ngố
đần độn là lũ bộ đội thường, cấp nhỏ, tên nào người lùn tẹt, răng hô,
môi tím tái, da xanh bủng, mặt mày thâm hiểm, quắt queo, kinh tởm như
mặt loài chuột bẩn thỉu thì có thể là lũ công an hay chính trị viên…
Tên bộ đội hỏi mua 3 điếu thuốc Vàm Cỏ, rồi đưa ra tờ giấy một đồng đã rách chỉ còn hơn một nửa. Mẹ tôi nói:
«Anh đổi cho tờ bạc khác, tờ ni rách rồi, người ta không ăn».
Tên bộ đội trẻ măng bỗng đổi sắc mặt, cao giọng lạnh lùng:
«Chúng tôi chưa tuyên bố là tiền này không tiêu được!».
À,
thì ra những thằng oắt con cộng phỉ rừng rú, lếu láo, vô học và vô nhân
cách này cũng biết lên giọng của kẻ chiến thắng (nhờ cúi đầu làm tay
sai đánh thuê cho bọn ngoại bang Trung Cộng – Liên Xô), giọng của kẻ
nhân danh một chính quyền ! Lúc này, tôi mới sực thấy cái quần xà lỏn
màu vàng mà tên thổ phỉ rừng rú này đang mặc được may bằng lá Cờ Vàng Ba
Sọc Đỏ !
Mẹ
tôi lẳng lặng lấy tờ tiền rách và đưa cho hắn 3 điếu thuốc. Khi hắn đã
đi xa, Mẹ tôi vò tờ bạc vất xuống cống và nói nhỏ đủ cho tôi nghe:
«Thôi
kệ, một đồng bạc, cãi lẫy làm chi cho mệt! Thí cho bọn cô hồn ăn cướp
đó đi ! Hắn mặc cái quần… làm chi rứa, thắng trận rồi thì thôi, sỉ nhục
người ta làm chi nữa, con hỉ?».
Thì
ra Mẹ tôi cũng đã nhận ra cái quần hắn mặc may bằng lá Cờ Vàng Quốc Gia
và điều mà Mẹ tôi quan tâm nhiều hơn là lá cờ, chứ không phải tờ bạc
rách!
Khi
bọn cộng phỉ mới chiếm Miền Nam, nhiều người vẫn tưởng bọn cộng phỉ
cũng là người Việt, không lẽ họ lại đày đoạ đồng bào. Nhưng sau nhiều
năm tháng sống dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu ra rằng bọn cộng phỉ xem
dân Miền Nam như kẻ thù muôn kiếp, bọn chúng tự cho bọn chúng là phe
chiến thắng «vẻ vang» và có quyền cai trị tuyệt đối đám dân xem như
không cùng chủng tộc này.
Một
hôm, đang ngồi bán thuốc lá, Mẹ tôi tất tả vô nhà, kêu đứa em tôi ra
ngồi bán để mẹ đi có việc gì đó. Một lúc sau Mẹ tôi trở về và kể cho
chúng tôi một câu chuyện thật ngộ nghĩnh. Mẹ kể:
«Mẹ
đang ngồi ngoài đó thì nghe mấy bà rủ nhau chạy đi coi người ta treo Cờ
Quốc Gia trên ngọn cây. Té ra không phải, có cái bao ny-lông màu vàng
có dãi đỏ, chắc là gió thổi mắc tuốt trên ngọn cây cao lắm, người ta
tưởng là Cờ Vàng Quốc Gia. Mà lạ lắm con, có con chó nó cứ dòm lên cây
mà sủa ra vẻ mừng rỡ lắm, rứa mới lạ, chắc là điềm trời rồi !».
Mẹ tôi là vậy đó, bà hay tin dị đoan, nhưng chính ra là Mẹ tôi nhìn mọi việc bằng tình cảm trong lòng mình.
Thời
gian trôi mãi không ngừng… Cuối cùng rồi Ba tôi cũng may mắn sống sót
trở về sau gần 10 năm trong lao tù khổ sai cộng sản, Mẹ tôi vẫn bán
thuốc lá lẻ, chúng tôi sau nhiều lần bị đánh rớt Đại Học, đành phải tìm
việc vặt vãnh để kiếm sống.
Đôi
khi tôi tự hỏi, cuộc đời mình sẽ ra sao, liệu mình có thể có một mái
gia đình, vợ con như bao người khác không trong khi mà cả gia đình mình
không hề thấy một con đường nào trước mặt để vươn lên, để sinh sống với
mức trung bình!? «Mọi người sinh ra đều bình đẳng… và ai cũng được quyền
mưu cầu hạnh phúc…»
Câu
ấy nghe có vẻ hiển nhiên và dễ dàng quá; nhưng phải sống dưới chế độ
cộng sản, việc gì cũng bị truy xét lý lịch đến ba đời, mới thấm thía ý
nghĩa và hiểu được vì sao người ta dùng câu ấy để mở đầu cho bản Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bất hủ.
Một
ngày khoảng đầu năm 1990, bọn công an phường đến đưa cho Ba tôi một tờ
giấy có tiêu đề và đóng dấu của công an thành phố, nội dung vỏn vẹn “đến
làm việc”. Gia đình tôi lo sợ là Ba tôi sẽ bị bắt vô tù lại, Ba tôi thì
lẳng lặng mặc áo ra đi, hình như các ông sĩ quan đi tù khổ sai của bọn
cộng phỉ về đều trở thành triết gia, bình thản chấp nhận thực tại. Hay
là thân phận của con cá nằm trên thớt, thôi thì muốn băm vằm gì tuỳ ý.
Rồi
Ba tôi về nhà với một tin vui mà cả nhà tôi có nằm mơ cũng không thấy
được, bọn công an thành phố kêu Ba tôi về làm đơn nộp cho Sở Ngoại Vụ vì
gia đình tôi đã được cho đi định cư ở Hoa Kỳ! Thật không sao kể xiết
nỗi vui mừng của gia đình tôi với tin này, đang từ một cuộc sống tuyệt
vọng nơi quê nhà mà nay được ra đi đến một quốc gia tự do, giàu mạnh
nhất thế giới!
Những
ngày sau đó lại cũng là Mẹ tôi đi vay mượn, bán những món đồ cuối cùng
trong nhà chỉ để có tiền làm bản sao photocopy các giấy tờ “Ra Trại” của
Ba tôi, khai sinh của chúng tôi, đóng tiền cho “Dịch Vụ”… để làm thủ
tục xuất cảnh.
Chỉ
khoảng 6 tháng sau là gia đình tôi lên máy bay để bay qua trại chuyển
tiếp bên Thái Lan. Tôi lên máy bay, ngồi nhìn xuống phi trường Tân Sơn
Nhứt dưới kia mà nước mắt cứ trào ra không ngăn được.
Thế
là hết, đất nước này của tôi, thành phố Sài Gòn này của tôi, nơi mà tôi
sinh ra và lớn lên, một lát nữa đây sẽ vĩnh viễn rời xa, bao nhiêu vui
buồn ở đây, mai sau chỉ còn trong kỷ niệm! Tôi quay lại nhìn thấy Ba tôi
mặt không lộ vẻ vui buồn gì cả, còn Mẹ tôi thì nhắm mắt như đang cầu
nguyện và Mẹ tôi cứ nhắm mắt như thế trong suốt chuyến bay cho đến khi
đặt chân xuống Thái Lan, Mẹ tôi mới nói:
“Bây giờ mới tin là mình thoát rồi!”.
Sau
khoảng 3 tuần ở Thái Lan, gia đình chúng tôi lên máy bay qua Nhật, rồi
đổi máy bay, bay đến San Francisco, California, Hoa Kỳ.
Ngày
đầu tiên đến Mỹ được người bà con chở đi siêu thị của người Việt, thấy
lá cờ Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới trên mái nhà, Mẹ tôi nói:
«Úi chao, lâu lắm mình mới thấy lại lá cờ ni, cái Lá Cờ Quốc Gia VNCH của mình răng mà hắn hiền lành, dễ thương hí?»
Rồi Mẹ kêu tôi đi hỏi mua cho mẹ một lá Cờ Quốc Gia VNCH bằng vải, đem về cất vào ngăn trên trong tủ thờ.
Chúng
tôi dần dần ổn định cuộc sống, cả nhà đều ghi tên học College, Mẹ tôi
cũng đi học College nữa và xem ra bà rất hứng thú với các lớp ESL
(English as a Second Language); đặc biệt là các lớp có viết essays (luận
văn).
Mẹ
tôi viết luận văn rất ngộ nghĩnh, thí dụ đề tài là «Bạn hãy nói các
điểm giống nhau và khác nhau của một sự việc gì đó giữa nước Mỹ và nước
của bạn» thì Mẹ tôi lại viết về lá Cờ Quốc Gia. Ý Mẹ tôi (mà chắc chỉ có
mình tôi hiểu được) là nước Việt Nam có đến hai lá cờ khác nhau với hai
chế độ tương phản nhau mà người Mỹ thời này hay ngộ nhận cờ Việt Nam là
cờ đỏ sao vàng của Việt cộng; trong khi lá cờ đó không phải là lá cờ
thiêng liêng của người Việt tại Mỹ.
Rải
rác trong suốt bài luận văn dài tràng giang đại hải của Mẹ tôi là những
mẩu chuyện thật mà Mẹ tôi đã trải qua suốt thời gian sống dưới chế độ
cộng phỉ man rợ. Mẹ tôi kể là mẹ thấy bà giáo Mỹ đọc say mê (tôi nghĩ có
lẽ là bà giáo Mỹ sống ở nước tự do, dân chủ không thể ngờ là có những
chuyện chà đạp, bức hiếp con người như thế dưới chế độ cộng sản tàn ác
và man rợ).
Khi
bài được trả lại, tôi cầm bài luận của Mẹ tôi xem thì thấy bà giáo phê
chi chít ngoài lề không biết bao nhiêu là chữ đỏ: «interesting!»,
«Narrative», «I can’t believe it!”… . và cuối cùng bà cho một điểm “D”
vì… lạc đề!
Cuộc
sống chúng tôi dần dần ổn định, vô Đại Học, lấy được bằng cấp, chứng
chỉ, rồi đi làm, cuộc sống theo tôi như thế là quá hạnh phúc rồi.
Dạo
đó, có anh chàng Trần Trường nào đó ở miền Nam California, tự nhiên giở
chứng đem treo lá cờ đỏ sao vàng bẩn thỉu kinh tởm của bọn cộng phỉ
trong tiệm băng nhạc của anh ta làm cho người Việt quanh vùng nổi giận,
Đồng
bào tỵ nạn đã đem cả ngàn Lá Cờ Quốc Gia, Nền Vàng Ba Sọc Đỏ đến biểu
tình trước tiệm anh ta suốt mấy ngày đêm. Mẹ tôi ngồi chăm chú xem trên
truyền hình và nói với tôi:
“Tinh thần của người ta còn cao lắm chớ, mai mốt đây mà về thì phải biết!”
Ý
Mẹ tôi nói là sau này khi không còn cộng sản ở Việt Nam nữa thì chắc
đồng bào sẽ hân hoan trở về treo lên cả rừng Cờ Quốc Gia chớ không phải
chỉ chừng này đâu.
Thời
gian trôi nhanh quá, chúng tôi đã xa quê hương gần 20 năm, Việt cộng
vẫn còn đó, vẫn cai trị đất nước tôi. Sau này do chúng tôi, kể cả cha
chúng tôi nữa, đều học xong và ra đi làm, không ai có thể chở Mẹ tôi đi
học ESL nữa nên Mẹ tôi phải ở nhà thui thủi một mình, buồn lắm. Có lần
tôi hỏi mẹ có muốn về Việt Nam một chuyến để thăm bà con lần cuối không,
Mẹ tôi nói:
“Không, về làm chi, rồi mình nhớ lại cảnh cũ, mình thêm buồn; khi mô mà hoà bình rồi thì mẹ mới về!”
Ý mẹ nói “hoà bình” nghĩa là khi không còn cộng sản nữa.
Rồi
Mẹ tôi bệnh, đưa vô nhà thương, bác sĩ chẩn đoán Mẹ tôi bị ung thư
phổi, cho về nhà để Hospice Care đến chăm sóc (Hospice là các tổ chức
thiện nguyện ở khắp nước Mỹ, nhiệm vụ của họ là cung cấp phương tiện,
thuốc men miễn phí nhằm giảm nhẹ đau đớn cho những người bệnh không còn
cứu chữa được nữa). Mẹ tôi mất không lâu sau đó. Mẹ nằm lại đất nước Mỹ
này và vĩnh viễn không còn nhìn thấy lại quê hương mình lần nào nữa.
Trong
lúc lục giấy tờ để làm khai tử cho mẹ, tôi tìm thấy chiếc ví nhỏ mà Mẹ
tôi vẫn thường dùng để đựng ít tiền và các giấy tờ tuỳ thân như thẻ an
sinh xã hội, thẻ căn cước… Trong một ngăn ví là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
bằng giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín dụng mà có lẽ Mẹ tôi đã cắt ra từ một
tờ báo nào đó.
Tôi
bồi hồi xúc động, thì ra Mẹ tôi vẫn giữ mãi lá Cờ Quốc Gia bên mình, có
lẽ lá Cờ Vàng hiền lành này đối với Mẹ tôi cũng thiêng liêng như linh
hồn của những người đã anh dũng chiến đấu và hy sinh để bảo vệ Tự Do,
Công Bằng và Bác Ái cho Miền Nam Việt Nam.
Tôi là một bác sĩ, sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn nhưng sau này tôi đi du học và đã định cư tại nước ngoài từ lâu. Nhân tháng 4 năm nay, tôi muốn viết một thông điệp cho gia đình, bạn bè tôi, cùng tất cả những người từng là công dân Việt Nam Cộng Hòa, con cháu của họ, nhất là những đứa trẻ cùng thế hệ 8X như tôi. Cha tôi là một sĩ quan quân lực VNCH, cấp bậc Trung úy. Ông có may mắn hơn nhiều bạn bè, khi chỉ phải đi tù cải tạo một thời gian ngắn. Năm 1979 cha tôi ra tù và về sống ở Sài Gòn (xin lỗi vì tôi không thể viết tên của kẻ tội đồ dân tộc mình), một năm sau tôi sinh ra. Từ khi tôi biết nhận thức thế giới xung quanh cho tới năm 18 tuổi, cha và mẹ KHÔNG BAO GIỜ nói với tôi bất cứ điều gì có liên quan đến chính trị hay nói xấu chế độ mới, cha tôi sống hiền lành, nhẫn nhục nuôi con cái, hòa đồng với tổ dân phố. Cha ghét chiến tranh và không bao giờ nhắc đến thời chiến đấu xa xưa của mình, đến mức không cho tôi chơi những món đồ chơi như súng, máy bay. Mẹ tôi thì cấm tôi nghe nhạc vàng hay những bài ca về lính, dù vậy sau này tôi vẫn lén nghe. Họ để cho tôi tự do lựa chọn con đường mình đi, ngay cả tôn giáo. Vì thế những gì tôi viết cho các bạn xem đưới đây là do CHÍNH BẢN THÂN tôi nhận thức được từ cuộc sống xung quanh mình. Với tính cách giang hồ lãng tử của cha tôi, trước 30-4 ông vốn đã không coi trọng tiền bạc, không nhà cửa, tiền vàng, chỉ có 2 bàn tay, chiếc xe máy cùng người vợ hiền nên sau 30-4 ông không mất gì cả về vật chất. Tuy nhiên, nỗi mất mát về tinh thần ám ảnh ông suốt đời như một vết thương không bao giờ lành được. Nhà tôi rất nghèo, lại phải chịu bất công từ mọi phía, mẹ tôi bị ép phải nghỉ sớm do lý lịch của cha, bà phải đi buôn thuốc men, thực phẩm để nuôi tôi lớn. Lúc tôi 3-4 tuổi cha tôi đi làm vắng nhà cả ngày, ông làm đủ thứ nghề, buôn bán hàng phế liệu, đạp xích lô, đến tối mịt mới về nhà. Ngày nghỉ ông chở tôi lang thang trên các con đường ở Sài Gòn bằng chiếc xe đạp. Đường phố Sài Gòn thập niên 80 còn hoang vắng, tôi để ý một điều là ông luôn gọi những con đường bằng tên cũ, chỉ cho tôi những tòa nhà và tên gọi của chúng, nhiều khi tôi thấy ông dừng rất lâu ở một nơi nào đó và khóc. Lớn lên một chút, ông luôn tìm cách hướng tôi về những điều chân thiện mỹ, thay vì phó mặc cho sự nhồi sọ của trường lớp, đội nhóm. Tôi còn nhớ ông mua sách báo cũ thời VNCH cho tôi đọc, nhất là Thiếu Nhi tuần báo. Ngày tôi được kết nạp đội, cha tôi ôm tôi vào lòng và ông rất buồn, nhưng ông dắt tôi đi xem phim Batman và đêm đó trước khi ngủ kể cho tôi nghe ông đã phải đi bộ hơn 5 cây số để mua sữa cho tôi uống như thế nào. Tôi nhìn ra rất sớm sự giả dối, bất công, ngay trong trường lớp của mình, những bài văn mẫu, những người thầy ép học sinh học thêm tại nhà, những bài học lịch sử dối trá. Tôi muốn nói một điều với các bạn cùng lứa tuổi, rằng thế hệ sinh ra năm 78-80 tại Sài Gòn như chúng tôi PHẢI nhận thức rõ một điều rằng: Dù thể chế Việt Nam Cộng Hòa đã chết vào ngày 30/4/1975, nhưng nó vẫn tiếp tục cưu mang, nuôi dưỡng những đứa trẻ như tôi bằng tất cả máu thịt từ còn sót lại. Bọn cộng sản KHÔNG góp một chút công ơn nào hết trong việc nuôi dưỡng, che chở và giáo dục chúng tôi, thậm chí ngược lại là khác, chính bọn chúng là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ, bất công, rủi ro cho số phận những đứa trẻ sinh ra giai đoạn này. Tôi ra đời trong một nhà bảo sinh của VNCH, khi tôi đau ốm, các bác sĩ và nữ hộ sinh được đào tạo từ ngành y tế VNCH đã chăm sóc cho tôi, dù họ là những người bị ngược đãi, phải sống cực khổ ăn không đủ no vì chính sách nô dịch của cộng sản, nhưng vẫn giữ trọn y đức và trách nhiệm. Từ khi cắp sách đến trường tôi may mắn hơn những đứa trẻ miền Bắc, vì được che chở dưới những lớp học, mái trường do cha anh chúng tôi, công dân của VNCH xây nên, chúng tôi may mắn được xem phim trong những rạp ciné hiếm hoi còn sót lại ở Sài gòn của VNCH. Trong khi đó, bọn cộng sản Bắc Việt đã làm gì cho chúng tôi? Từ tuổi sơ sinh, toàn bộ trẻ em như tôi phải chịu cảnh suy dinh dưỡng, ăn không đủ no, không có sữa để uống. Cha mẹ chúng tôi phải chạy ăn từng bữa, hy sinh những gì tốt nhất cho chúng tôi trong khi họ phải ăn độn bobo, khoai mì. Khi đau ốm bệnh tật không có đủ thuốc men chữa trị, phải đi vay mượn, đi mua kháng sinh ngoài chợ đen. Chúng tôi lớn lên, đứa thì lùn đứa thì còi xương, tội lỗi đó là do ai gây ra? Khi đi học chúng tôi bị nhồi sọ bằng những chuyện dối trá nhảm nhí, bị những cô giáo xã hội chủ nghĩa đánh đập không thương tiếc, phải đi nhặt lon, nhặt rác, dùng những cuốn sách giáo khoa cũ nát, đen thui, đêm về phải học bài dưới ánh đèn dầu tù mù, chịu nóng, muỗi đốt để mà kiếm cho được tấm giấy khen vô nghĩa. Lớn lên một chút, chúng tôi lại bị những thầy cô giáo bóc lột đến tận cùng bằng những chiêu trò dạy thêm tại nhà, ai không đến nhà thầy học thêm thì bị đì, bị đối xử bất công trên lớp. Lúc trưởng thành ra đời thì tương lai u tối vì 2 chữ lý lịch gia đình, phải hối lộ đút lót khắp mọi nơi mới kiếm được miếng ăn. Tôi lại muốn nói điều này cho bọn cộng sản và con cháu của chúng: Việt Nam Cộng Hòa vẫn sống, và chưa bao giờ chịu khuất phục bởi bạo lực và sự đàn áp của cộng sản. Những người con của thế hệ VNCH vẫn sống, dù nhẫn nhục, nhưng không cúi đầu, không bao giờ chấp nhận đi chung đường với điều ác và dối trá. Bọn cộng sản không bao giờ khuất phục được ý chí và tinh thần của những công dân VNCH, chúng không bao giờ hiểu được tại sao cha mẹ chúng tôi đặt tên cho con cái mình là Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Khoa Nam hay Phan Nhật Nam (cha tôi đặt tên cho tôi là Huỳnh Kỳ Anh Tú, và tôi tự hào vì điều đó!). Tại sao mấy chục năm nay người ta vẫn thích nghe nhạc của Lam Phương, Trần Thiện Thanh, Trúc Phương và dòng nhạc này đang hồi sinh. Bọn cộng sản muốn trả thù hèn hạ con cháu của VNCH bằng cách xét lý lịch, thì chúng tôi, những công dân VNCH cũng dùng lý lịch, căn cước của cha anh mình như một dấu hiệu nhận diện nhau, đùm bọc nhau. Cuộc đời tôi đã trải nghiệm không biết bao nhiêu sự ưu đãi, giúp đỡ từ bạn bè của cha tôi, hay thậm chí những người xa lạ, mỗi khi họ tình cờ biết cha tôi từng là sĩ quan quân lực VNCH, một người thầy nổi danh đã nhận tôi vào lớp luyện thi đại học và miễn học phí (hơn 2 triệu đồng) vì tôi là con của lính VNCH, nhiều bác sĩ đã chữa bệnh cho tôi hồi nhỏ không nhận thù lao khi biết cha tôi từng đi lính, một linh mục tại nhà thờ Dòng chúa cứu thế dạy kèm tiếng anh và tiếng Pháp cho tôi suốt 3 năm mà không lấy tiền. Bọn cộng sản cũng không bao giờ hiểu được tại sao bên cạnh chúng không bao giờ có mặt những người trí thức, nhân tài hậu duệ của VNCH, vì những cá nhân này không bao giờ chấp nhận vào đoàn thanh niên cộng sản, không bao giờ đi làm cho nhà nước, và một khi ra nước ngoài du học không bao giờ quay trở lại để phục vụ cho chúng, chúng có kêu gào 1000 năm nữa và dụ dỗ bằng tiền tài hay danh lợi, những người này cũng sẽ không bao giờ trở về cộng tác với chúng. Chúng chỉ tìm thấy những kẻ cơ hội, bợ đỡ, bất tài và ngu ngốc chấp nhận làm nô lệ cho chúng mà thôi. Đối với một số người, ngày 30-4 có thể là ngày đau buồn, họ cho đó là quốc hận, một số những kẻ ăn trên ngồi trước thì hoan hỉ ăn mừng, mừng cho việc họ đã giết, cướp chính anh, chị em một nhà của mình, nhưng tôi nhận rõ một điều là Việt Nam cộng hòa vẫn chưa chết, Sài gòn có thể bị chiếm đóng, chúng ta có thể bị đô hộ, nhưng công dân và hậu duệ của VNCH vẫn sống, vẫn vươn lên, vẫn đang giúp đỡ nhau, chúng tôi miễn dịch với mọi sự dối trá và độc ác của cộng sản, nhiều người vẫn đang đi tìm tự do, và sẽ có ngày chân lý sẽ chiến thắng Huỳnh Kỳ Anh Tú
Anh
Lê Văn Kinh lớn hơn tôi 3 tuổi, là bạn học cùng lớp với tôi ở trường
Trung Học Đồng Nai, Sàigòn trong những năm 1951 đến năm 1955. Anh Lê Văn
Kinh sanh ngày 15 tháng 2 năm 1935 tại Sa Đéc,
Nam Việt Nam trong một gia đình có 9 người con gồm: 3 gái và 6 trai.
Sau hai chị, anh Kinh là người con trai lớn nhứt trong gia đình.
Sau khi thi Brevet xong (Anh Kinh học chương trình Pháp. Bằng Brevet
tương đương với bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp của Việt Nam), anh Kinh mất
tích trong chốn học đường. Sau đó một thòi gian khá lâu, tôi mới biết là
anh phải đi làm để giúp gia đình nuôi đàn em
dại, nên anh đã hy sinh tương lai của anh để lo cho tương lai của các
em. Khi lớn lên, đáp lời sông núi, cả 6 anh em đều đầu quân vào QLVNCH
và đã thật sự góp xương máu gìn giữ giang sơn tổ quốc. Người em kế của
anh Kinh đi Hải Quân, bị địch pháo kích, đã
đền nợ nước. Người em kế tiếp đi Thiếu Sinh Quân, sau trở thành sĩ quan
Pháo Binh. Hai em kế nữa đi TQLC, thì một đền nợ nước tại chiến trường
Kontum, một trở thành thương phế binh. Người em Út đi Biệt Động Quân
cũng trở thành thương phế binh. Riêng anh Kinh
thì trở thành người tù 20 năm khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt. Tổng cộng
trong 6 anh em của anh Kinh thì 2 người đã dâng mạng sống của mình cho
tổ quốc, hai người đã hy sinh một phần thân thể cho quê hương, dân tộc,
một người chôn vùi tuổi thanh xuân suốt 20
năm khổ sai trong lao tù Cộng Sản.
Anh Kinh rất to lớn so với khổ trung bình của người Việt Nam. Thật ra,
anh cao lớn hơn tất cả các bạn cùng lớp, nhưng anh rất hiền và dễ thương
như một thư sinh “khổng lồ”...
Khi vào học khóa 9 SQ/ Hải Quân năm 1959, tôi mới biết anh Kinh và người
bạn thân khác, cùng lớp, Lâm Văn Hiếu và Nguyễn Văn Thành đã gia nhập
quân chủng Hải Quân trước tôi, từ năm 1955. Hiếu chọn ngành Trọng Pháo,
Thành, Giám Lộ, anh Kinh, Vận Chuyển. Hiếu
và Thành đều đã đền nợ nước: Hiếu trong Nam, Thành, ngoài Bắc (Lực
Lượng Hải Tuần). Sau 5 năm dệt mộng hải hồ, anh Kinh thấy chưa thỏa chí
tang bồng, muốn tìm những cảm giác mạnh hơn, những công tác khó khăn
hơn, và nguy hiểm hơn: Anh muốn đùa giỡn với tử
thần, anh muốn trở thành Người Nhái.
Năm 1960, anh tình nguyện ghi tên đi học khóa Người Nhái và được gởi đi
Đài Loan huấn luyện để trở thành một trong những Người Nhái đầu tiên của
Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Anh Kinh mà đi Người Nhái thì đúng quá rồi,
vì anh có đủ yếu tố cần thiết để trở thành
Người Nhái: Thông minh, khỏe mạnh, dẻo dai, chịu đựng, nhẫn nại, hiền
nhưng can trường và cương quyết, có biệt tài bơi lội, lặn sâu và lặn
xa...Và anh đã thành công. Anh đậu hạng nhì (Lê Quán Thủ Khoa) trong
khóa huấn luyện Người Nhái tại Đài Loan. Anh đã
trở thành Người Nhái như ước mơ của anh.
Năm 1962, không ảnh của tình báo cho biết có 6 chiến hạm của Cộng Sản
Bắc Việt, chia làm 2 toán, mỗi toán 3 chiến hạm thay phiên nhau hoạt
động và nghĩ bến. Do đó thường xuyên có một toán gồm 3 chiến hạm đậu
nghĩ bến tại quân cảng Quảng Bình, bên trong Ba Đồn,
sông Gianh. Người Nhái được lệnh đặt chất nổ phá hủy 3 chiến hạm đậu
nghĩ bến. Một chương trình huấn luyện và thực tập đặc biệt về mìn chống
chiến hạm và kỹ thuật sử dụng được thực hiện tại Đà Nẵng. Việc tuyển
chọn Người Nhái thích hợp cho chuyến công tác
bí mật nầy đã được Sở Khai Thác Địa Hình, trực thuộc Phủ Tổng Thống,
thi hành hết sức kỷ lưỡng và gắt gao: Anh Nguyễn Văn Chuyên được chỉ định chỉ huy tổng quát, hướng dẫn 3 Người Nhái khác được
tuyển chọn cho công tác đặc biệt này gồm có: Nguyễn Văn Tâm, Lê Văn Kinh
và Nguyễn Hữu Thảo. Chương trình huấn luyện và thực tập chỉ chấm dứt
sau khi mỗi người trong toán đều thông suốt cách
sử dụng loại khí giới hết sức lợi hại này. Tuy đi chung một toán, nhưng
mỗi Người Nhái đều có riêng mục tiêu của mình đã được chỉ định trước,
cũng như vì lý do an ninh cá nhân, mỗi người đều có trang bị riêng và
chỉ Người Nhái đó chịu trách nhiệm việc sử dụng
và điều chỉnh trang bị của mình chứ không ai khác được kiểm soát hay
đụng tới. Cũng giống như nhảy dù điều khiển, người nhảy phải tự xếp dù
của mình, chứ không để ai được đụng tới.
Tháng 5, năm 1962, toán Người Nhái sẵn sàng và lên đường, nhưng chiếc
ghe chở toán Người Nhái đi công tác bị phát giác, lộ hành tung, phải trở
về căn cứ. Độ một tháng sau, tháng 6, năm 1962, toán Người Nhái của Anh
Chuyên được lệnh thi hành công tác trên. Lần
này, không bị phát giác. Công tác được thi hành ban đêm. Chiếc ghe lớn
chở toán Người Nhái đến cửa sông Gianh thì dừng lại và cho ghe nhỏ hơn
chở toán Người Nhái vào quân cảng Quảng Bình, cách các chiến hạm của
Cộng Sản Bắc Việt khoảng 100 thước thì dừng lại.
Cả 2 ghe lớn và nhỏ đều được ngụy trang giống như ghe đánh cá tại địa
phương.
Ba chiến hạm Cộng Sản Bắc Việt đậu song song với nhau sát cầu tàu, ở Ba
Đồn. Mục tiêu của anh Kinh là chiến hạm đậu bên trong sát cầu tàu, anh
Thảo, chiến hạm thứ 2 (đậu giữa) và chiến hạm đậu bên ngoài là mục tiêu
của anh Tâm. Anh Chuyên ở lại ghe nhỏ cùng
với ba thủy thủ đoàn chờ đợi đón ba Người Nhái kia sau khi hoàn thành
nhiệm vụ để đưa ra ghe lớn trở về căn cứ.
Sau khi nhận diện mục tiêu và kiểm soát lại lần chót trang bị của mình,
anh Kinh xuống nước trước, kế đến anh Thảo và cuối cùng là anh Tâm theo
thứ tự mục tiêu xa gần, như vậy cả ba sẽ tới mục tiêu cùng một lúc. Cho
tới giờ phút đó, mọi việc đều xảy ra như
kế hoạch đã định sẵn. Kế hoạch dự trù kế tiếp là điều chỉnh thời nỗ 5
giờ sau mìn mới nổ, để có đủ thì giờ trở về căn cứ an toàn.
Anh Kinh hoàn tất công tác trước, rời khỏi mục tiêu khoảng 20 thước,
trồi lên mặt nước để dùng hồng ngoại tuyến định hướng chiếc ghe nhỏ đang
chờ để rước toán của anh trở về ghe lớn sau khi hoàn thành công tác.
Thình lình, một tiếng nổ long trời đẩy anh Kinh văng lên khỏi mặt nước,
toàn thân tê dại, anh không còn biết gì nữa. Khi tỉnh dậy, anh mới biết
mình là tên tử tù của Cộng Sản Bắc Việt. Dựa theo cáo trạng và nghe lóm
cán bộ nói chuyện với nhau trong lúc bị lao
tù, anh Kinh cho biết như sau: Vì lý do kỹ thuật, sau khi được đặt vào
mục tiêu như đã định, trái mìn của anh Thảo nỗ liền tức khắc (thay vì
phải 5 giờ sau mới nỗ) anh Thảo chết banh xác tại chỗ, cả ba chiến hạm
cùng nổ tung và chìm theo xác anh Thảo. Sức
nổ của 3 quả mìn cùng nổ một lượt đẩy anh Kinh, ở cách đó khoảng 20
thước, văng lên khỏi mặt nước và làm anh bất tỉnh. Anh còn sống quả là
phép lạ. Anh Tâm lội ra xa hơn về hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ nhưng sức
nổ quá mạnh nên cũng bị bất tỉnh và cũng bị
bắt. Riêng chiếc ghe nhỏ, chạy về ghe lớn và lập tức rời mục tiêu,
nhưng vì tốc độ chậm, bị chiến đỉnh của Cộng Sản Bắc Việt đuổi kịp,
chúng ra lệnh đầu hàng, anh Chuyên không chịu hàng, hai bên bắn nhau,
nhưng nhờ hỏa lực mạnh hơn nên cuối cùng chiến đỉnh
của Cộng Sản Bắc Việt làm chủ tình hình và đụng chiếc ghe lớn chìm, chỉ
một người thoát nạn nhờ núp dưới cánh buồm. Anh Chuyên và một thủy thủ
đã đền nợ nước, tất cả thủy thủ đoàn còn lại đều bị bắt.
Ngày 30 tháng 6 năm 1962, anh Kinh bị kết án hai mươi năm khổ sai, anh
Tâm bị kết án chung thân khổ sai. Thủy thủ đoàn bị kết án từ hai năm đến
mười tám năm. Nhưng bản án là một trò hề, bởi vì hai năm hay chung thân
đều cùng chung số phận, phải ở tù từ mười
bảy đến hai mươi hai năm khổ sai mới được phóng thích. Ngày 28 tháng 01
năm 1980, anh Tâm được phóng thích sau 17 năm rưỡi khổ sai. Anh Kinh
được phóng thích ngày 30 tháng 6 năm 1982, đúng 20 năm khổ sai.
Anh Tâm hiện cư ngụ tại California, anh Kinh ở Florida.
Mặc dù 4 Người Nhái và thủy thủ đoàn thi hành công tác này đã đền nợ
nước hay chôn vùi tuổi thanh xuân trong chốn lao tù khổ sai của Cộng Sản
Bắc Việt, nhưng họ không chết và không bị quên lãng, vì họ sẽ sống mãi
trong lòng của anh em Người Nhái thuộc Liên
Đoàn Người Nhái Hải Quân Việt nam Cộng Hòa và của đồng bào ruột thịt
dành cho những đứa con thân yêu của dân tộc đã“VỊ QUỐC VONG THÂN”.
Đối với gia đình anh Kinh, LĐNN xin giở nón cúi đầu bái phục một gia
đình ái quốc đã tình nguyện hy sinh, dâng hiến tất cả những đứa con trai
của gia đình cho Quân Đội để phục vụ cho Tổ Quốc, và làm tròn nhiệm vụ
của người trai trong thời loạn: “Chấp nhận hy
sinh mạng sống hay một phần thân thể để bảo vệ từng tấc đất của quê
hương xứ sở do tổ tiên để lại, trái ngược với bọn CS phản quốc nỡ lòng
cắt đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang.
California, ngày Quân Lực 19 tháng 6 .
Người Nhái HQVNCH
Nói tới
những ngày cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp của mình, tôi muốn ghi lại đây những
giờ phút vui buồn trong đơn vị cuối cùng của mình, Ban Liên Hợp Quân Sự, một
đơn vị mà cho đến giờ nầy vẫn có rất ít người biết đến nó, kể cả phần lớn anh
chị em trong QLVNCH, mặc dầu nó là đứa con út của Quân đội, một đứa con sanh
sau đẻ muộn vừa thai nghén vừa ra đời thực tế chỉ trong vòng có một tuần lễ,
hay vỏn vẹn chỉ có 7 ngày! Hay còn ít hơn nữa! Và đứa con út nầy chỉ sống ngoắt
ngoải được có 2 năm 3 tháng 3 ngày, khai sanh của nó được ghi rõ là 12 giờ đêm
rạng sáng ngày 28 tháng 3 năm 1973 và không có khai tử nhưng được biết là ngày
29 tháng 4 năm1975! Trên lý thuyết thì 4 cha 3 mẹ (1) của nó đã mong muốn phải
sanh ra nó từ lâu, từ lúc có các buổi đi đêm giữa cặp tình nhân Hoa Thạnh Đốn
và Hà Nội, Lê Đức Thọ trao cho Kissinger bản văn của Hiệp Định Paris (tiếng Việt,
do cộng sản Bắc Việt soạn thảo) để Kissinger cho dịch ra Anh ngữ và chánh thức
trình làng với cái tên thật hấp dẫn : Hiệp Định chấm
dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.. dù đó là nguyên văn sản
phẩm của cộng sản Bắc Việt.
Tôi được may mắn biết được một ít về tình hình ở Hội
Nghị Paris một phần nhờ giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, thuộc phái đoàn thương thuyết
Việt Nam, và một phần nhờ ông John Paul Vann, cố vấn trưởng Vùng 4 Chiến Thuật.
Giáo sư Huy thỉnh thoảng về Việt Nam đều cho chúng tôi biết sơ qua về diễn tiến
của cuộc hòa đàm, và ông Paul Vann thì cũng thường ghé qua Vĩnh Long khi ông từ
Hoa Kỳ về lại Cần Thơ qua ngã Paris.
Tôi được thuyên
chuyển từ Vĩnh Long về Sài Gòn vào
tháng 7 măm 1972, và ngay sau đó tôi được lệnh vào học ở trường Cao Đẳng
Quốc
Phòng, (khóa 5) dù là vào trễ gần 2 tuần. Về sau nầy tôi mới biết lý do
tại
sao. Vào tháng 10 năm 1972 khóa 5 Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi được
lệnh
"nghiên cứu" và "sửa chữa" các điều khoản bất lợi cho Việt
Nam Cộng Hòa khi Hiệp Định Ba Lê sắp sửa được ký. Ông Tổng trưởng Thông
Tin
Hoàng Đức Nhã đã đến thuyết trình và trao bản nháp của Hiệp Định cho
trường và Trung tướng Vĩnh Lộc đã chia lớp học chúng tôi ra thành nhiều
toán để thảo luận,
nghiên cứu và sửa chữa từng điều khoản bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa. Và
tôi được
hân hạnh là một trong mấy bạn trưởng toán đó. Nói là "bản nháp" nhưng
thật sự đây là bản văn "thực thụ" của Hiệp Định sắp được ký kết.
Xin thú thật là công tác thảo luận nghiên cứu được
tiến hành rất là hết lòng và hết sức nghiêm túc, và sửa chữa thì có đề nghị sửa
chữa, nhưng tất cả đều là công dã tràng. Có quá nhiều điều khoản cần phải sửa
chữa vì tất cả lời văn đều rất là bất lợi cho phía Việt Nam Cộng Hòa nhất là
trong bản Hiệp Định không có một điều khoản nào nói về sự có mặt của Quân đội
chánh quy Bắc Việt ở Miền Nam Việt Nam và do đó không có một điều khoản nào buộc
họ phải rút quân ra khỏi Miền Nam Việt Nam. Trong lúc đó Hiệp Định chỉ có buộc
"lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của
Việt Nam Cộng Hòa phải rút đi mà thôi."(điều 3a), và buộc Hoa Kỳ phải chấm
đứt mọi hoạt động quân sự chống lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bằng mọi
lực lượng trên bộ, trên không, trên biển, v.v... (điều 2), tất cả đều nhằm
khóa tay Hoa Kỳ "không được tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào
công việc nội bộ của Miền Nam Việt Nam" (điều 4). Nhất là, Việt Nam Cộng
Hòa së không được nhận đưa vào Miền Nam Việt Nam quân đội, cố vấn quân sự và
nhân viên quân sự, kỹ thuật, vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh", mà
không có một điều ràng buộc nào đối với Bắc Việt (điều 7) dù ai cũng biết là Bắc
Việt đã và đang nhận viện trợ Quân sự, vũ khí đạn dược và mọi dụng cụ chiến
tranh cũng như cố vấn kỹ thuật từ Liên Xô, Trung Cộng hay từ khối cộng sản Đông
Âu.
Vào khoảng cuối tháng 10/1972 thì ông Kissinger đã
bay sang Sài Gòn để trình lên Tổng Thống Thiệu bản văn chánh thức của Hiệp Định
và yêu cầu Việt Nam Cộng Hòa ký vào bản văn đó. Chẳng những Tổng Thống Thiệu
không chấp nhận bản văn đó mà còn dùng lời lẽ không được nhã nhặn lắm để biểu lộ
sự tức giận của mình đối với cá nhân Kissinger khi ông nầy đã rời khỏi Dinh Độc
Lập. Những lời lẽ nầy đã lọt hết vào tai của Kissinger có lẽ nhờ hệ thống máy
móc và kỹ thuật nghe lén của người Mỹ. Và Kissinger về luôn Hoa Kỳ mà không còn
trở lại Dinh Độc Lập nữa vì ông ta cũng dư biết rằng có tới cũng không được ai
tiếp kiến.
Vào khoảng trước ngày lễ Giáng Sinh, Tổng Thống
Nixon lại cho oanh tạc Bắc Việt lần nữa để buộc Hà Nội phải rút quân Bắc Việt
ra khỏi Miền Nam Việt Nam theo đề nghị của Tổng Thống Thiệu và để đổi lại, theo
đề nghị của Tổng Thống Nixon Việt Nam Cộng Hòa phải cho giải ngũ một số khoản
300.000 binh sĩ chánh quy. Đề nghị nầy là đề nghị duy nhất và lần đầu tiên của
Hoa Kỳ chính thức nói đến sự hiện diện của Quân đội chánh quy Bắc Việt ở Miền
Nam do Hoa Kỳ đưa ra và đang được bàn cãi "công khai" trên bàn hội
nghị Paris. Nhưng rất tiếc là Hiệp Định đã thành hình từ lâu, nên dù có bàn cãi
qua loa lấy lệ thì cũng không có một dư âm nào. Dĩ nhiên đề nghị nầy hai phía Bắc
Việt và Việt Nam Cộng Hòa đều không bên nào đi đến thỏa thuận cả. Phía Việt Nam
Cộng Hòa chúng ta chắc chắn không bao giờ thực hiện được việc giải ngũ 300.000
binh sĩ.
Theo lời giáo sư Nguyễn Ngọc Huy (lúc bấy giờ là một
thành viên của phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa tại hội nghị Paris) thì đây vừa là một
"đòn độc", vừa là một đòn "xỏ lá" của Kissinger đối với cá
nhân Tổng ThốngThiệu (sau khi không thuyết phục được Tổng Thống Thiệu trong
chuyến đi vừa qua) để ép Việt Nam Cộng Hòa phải ký vào Hiệp Định, một bản Hiệp
Định hoàn toàn do cộng sản Bắc Việt chủ động thảo ra và phía Mỹ chỉ có dịch lại
nguyên văn không thiếu một dấu phẩy sau nhiều buổi "đi đêm bẩn thỉu"
gọi là mật đàm giữa Kissinger và Lê đức Thọ.
Cuối cùng rồi thì vào cuối tháng chạp 1972 Việt Nam
Cộng Hòa cũng phải xuôi tay chịu ký vào Hiệp Định, sau khi Tổng Thống Nixon đã
đích thân viết thư riêng cam kết một số vấn đề với Tổng Thống Thiệu... (dĩ
nhiên về sau nầy như chúng ta đã thấy, không có một lời cam kết nào được Hoa Kỳ
giữ đúng). Trung tướng chỉ huy trưởng trường Cao Đẳng Quốc Phòng và chuẩn tướng
Phan Hòa Hiệp (học viên) được tháp tùng phái đoàn của Bộ Ngoại Giao sang Paris
với tư cách là quan sát viên của buổi ký kết...
(Tôi xin mở một dấu ngoặc ở đây để nhắc lại lời của
giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã than với chúng tôi nguyên văn như sau:" ...ngay lúc đó (cuối năm1969) Hoa Kỳ (hay đúng hơn là Kissinger) đã có quyết
định bỏ rơi số phận của đồng minh Việt Nam Cộng Hòa rồi, và coi như chúng ta đã
mất nước kể từ khi chúng tôi bị đưa vào ngồi ở "bàn hội nghị " ở
Paris (1968)".
Tuy không nói ra nhưng hai chữ "mất nước"
đã ám ảnh tôi mãi từ năm 1970 khi được tâm sự với Giáo sư Huy, và hai chữ đó cứ
bàng bạc nhảy múa trong đầu tôi mãi suốt thời gian phục vụ ở Ban Liên Hợp Quân
sự.
Ngay sau khi Hiệp Định được ký kết, theo điều 16
thuộc Chương VI, một số lớn học viên Khoá 5 CDQP của chúng tôi trong đó có chuẩn
tướng Phan Hòa Hiệp, đại tá Nguyễn Tử Đóa, đại tá Trần Tín, đại tá Lê Văn
Chuân, đại tá Tô Văn Kiểm, cá nhân tôi và một số đại tá khác nữa.... được cấp tốc
chọn lựa để đưa vào một đơn vị mới: "Ban Liên Hợp Quân sự 4 Bên" với
nhiệm vụ "bảo đảm sự phối hợp hành động của các Bên trong việc thực hiện
các điều khoản sau đây của Hiệp Định" (nguyên văn).
- về việc thực hiện ngừng bắn trên khắp Miền Nam Việt
Nam (điều 2) giữa tất cả các bên ở Miền Nam Việt Nam (điều 3a), về việc rút ra
khỏi Miền Nam Việt Nam của Quân đội Hoa Kỳ và các nước ngoài khác (điều 5) và
việc hủy bỏ các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và các nước ngoài ở Miền Nam Việt Nam
(điều 6), về việc trao trả nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân
nước ngoài của các bên bị bắt, v.v...
Ngã rẽ chánh
trị trên con đường binh nghiệp
Trên đường phục vụ đất nước, tôi tự xem như mình đã
bước qua một ngã rẽ hoàn toàn xa lạ, trong một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn: tranh
đấu với bọn cộng sản mặt đối mặt trên bàn hội nghị quân sự để bênh vực quyền lợi
cho Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày đầu tiên chân ướt chân ráo đến văn phòng của
Ban Liên Hợp Quân sự ở Tân Sơn Nhất, là một ngày cuối năm, giáp Tết. Văn phòng
là một dãy nhà ngang trống của một đơn vị nào đó vừa mới dọn ra, không bàn
không ghế, rất là luộm thuộm. Tuy nhiên anh em ai cũng biết nhiệm vụ tương lai
của mình rất là quan trọng. Chúng tôi họp nhau lại để thử vạch ra một sơ đồ tổ
chức tạm thời cho đơn vị mình để tạm phân công trong công việc vì theo Hiệp Định
(điều 16) thì "các Bên së cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên Hợp Quân
Sự Quân sự 4 Bên ....", vì hôm nay đã là ngày 28 tháng 1 rồi, tức là đã
qua ngày ký Hiệp Định một ngày rồi. Điều nầy chứng tỏ rằng phía Việt Nam Cộng
Hòa chúng ta hoàn toàn bị động nên không có chuẩn bị gì cả, nhất là về sự thành
lập Ban Liên Hợp Quân Sự nầy. Trung Tướng Ngô Dzu là trưởng đoàn, chuẩn tướng
Phan Hòa Hiệp là Phó trưởng đoàn, còn lại tất cả anh em đại tá học viên Cao Đẳng
Quốc Phòng chúng tôi đều là nhân viên. Tuy vậy cũng có một vài chuyện vui vui
buổi đầu làm cho chúng tôi quên đi phần nào những luộm thuộm của một đơn vị mới
thành lập với một trụ sở không có một chút tiện nghi, dù tối thiểu là bàn ghế.
- Việc thứ nhất là việc tôi tiếp xúc lần đầu tiên với
một nhân vật "đầu sỏ" Bắc Việt ở phi trường khi ông ta vừa bước xuống
phi cơ từ Hà Nội vào. Số là tôi được chỉ định ra sân bay đón phái đoàn quân sự
Bắc Việt. Đây chỉ là một nhóm tiền phương, còn phái đoàn chánh thức của Ban
Liên Hợp Quân Sự Bắc Việt së đến ngày hôm sau. Trước khi đi, anh bạn ở phái
đoàn Hoa Kỳ đã cho tôi biết là trong nhóm tiền phương nầy có một người mang tên
là Lưu Văn Lợi, tuy chỉ mang cấp bậc đại tá, nhưng ông ta không phải là quân
nhân mà là một cán bộ cấp cao trong Ban Lãnh Đạo Đảng cộng sản, là chánh trị
viên của cả 2 phái đoàn Bắc Việt và CPLTCHMN. Không biết anh có tin tức từ đâu
mà anh còn cho tôi biết thêm là tên Lợi nầy cũng đã từng mang cấp bậc đại tá, đại
diện của Bắc Việt lúc hội nghị về tù binh nhóm ở Trung Giá năm 1954 (Hiệp Định
Genève). Do đó khi gặp tên Lợi nầy trrong bộ quân phục mới toanh, rộng thùng
thình không đúng kích thước, tôi bèn "chộ" thẳng một câu khi bắt tay
anh ta lúc anh ta vừa bước xuống phi cơ:
- Ủa anh Lợi, 9 năm rồi mới
gặp lại anh, sao anh vẫn còn là đại tá hoài vậy ?
- Anh gặp tôi ở đâu ? anh
phản ứng nhanh nhưng cộc lốc.
- Ở Trung Giá chớ còn ở
đâu nữa .
- Ờ... anh
buông nhẹ một tiếng rồi thôi, thấy mình bị lộ.
Về sau nầy anh ta quả nhiên là một tay có thực quyền
đối với hai phái đoàn cộng sản Bắc Việt và CPLTCHMN. Khi hai phái đoàn Bắc Việt
và CPLTCHMN coi như đã đến đông đủ ở trại Davis rồi thì đúng là ngày giao thừa.
Chúng tôi đưa đề nghị lên cấp trên là chúng ta nên lấy tình đồng bào thết đãi họ
một bữa cơm tất niên ở câu lạc bội Huỳnh Hữu Bạc, ngay trong Tân Sơn Nhất. Dĩ
nhiên, trong bữa cơm tất niên giao thừa nầy cò đầy đủ các món ăn truyền thống của
người Việt Nam như thịt kho dưa giá, bánh chưng, bánh tét, dưa hành,v.v... hoàn
toàn có tính cách đãi 2 phái đoàn mà không có một ý thức hay hành động nào gọi
là chánh trị. Cấp trên của chúng tôi chấp thuận, và chúng tôi lo tổ chức bữa
cơm. Nhưng bên phía Bắc Việt họ có vẻ nghi ngờ, nhất là tướng 2 sao Lê Quang
Hòa trưởng đoàn Bắc Việt, không biết phía Việt Nam Cộng Hòa có ý đồ bất chánh
gì chăng, nên phía Bắc Việt có vẻ chỉ cho cấp nhỏ đi dự mà thôi. Tôi đích thân
đến gặp Lưu Văn Lợi, nói rõ rằng phía Việt Nam Cộng Hòa chỉ muốn đãi hai phái
đoàn một bữa cơm truyền thống ngày giao thừa mà thôi, mà tuyệt đối không có ý
nào khác. Hơn nữa, nhà thầu hôm nay cũng chưa kịp cung cấp thức ăn kịp cho phái
đoàn nên trại Davis chắc cũng không nấu nướng gì được cho cả gần 200 người ăn.
Chính anh Lưu Văn Lợi nầy đã quyết định đưa hết các tướng tá và toàn bộ hai
phái đoàn đến câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc dự bữa cơm giao thừa nói trên. Phần
chúng tôi hoàn toàn không có ai tham dự, có nghĩa là phái đoàn Bắc Việt hoàn
toàn tự do trong việc ăn uống chuyện trò với nhau một cách thật là tự nhiên thoải
mái. Sau đó, cũng chính anh Lưu Văn Lợi nầy đã gặp chúng tôi để cám ơn. Điều nầy
xác nhận tin tức tình báo của anh bạn tôi trong phái đoàn Hoa Kỳ là chính xác.
(Tôi xin mở thêm một dấu
ngoặc ở đây để nói rõ là năm 2003, chính tên Lưu Văn Lợi nầy đã cùng ngồi chụp ảnh
chung với tướng Nguyễn Khánh và một số cán bộ thuộc tòa đại sứ cộng sản, hình
chụp ở Houston Texas, tất cả đều đội nón rơm vành lớn,báo chí đã có đăng. Không
biết tên cộng sản Lợi nầy qua Mỹ với ý đồ gì ? và ngồi chụp ảnh chung với tướng
Nguyễn Khánh với ý đồ gì ?)
- Việc thứ hai là chuyện của anh chàng Võ Đông
Giang.
Buổi họp khai mạc đầu tiên tại phòng họp của Ban
Liên Họp 4 Bên Trung Ương đã có một chuyện không hay xảy ra cho anh chàng Võ
Đông Giang thuộc phái đoàn của CPLTCHMN. Lúc chúng tôi đang họp, khoảng 9 giờ 30
sáng, thì anh chàng nầy xồng xộc đi vào phòng họp và tự xưng tên và tự giới thiệu
mình là đại biểu của CPLTCHMN. Phía Việt Nam Cộng Hòa đang chủ trì phiên họp
nên chúng tôi mời ông ta xuất trình cho các Bên giấy ủy quyền của CPLTCHMN. Anh
lúng túng đưa ra tờ giấy thông hành (passport) mà anh đã sử dụng để đi từ Paris
sang Việt Nam. Cả hai phái đoàn Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi đều không
chấp nhận, và riêng phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa đã "phang" ra một câu
làm anh chàng bẽ mặt phải chịu phép bước ra ngay khỏi phòng họp mà không nói
thêm một lời nào:
- Chúng tôi vẫn biết anh là người của CPLTCHMN tử
Paris mới tới. Nhưng chúng tôi cần anh chứng minh rằng anh là người được
CPLTCHMN chánh thức ủy quyền đại diện cho CPLTCHMN trong Ban Liên Hợp Quân sự 4
Bên. Trên nguyên tắc thì giấy ủy quyền đó phải có chữ ký của người có thẩm quyền
trong Chánh Phủ của anh và có đóng con dấu của CPLTCHMN. Nhưng có thể anh về trại
làm giấy ủy quyền có chữ ký của ai cũng được, thiệt hay giả không cần biết, và
phải có con dấu, dù đó là con dấu làm bằng củ khoai lang, miễn đó là giấy ủy
quyền của CPLTCHMN là được.
Phái đoàn Bắc Việt do tướng hai sao Lê Quang Hòa chắc
cũng thấy ê mặt vì câu nói mỉa mai nầy của chúng tôi.Về sau nầy trướng Trần văn
Trà từ Lộc Ninh đến là trưởng phái đoàn của CPLTCHMN và anh chàng Võ Đông Giang
không thấy có mặt trên Bàn Hội Nghị nữa.
Trong tháng đầu chúng tôi làm việc thật là vất vả,
một mặt phải chuẩn bị bài vở hoặc dàn bài để phát biểu hằng ngày trong các buổi
họp, với đủ mọi loại đề tài, vừa tấn công vừa giữ vững lập trường cố hữu của Việt
Nam Cộng Hòa cho bất cứ chương nào, điều nào của Hiệp Định, lại vừa phải phối hợp
chặt chẽ với phái đoàn Hoa Kỳ, một mặt phải thực hiện kịp thời và đầy đủ những
văn kiện gởi cho Ủy Ban Quốc tế để liên tục phản kháng hàng chục vi phạm ngừng
bắn của cộng sản trong ngày, đêm đến có khi còn phải ở luôn tại đơn vị để cùng
nhau hội họp để tìm một mô hình tổ chức và một bản cấp số hợp lý cho đơn vị của
mình, (dù đó phải là nhiệm vụ của Phòng 1 / TTM ), sao cho phù hợp với hai nhiệm
vụ đặc biệt đã được ấn định trong điều 16 của Hiệp Định. Riêng trong giai đoạn
hiện tại, nhiệm vụ chính yếu của chúng tôi là "hội nghị" và "phản
kháng", do đó hai Khối chính yếu của Ban Liên Hợp Quân Sự của chúng tôi là
Khối Nghị Hội và Khối Ngoại Vụ (phản kháng vi phạm và giao dịch với Ủy Ban Quốc
Tế Kiểm Soát Đình Chiến). Rồi từ bản cấp số của Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên, chúng
tôi còn phải làm ra bản cấp số của các Ban Liên Hợp Quân Sự 2 Bên cho các Vùng
Chiến Thuật và cho cả các tổ ở địa phương theo đúng điều 17 của Hiệp Định.
Một phần nhờ sự thuyết trình của ông Hoàng Đức Nhã
khi Tổng Thống Thiệu giao cho trường Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi sửa chữa bản
Hiệp Định hôm tháng 10, nên chúng tôi được biết rõ thêm về mục đích và lý do thầm
kín của cả Hoa Kỳ và Bắc Việt trong tiến trình đi đêm giữa Kissinger và Lê Đức
Thọ. Một phần nhờ tôi chia sẻ lại cho anh em tất cả những gì riêng cá nhân tôi
đã được giáo sư Nguyễn Ngọc Huy tâm tình cho biết từ lúc hoà đàm Ba Lê mới bắt
đầu hình thành (1968) cho tới ngày ký kết Hiệp Định, đặc biệt là âm mưu và thỏa
thuận của Kissinger và Lê Đức Thọ trong suốt quá trình mật đàm của hai người mà
không bao giờ biết đến sự có mặt của phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa tại bàn hội
nghị. Do đó gần như anh em chúng tôi trong phái đoàn đều nắm vững được một số yếu
tố đủ để ứng phó với hai phái đoàn cộng sản trên bàn hội nghị thuộc Ban Liên Hợp
Quân Sự 4 Bên Trung ương mà không sợ rơi vào thế hạ phong bao giờ, mà vẫn giữ
được mối giao hảo tốt không lộ vẻ gì khác lạ đối với phái đoàn Quân sự Hoa Kỳ,
dù vẫn biết Việt Nam Cộng Hòa đã bị đồng minh của mình phản bội và bỏ rơi.
Như vậy, nhờ đã cùng nhau thảo luận, mổ sẻ và
nghiên cứu trước ở Cao Đẳng Quốc Phòng từng chương, từng điều và từng câu một của
bản văn Hiệp Định rồi, nên chúng tôi đã thấy rõ được phần nào những mục tiêu cần
phải tranh đấu cho đất nước trong giai đoạn nầy mặc dầu đã gần như thấy một
tương lai đen tối trước mặt. Một ngõ cụt với viễn ảnh mất nước cứ lởn vởn trước
mắt chúng tôi vì toàn bộ Hiệp Định chỉ có lợi cho phía cộng sản và hoàn toàn bất
lợi cho Việt Nam Cộng Hòa chúng ta.
Chuyện "ngừng bắn" không quan trọng bằng
chuyện chứng minh cho quốc tế thấy rằng Quân đội chánh quy Bắc Việt đang có mặt
tại Miền Nam Việt Nam. Nhưng cái khó là dù có chứng minh được điều nầy thì Việt
Nam Cộng Hòa chúng ta vẫn không sao đuổi họ ra khỏi lãnh thổ Miền Nam được, vì
trong bản Hiệp Định không có một điều khoản nào, môt câu, một chữ nào nói đến
quân đội chánh quy Bắc Việt. Mặc dầu vậy, lúc nào trên bàn hội nghị chúng tôi
cũng vẫn ra rả tấn công điểm nầy bất chấp sự yên lặng tảng lờ không trả lời hay
chối leo lẻo của phía Bắc Việt. Dĩ nhiên, những lý lẽ tấn công nầy chúng tôi đều
có kèm theo bằng chứng cụ thể (lời khai và hình ảnh của tù binh trẻ Bắc Việt, về
sinh quán, đơn vị, ngày xâm nhập vào Miền Nam, v.v...) và chúng tôi trao liên tục
cho Ủy Ban Quốc Tế nguyên văn để họ nắm rõ sự thật là lực lượng Việt Cộng ở Miền
Nam thực tế chỉ gồm toàn quân chánh quy Bắc Việt.
Tất cả anh em học viên Cao Đẳng Quốc Phòng chúng
tôi đã có một nhận định rất rõ ràng là phía Việt Nam Cộng Hòa mình phải gánh chịu
đủ mọi hậu quả tai hại của chánh sách và nhu cầu của Tổng Thống Nixon khi ông
ta "muốn rút chân ra khỏi Việt Nam, đưa tù binh Mỹ về nước" qua cuộc
hòa đàm Ba Lê và do đó chính ông đã khoán trắng cho Kissinger tự do đi thẳng với
Bắc Việt (Lê Đức Thọ) trong mật đàm và đi đêm với cộng sản, để cho ông nầy bước
cả qua đầu của mình lẫn hai phái đoàn Mỹ Việt ở bàn hội nghị Ba Lê, đến độ bị
Lê Đức Thọ xỏ mũi trao cho dự thảo bản văn của Hiệp Định để cho Bộ Ngoại Giao
Hoa Kỳ dịch ra nguyên văn không sót một chữ, một dấu phẩy nào.
Tôi chỉ xin nhắc lại một chuyện: "chuyện cái
bàn", để mọi người thấy rõ hơn. Chỉ riêng chuyện "hình dáng cái
bàn" không thôi, Hoa Kỳ cũng đã hoàn toàn nhượng bộ Bắc Việt mà không hiểu
được ý đồ thực sự của cộng sản. Từ "cái bàn tròn" với 3 phái đoàn Hoa
Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, và Bắc Việt, lại được Hoa Kỳ và Bắc Việt thỏa thuận biến
thành "cái bàn vuông" để có thêm một chỗ ngồi chánh thức cho cái gọi
là phái đoàn của CPLTCHMN, mà trên thật tế đây chỉ là một bọn du kích Việt Cộng
được Bắc Việt dựng lên từ phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre vào năm 1960, được Bắc
Việt âm mưu tiêu diệt gần hết trong trận tổng công kích Tết Mậu Thân, để Bắc Việt
ung dung thay thế gần như toàn bộ bằng lực lượng chánh quy Bắc Việt. Trong hai
năm dài bàn cãi về hình dáng của "cái bàn" ở Ba Lê, cuối cùng thì Hoa
Kỳ bị Bắc Việt đánh cho một cú "nốc ao", té gục để nhìn nhận ngay
CPLTCHMN là một "thực thể" ở Miền Nam Việt Nam trong khi theo Hiệp Định
Genève 1954 thì chỉ có 2 thực thể trên toàn cõi Việt Nam là VNDCCH (Bắc Việt)
và Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt)! Phía Việt Nam Cộng Hòa chúng ta chỉ còn biết
xuôi tay chào thua mà thôi, vì bị Đồng Minh của mình chơi trò dùng viện trợ để
trân tráo ép buộc phải chịu lép vế ê mặt ngồi chung bàn với bọn Việt Cộng!
Công việc được tiến hành một cách trôi chảy trong
suốt thời gian sáu mươi ngày được Hiệp Định ấn định cho Ban Liên Hợp Quân Sự 4
Bên nhưng trên thực tế thời gian nầy được kéo dài đến gần cuối tháng 3 năm 1973
thì phái đoàn Bắc Việt mới rút khỏi trại Davis, chỉ để lại một bộ phận liên lạc
khoảng 10 sĩ quan mà thôi. Từ đó, Hoa Kỳ vẫn đơn phương tiếp tục các chuyến bay
ra Hà Nội hàng tuần, mà họ gọi là "chuyến bay liên lạc" không được Hiệp
Định ấn định hay 4 Bên thỏa thuận trong thời gian hiệp thương trên bàn hội nghị
tại Tân Sơn Nhất. Phía Việt Nam Cộng Hòa không biết rõ về mục đích của chuyến
bay. Các sĩ quan Bắc Việt ở trại Davis vẫn được hoán chuyển thường xuyên nhờ
các chuyến bay nầy và có Trời mới biết họ và các sĩ quan Mỹ mang đi mang về Hà
Nội những gì. Trung tướng Trà cũng xin về Hà Nội và được thiếu tướng Hoàng Anh
Tuấn từ Lộc Ninh tới chánh thức thay thế.
Tôi còn nhớ trong thời gian nầy có hai sự kiện cần
phải được nhắc lại để chúng ta thấy rõ tâm trạng của tướng Trần Văn Trà. Ông vốn
là người sanh trưởng ở Quảng Ngãi thuộc Miền Nam Việt Nam nên tánh tình cũng
bình dị và cởi mở như người Miền Nam. Phụ tá của ông là đại tá Nguyễn Văn Sĩ
người gốc ở Cần Thơ, Tư Lệnh công trường 7 tức là sư đoàn 7 của Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam. Anh Sĩ nầy hồi học ở trường trung học Cần Thơ được anh em sinh
viên gọi là Sĩ Kiếng, và là chỗ quen biết với cá nhân tôi, lúc hai hội túc cầu
của hai trường Pétrus Ký và Cần Thơ gặp nhau trong các trận giao hữu hằng năm.
Cho nên khi trên bàn hội nghị mà bị bế tắc về con số tù binh phải được trao trả
thì tướng Trà bảo "anh Sĩ hãy chịu khó bàn thảo riêng với anh Nghĩa để
giải quyết". Thế là hai anh em chúng tôi kéo nhau ra câu lạc bộ Hoa Kỳ
ngay bên cạnh để tôi tha hồ "chiêu đãi anh bạn cũ'' đủ mọi loại bánh ngọt
của Mỹ mà tôi biết rằng anh rất thiếu. Ngoài ra tôi còn rỉ tai to nhỏ trao đổi
với anh bạn cũ của mình nhiều chuyện về cộng sản Bắc Việt, mà tù binh là một,
như sau :
- Đối với anh hay Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam thì con số tù binh mà anh muốn chúng tôi thả ra bao nhiêu
cũng được hết. Nhưng anh cũng dư biết là tù binh họ muốn thả ra nầy không phải
là người Miền Nam của chúng ta mà phần đông là dân Bắc Kỳ (tôi dùng thẳng danh
từ Bắc Kỳ với anh Sĩ). Và tôi cũng biết là các anh đều bị bọn Bắc Việt kềm kẹp
trong mọi hoạt động, ở mặt trận cũng như trên bàn hội nghị nầy. Nhưng hai anh
em mình và có lẽ cả tướng Trà cũng vậy, đều hiểu và thông cảm với nhau hơn, cho
nên hai anh em mình mới có dịp ngồi uống trà với nhau thoải mái ở đây. Vậy anh
muốn con số bao nhiêu, tôi chấp thuận cho anh bấy nhiêu. Với anh là cái gì cũng
được hết.
- Cám ơn anh, anh cho tôi
chừng 70 thôi, mà nửa nầy nửa kia. Tôi nói vậy là anh hiểu rồi phải không? Tôi
cũng muốn người Nam của chúng ta ra hết càng sớm càng tốt cho gia đình họ.
-Tôi hiểu rất rõ, anh bạn.
Và cứ thế tuần nào tướng Trà cũng tạo điều kiện cho
hai chúng tôi gặp nhau ít nhất là 1 lần. Đây chỉ là con số tù binh được 4 Bên
thỏa thuận mà thôi còn vấn đề trao trả thì do anh Phan Nhật Nam phụ trách tranh
đấu thẳng với cả hai phái đoàn cộng sản tại hiện trường, hoặc ở Lộc Ninh, hoặc ở
Bến Hải là địa điểm mà chúng tôi đã ép cộng sản phải nhận để Ủy Ban Quốc Tế Kiểm
Soát Đình Chiến ghi nhận, vì là tù binh chánh quy Bắc Việt, dù bên nhận là
CPLTCHMN. Vấn đề nầy cũng rất là gây cấn và không kém phần quan trọng, nên người
phụ trách công tác tranh đấu chánh trị với cộng sản ngay tại hiện trường trao
trả lúc đó là thiếu tá Phan Nhật Nam. Sau đó anh Nam đã viết luôn một cuốn
sách: "Tù Binh và Hòa Bình" rất có giá trị, được xuất bản và phổ biến
rộng rãi trước 1975 (2)
Ngoài ra trước khi rời khỏi Ban Liên Hợp Quân Sự 4
Bên, tướng Trần Văn Trà cũng có nhờ riêng tôi mua cho ông ta một máy thu băng
cassette và tất cả những băng cassette của tất cả những ca sĩ nam nữ của Miền
Nam để ông mang về. Tôi giúp ông mua đầy đủ hết không thiếu một bản nhạc nào kể
cả những bản nhạc tiền chiến mà sau nầy cộng sản Bắc Việt gọi là nhạc vàng Mỹ
Ngụy. (tiền mua gần 500 ngàn tôi nhờ Hoa Kỳ đài thọ).
(Nhân tiện tôi cũng xin mở
một dấu ngoặc ở đây để nói thêm về anh Sĩ nầy sau ngày 30/4/1975. Anh Sĩ được
thăng cấp thiếu tướng và cho giải ngũ sau ngày Ban Quân Quản được giải tán tức
là chỉ trước ngày cộng sản tuyên bố thống nhất cả hai miền Nam Bắc. Sau khi ra
khỏi tù năm 1987, tôi có xuống Cần Thơ và đích thân vào gặp được lại anh Sĩ tại
sân quần vợt của thành phố. Anh cho biết là từ năm 1977 anh "bị phục
viên" (giải ngũ) với cấp bậc thiếu tướng và anh về sống ở Cần Thơ như các
anh em bị phục viên khác của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và tất cả các cán bộ
chỉ huy của sư đoàn của anh đều được cán bộ đảng viên từ Miền Bắc vào thay thế
hết. Tướng Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống,v.v... đều lần lượt "bị phục
viên" khi họ giải tán Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam).
Nhắc lại trong thời gian hoạt động của Ban Liên Hợp
Quân Sự 4 Bên, hầu hết các túi da beo nầy tiếng là căn cứ của CPLTCHMN nhưng thực
tế là do Quân đội chánh quy Bắc Việt chiếm giữ và sử dụng như điểm xuất phát của
các đại đơn vị của họ và mỗi ngày họ cứ bung ra trái với điều quy định của Hiệp
Định. Do đó không khi nào có tình trạng ngưng bắn ở khắp Miền Nam Việt Nam nhất
là ở vùng xôi đậu Miền Đông Nam Bộ, giao tiếp ngay với đường mòn Hồ chí Minh là
con đường xâm nhập chính mà Bắc Việt đang sử dụng. Trong lúc đó, "không ảnh"
vẫn cho thấy từng đoàn xe dài của Bắc Việt có cả chiến xa và Pháo Binh cơ giới
cứ tiếp tục rầm rộ tiến vào hướng Lộc Ninh một cách tự do giữa ban ngày. Hoa Kỳ
nhất định không can thiệp. Mặc dầu chúng ta có yêu cầu, nhưng phái đoàn Hoa Kỳ
cho biết là Chánh Phủ Hoa Kỳ đã có quyết định không tái can thiệp vào công việc
nội bộ của Miền Nam Việt Nam như điều 4 của Hiệp Định đã có qui định. Mặc dầu cả
Hoa Kỳ và Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đều được chúng tôi nêu rõ nhiều lần
trong phản kháng với hình ảnh cụ thể là BắcViệt đã có hành động vi phạm trắng
trợn (điều 7, Chương I) nầy của Hiệp Định.
Trong khi đó Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến
thì lại hoàn toàn bất lực không tiến hành được bất cứ một cuộc điều tra vi phạm
ngừng bắn nào trong nhiệm vụ chính yếu là "điều tra về việc ngừng bắn giữa
các Bên ở Miền Nam Việt Nam" đúng theo điều 3(c), chỉ vì Lê đức Thọ đã quá
khôn ngoan, khóa tay Ủy Ban bằng nguyên tắc "nhất trí" (đồng thuận) của
điều 18f trong Hiệp Định mà Kissinger không bao giờ thấy được (mà có thấy chắc
ông ta cũng làm ngơ). Hai thành viên cộng sản của Ủy Ban là Ba Lan và Hung Gia
Lợi thì luôn luôn dựa vào nguyên tắc "nhất trí" của điều khoản nầy để
cản trở hai phái đoàn Gia Nã Đại và Nam Dương trong công tác chính của Ủy Ban
là điều tra, mà nếu Gia Nã Đại hay Nam Dương đơn phương dám liều lĩnh "mon
men" bay vào khu vực da beo của cộng sản để điều tra vi phạm ngừng bắn mà
không có sự đồng thuận của một trong hai thành viên cộng sản thôi thì cũng đủ để
cho Bắc Việt cho bắn hạ trực thăng ngay, bất kể sự có mặt của sĩ quan Bắc Việt
hay của CPLTCHMN trên trực thăng có sơn rõ ràng màu và dấu hiệu của Ủy Ban Quốc
Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Điều nầy đã xảy ra trong những ngày đầu tháng 4/ 1973
trên vùng trời Bình Chánh (Chợ Lớn) để răn đe hai thành viên Gia Nã Đại và Nam
Dương. Nếu may mắn mà thành viên quốc tế nào còn sống thì së bị cộng sản bắt nhốt
và hành hạ đối xử như tù binh thường với tội dám bay vào "vùng trời"
của họ mà không xin phép. Ngoài ra, Ủy Ban đã chẳng những không khai triển vào
đóng được ở các điểm được Hiệp Định dự trù như Lao Bảo, Vị Thanh, Đức Cơ, Xa
Mát, Ben Hét, Tri Tôn, mà còn phải nằm yên bất động khắp nơi suốt mấy tháng khiến
cho Gia Nã Đại quá ngao ngán và bất mãn đã phải rút chân ra khỏi Ủy Ban và về
nước vô điều kiện, sau lần bị bắn thứ hai ở gần vùng Khe Sanh ngày 7 tháng 5/73
khi họ định vào tìm vị trí đóng quân cho Tổ Quốc Tế ở Lao Bảo. Sau đó vương quốc
Iran được Hoa Kỳ mời vào thay chân cho Gia Nã Đại, và trong suốt thời gian từ
1973 cho đến 30 tháng 4 /1975, coi như Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến chỉ
có mặt ở các đô thị Việt Nam để cho có mặt trong các buổi tiệc tùng, du hí mà
thôi .
Đối với Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, ngoài
các tiệc tùng do Hoa Kỳ tổ chức khoản đãi Ủy Ban và Ban Liên Hợp Quân Sự 2 Bên,
Khối Ngoại Vụ chúng tôi chỉ liên lạc và trao đổi tin tức với 2 phái đoàn Nam
Dương và vương quốc Iran. Nhưng thỉnh thoảng Trung Tá Thiện của chúng tôi cũng
thường xuyên liên lạc với ông Polgar trưởng toán CIA của tòa đại sứ Hoa Kỳ để
biết được tin tức chính xác về đường lối và hành động của Hà Nội, qua đại tá
Toth của Hung Gia Lợi, người mà ông Polgar thường hay tiếp xúc.
Riêng cá nhân tác giả bài nầy đã được phái đoàn Nam
Dương hai lần giúp đỡ trong công tác tình báo chiến trường:
Vào cuối năm 1974, như thường lệ hằng tháng tôi
sang thăm Đại tá Abbas, phó trưởng phái đoàn Nam Dương trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm
Soát Đình Chiến ở Tân Sơn Nhất. Ông nầy vốn là sĩ quan Phòng Nhì thuộc Bộ Tổng
Tham Mưu Quân đội Nam Dương. Sau tuần rượu khai vị thân mật, ông đưa tôi vào
Phòng Tình Hình của phái đoàn, kéo tấm màn vải lên và cho tôi xem Bản Đồ Chiến
Trận của Bắc Việt gồm toàn bộ các đại đơn vị chánh quy Bắc Việt. Ông chỉ cho
tôi thấy vị trí của từng đơn vị cấp sư đoàn của Bắc Việt đang đóng quân hay
đang di chuyển về vùng Cao Nguyên Trung Phần, tức là Vùng 2 Chiến Thuật của Miền
Nam Việt Nam. Và sau đó ông ước tính là họ së tiến hành những trận đánh lớn ở
vùng nầy, có thể là vào mùa Xuân năm 1975. Tôi không cần biết tại sao ông có được
những thông tin nầy và có chính xác hay không vì trước đó chúng tôi đã có được
những "không ảnh" nhận được từ phái đoàn Hoa Kỳ cho thấy tất cả những
sự di chuyển công khai và rầm rộ bằng cơ giới của các đoàn xe Bắc Việt đều tiến
về hướng Lộc Ninh, được 4 Bên mặc nhiên coi đó là thủ đô của CPLTCHMN. Tất cả đều
phù hợp với nhận định và ước tính của đại tá Abbas. Tôi xin phép ông bạn Abbas
cho tôi sao chép lại bản đồ nầy trên giấy kiến. Xong xuôi tôi mới từ giã ra về.
Sau đó, tôi tức tốc gọi cho đại tá Võ Văn Cầm ở Phủ Tổng Thống xin vào gặp ngay
Tổng Thống Thiệu. Tôi vào Dinh Độc Lập đúng 3 giờ chiều ngày 12 tháng chạp năm
1974 với các không ảnh và bản đồ chiến trận vừa sao chép được ở phái đoàn Nam
Dương. Tôi và đại tá Cầm trải bản "overlay" lên bản đồ 1/100000 của Tổng
Thống và tôi lập lại toàn bộ những ước tính tình báo của đại tá Abbas thuộc
phái đoàn Nam Dương. Nhưng rồi Tổng Thống Thiệu lại bảo tôi mang sang cho tướng
Đặng Văn Quang, điều mà tôi hoàn toàn không thi hành, vì thấy Tổng Thống đặt nhẹ
vấn đề. Điều nầy tôi có cho đại tá Cầm biết.
Lần thứ hai vào khoảng giữa tháng giêng năm 1975, một
lần nữa tôi lại sang gặp đại tá Abbas theo lời mời của ông nầy qua điện thoại.
Lần nầy cũng giống như lần trước, sau phần nghi lễ xã giao ngắn gọn ở phòng
khách ông ta có vẻ nóng ruột đưa ngay tôi vào phòng tình hình để cho xem bản đồ
đóng quân của các sư đoàn chánh quy Bắc Việt chung quanh hai tỉnh Kontum và Ban
Mê Thuột. Đặc biệt hôm nay đại tá Abbas lại ước tính rất rõ ràng mục tiêu tấn
công sắp tới của Bắc Việt së là huy hiếp Pleiku bằng hai cuộc tấn công mạnh vào
tỉnh Kontum hay vào tỉnh Ban Mê Thuột nhưng Ban Mê Thuột là chắc hơn để có thể
chận đường tiếp viện nếu có từ Pleiku. Tuy không nói rõ thời gian nhưng ông cho
biết chắc chắn là rất gần đây thôi. Tôi lại sao chép tin tức một lần nữa và
cũng xin gặp ngay Tổng Thống Thiệu để trình bày. Lần nầy thì ông Thiệu bảo đại
tá Cầm đích thân trao cho Đại tướng Cao văn Viên. Không biết Tổng Thống có dặn
thêm anh Cầm gì nữa không thì tôi không biết. Nhưng, tôi tin chắc rằng Tổng Thống
đã đặc biệt chú ý đến tình hình của Vùng 2 Chiến Thuật, với sự có mặt của ít nhất
là 3 sư đoàn bộ binh Bắc Việt trong đó có sư đoàn thiện chiến 308 cùng với một
sư đoàn thiết giáp và một sư đoàn pháo binh hạng nặng và trung đoàn pháo binh
phòng không. Quả nhiên mục tiêu tấn công của Bắc Việt là Ban Mê Thuột vào đêm
10 tháng 3 năm 1975 vào khoảng 3 giờ sáng. Và coi như Ban Mê Thuột chánh thức bị
cộng sản chiếm hoàn toàn ngày hôm đó.
Và... Ban Liên Hợp Quân Sự 2 Bên tiếp tục sống ngoắc
ngoải sau ngày 10 tháng 3 năm 1975 tức là ngày Bắc Việt tiến chiếm Ban Mê Thuột,
rồi biến cố đẫm máu trên con đường liên tỉnh lộ 7B, cộng sản Bắc Việt thẳng tay
giết dân lành không một tấc sắt trong tay trên đường chạy loạn, trên con đường
độc đạo đã bỏ hoang từ nhiều năm, sau khi Tổng Thống Thiệu nhắm mắt đánh phé với
Hoa Kỳ bằng cách ra lệnh rút bỏ Vùng 2 Chiến Thuật qua một phiên họp ngắn ở Nha
Trang với sự có mặt của đại tướng Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm và Tư lệnh
Vùng 2 Trần Văn Phú. Tôi đã có mặt ở Nha Trang ngay ngày hôm đó, nhưng không phải
để chứng kiến phiên họp cấp cao nầy, mà là để được nghe trung tướng Phạm Quốc
Thuần ở Trung Tâm huấn luyện Đồng Đế thuật lại đầy đủ tình hình và diễn tiến của
phiên họp lịch sử ngày hôm đó..
Sau khi thua cây phé quá nặng nầy (mất cả Vùng 2
Chiến Thuật và Quân Đoàn 2), coi như QLVNCH lần lượt bị tan rã từ từ mà không
có một trận đánh nào từ Huế, Đà Nẵng cho tới Nha Trang... Chỉ còn có Xuân Lộc với
những pha chiến đấu anh dũng duy nhất của sư đoàn 18 bộ binh và lữ đoàm 3 thiết
giáp, được tăng cường một số đơn vị Biệt động Quân và Nhảy Dù, với sự yễm trợ
tích cực của Không Quân Chiến Thuật trong những ngày cuối tháng 4/75, nhưng rồi
vì thiếu vũ khí đạn dược, dù có đầy đủ tinh thần chiến đấu chúng ta vẫn phải chịu
cúi đầu với số mạng hẩm hiu của một Quốc Gia và một Quân Đội bị Đồng Minh Hoa Kỳ
của mình bỏ rơi một cách quá bỉ ổi và tàn nhẫn, không một luyến tiếc... chỉ vì
quan điểm của cường quốc đối với quốc gia nhược tiểu:
"Quyền
Lợi mới là chánh yếu, là trường cửu, còn Đồng Minh chỉ là Tạm Thời... giai đoạn"
Và Ban Liên Hợp Quân Sự chúng tôi bị pháo kích suốt
đêm 29 tháng 4, từ 9 giờ 30 tối đến rạng sáng ngày hôm sau với hai dãy nhà
ngang của hai Khối Nghị Hội và Ngoại Vụ bị cháy dưới sự chứng kiến đầy bất lực
của chúng tôi (cá nhân tôi và đại tá Võ Văn Ba), và với khoảng 10 nhân viên bị
thiệt mạng không cứu ra được. May mắn là chúng tôi kịp chạy ra nằm ngay dưới đường
rãnh bên đường trước trụ sở của Ban Liên Hợp Quân Sự nên đã tránh được không bị
thương và cũng không bị kẹt trong đám cháy. Do đó như tôi đã nói ở phần đầu là
Ban Liên Hợp Quân Sự được chánh thức khai tử ngày 29 tháng 4 năm 1975.
Để kết thúc bài nầy, chúng tôi xin nói rõ là đứa
con út của QLVNCH, là đơn vị Ban Liên Hợp Quân Sự của chúng tôi đã được khai tử
ngày 29 tháng 4 năm 1975, đồng thời cuộc đời binh nghiệp của cá nhân Dương Hiếu
Nghĩa coi như cũng bị chấm dứt ngay ngày quốc hận 30/4/75 cùng chung với số phận
của Miền Nam Việt Nam và của tất cả anh chị em trong QLVNCH qua sự xâm lăng tàn
bạo và trắng trợn của cộng sản Bắc Việt được chuẩn bị rất chi ly từ lâu với bản
Hiệp Định Ba Lê 27 tháng giêng 1973, bằng đường lối bá đạo, bịp bợm và tàn ác
trong đó có sự tự nguyện tiếp tay đắc lực của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã quyết định sai
lầm là bội ước, phản bội đồng minh, dẫn đến sự bức tử của Việt Nam Cộng Hòa và
sự tan rã của QLVNCH.
Tiểu bang Washington ngày 15 tháng 11 năm 2004
Dương Hiếu Nghĩa
Ghi Chú:
(1) .- Bốn Cha Ba Mẹ: Nguyên thủy thì cuộc hòa đàm
Ba Lê chỉ có "Ba Mẹ" là Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa và VNDCCH (Bắc Việt).
Nhưng về sau có thêm cái gọi là CPLTCHMN (Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam)
được cộng sản Bắc Việt khai sanh và đòi Hoa Kỳ phải nhận nó như một thực thể
như Việt Nam Cộng Hòa, mặc dầu nó chỉ là một sự thay tên đổi họ của nhóm Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam, nên gọi là "Bốn Cha".
(2) "Quyển "Tù Binh và Hòa Bình" của
nhà văn Phan Nhật Nam thiếu tá thuộc Ban Tù Binh trong Ban Liên Hợp Quân Sự 4
Bên, đã được xuất bản tại Việt Nam trước 1975. Sau khi ra khỏi nhà tù cộng sản
vào cuối thập niên 80, anh được định cư ở Hoa Kỳ và quyển Tù Binh Và Hòa Bình
được tái bản đến 2 lần, lần thứ hai vào năm 1988 do nhà xuất bản Đông Tiến, San
jose, California. Đồng thời, tác phẩm Tù Binh và Hòa cũng đã được dịch sang Anh
ngữ với tựa đề: "Peace and Prisoners of War", được lưu giữ trong các
thư viện khắp Hoa Kỳ.
-0-0-0-0-
Hồi Ký "Dang
Dở
của cựu
Đ/tá Dương Hiếu Nghĩa ...
(Mời đọc - những ai chưa đọc - nên đọc – đọc rồi cũng nên đọc lại
- để biết những sự thật . –nhiều người
chưa biết Patrick Willay).
Chúng tôi xin tạm chấm dứt mấy trang "Hồi Ký Dang Dở"
ở đây, và xin thành tâm cầu nguyện cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng
ta sớm được vĩnh viễn thoát khỏi ách độc tài đảng trị của bọn cộng sản vô thần
khát máu và tàn bạo nầy.
Dương Hiếu Nghĩa
Sau ngày quốc hận 30/4/1975, có một
số anh chị em Quân Dân Cán Chánh và gia đình, tuy may mắn được di tản ra nước
ngoài, nhưng không có dịp "may" ở lại để chứng kiến tận mắt những hành động
ngu xuẩn, tàn ác đến man rợ của những người cộng sản Việt Nam từ miền Bắc vào,
tự xưng là để "giải phóng cho đồng bào ruột thịt đói rách ở Miền Nam "; của
những người cùng uống nước sông Cửu Long nhưng tự hào được cộng sản Bắc Việt
cho "tạm mang dép râu, đội nón cối" (mà không biết!). Ở lại để chứng kiến
những con "cọp 30", những người Miền Nam hống hách được cộng sản cho mang băng
đỏ trên tay áo, thuộc hệ thống nằm vùng, và nhất thời làm tay sai cho cộng
sản!!!
Có thể nói đây là một trang sử bi thảm nhất
của người dân Miền Nam Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói
chung.
Những đồng bào nào được may mắn rời khỏi Việt Nam trước ngày 30 tháng 4/1975,
và những em cháu thuộc những gia đình nầy (tính đến nay cũng từ 21 tuổi trở
lên, kể cả những con em của tất cả người Việt Nam được chào đời trên các nước
phương Tây tự do) không bao giờ hình dung được cái ngày
lịch sử đen tối nầy, vì cộng sản Việt Nam đã cố tình sửa
lịch sử ngay từ đầu chiến dịch tiến chiếm Miền Namđể giành lấy cho đảng
cái chánh nghĩa "giải phóng dân tộc".
Cho đến giờ nầy dù chúng tôi có nói lên những sự việc thật sự đã
xảy ra từ trước và sau ngày 30/4/75, thì bà con nào đã rời khỏi đất nước trước
ngày lịch sử đó (nhất là thế hệ sau 75) cũng không ai muốn tin và chịu tin đó là sự thật. Một phần vì có người còn cho chúng tôi thuộc thành phần chống
cộng, thù ghét cộng sản nên chỉ nhằm tuyên truyền chống cộng; một phần vì bà
con không ai ngờ là"cùng là người Việt Nam với nhau
ai lại có tâm địa vô nhân đạo, phi đạo đức và phi dân tộc đến như thế
được."
Do đó những gì chúng
tôi kể lại đây không hẳn là những trang "hồi ký" của riêng cá nhân mình mà
thật sự là những gì đã xảy ra tại Saigon và những vùng phụ cận trong những
ngày trước và sau 30/4/1975, kể lại trung thực những sự việc mà chính bản thân
chúng tôi vừa là một nạn nhân, vừa là nhân chứng, những sự việc mà chính mắt
chúng tôi đã thấy, chính tai chúng tôi đã nghe..., để tạm gọi là "luận cổ"
(nói về chuyện xưa), để những anh em bạn già sống tha phương cầu thực chúng ta
có đầy đủ yếu tố mà trao đổi nhận định, và để các thế hệ con cháu chúng mình
có thêm sự hiểu biết chính xác hơn về bản chất, về con người, về đường lối chủ
trương và chánh sách của người cộng sản Việt Nam, mà "suy kim" (suy biết được
cái hiện tại). tức là để thấy được việc làm của người cộng sản trong hiện tại
và trong tương lai.
Người dân Miền Nam
chúng ta gọi ngày 30/4 là "ngày quốc hận" vì Nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng
ta bị xóa tên khỏi bản đồ của Thế Giới nói chung, và củaThế Giới Tự Do nói
riêng, từ ngày 30/4/1975. Bởi vì cộng sản Bắc Việt đã xé bỏ Hiệp Định Ba Lê
1973 mà chúng đã vừa long trọng ký kết, vừa xua quân công khai tiến chiếm Miền
Nam Việt Nam. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến ngày mất nước, khách quan có,
chủ quan có, xa, gần đều có. Chúng tôi không muốn bàn thêm ở đây, vì trong gần
30 năm qua đã có rất nhiều sách báo, hồi ký, Việt có, Mỹ có, Pháp có, tất cả
đều có phân tách rất rõ ràng rồi. Chúng tôi chỉ muốn ghi lại một vài mẩu
chuyện thật, vui buồn lẫn lộn của bản thân, có liên quan đến ngày quốc hận
nầy, để gọi là đóng góp thêm một ít tài liệu vào trang lịch sử đau thương của
Đất Nước. .....................
Ngày 1 tháng 2 năm
1973 Tôi và một nhóm anh
em sĩ quan cấp tướng tá thuộc Khóa 5 Cao Đẳng Quốc Phòng được thuyên chuyển về
Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương vừa được thành lập theo điều khoản của Hiệp
Định Ngừng Bắn Ba Lê, được ký kết giữa 4 Bên ngày 27 tháng giêng 1973 tại Ba
Lê.
Từ hơn một tháng qua,
anh em học viên Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi được lệnh chia nhau từng toán,
sửa lại từng điều khoản một, trong bản thảo của cái gọi là Hiệp Định Ngừng Bắn
sắp được 4 Bên ký kết ở Ba Lê (Pháp). Vì qua nghiên cứu, Chánh Phủ không thấy
có một câu nào, một đoạn văn nào trong bất cứ điều khoản nào mà không có lợi
hoàn toàn cho phía Bắc Việt, ngược lại chỉ có hại hoàn toàn cho Miền Nam Việt
Nam mà thôi. Cũng qua nghiên cứu anh em học viên chúng tôi đều thấy là: toàn
bộ bản văn tiếng Việt của Hiệp Định nầy rõ ràng là tác phẩm của cộng sản Bắc
Việt được Lê đức Thọ trao cho Kissinger dịch ra tiếng Anh, một bản dịch "thật
sát nghĩa" từ ý lẫn lời văn của tác giả Miền Bắc!
Đúng
vào ngày 27 tháng giêng /1973 sau khi ký kết Hiệp Định cả Chánh Phủ và chúng
tôi đều hết sức thất vọng vì không thấy được một dấu vết sửa chữa nhỏ nào cuối
cùng được thực hiện trước khi các Bên ký kết.
Tôi
muốn ghi lại chi tiết nầy để chúng ta cùng thấy được là nước VNCH của chúng ta
đã bị Đồng Minh của mình phản bội, bán đứng cho cộng sản Bắc Việt ngay từ khi
họ dàn xếp được Hội Nghị Paris (có cả MTGPMN là một trong 4 Bên ở Bàn Hội
Nghị) một ít lâu sau Tết Mậu Thân 1968, để rút chân ra khỏi cuộc chiến với một
danh từ thật kêu là "Việt Nam Hóa Chiến Tranh". ....................
Ngày 28 tháng 4/1975:
8 giờ sáng, Đại tá Nguyễn Hồng Đài
từ tư dinh của Đại tướng Dương văn Minh điện thoại trực tiếp cho tôi nhờ đưa
một phái đoàn đại diện cho Tổng Thống đến gặp phái đoàn cộng sản Bắc Việt và
Việt Cộng (MTGPMN) ở trại Davis. Phái đoàn gồm có Luật sư Nguyễn Văn Huyền,
Phó Tổng Thống, Luật sư Vũ Văn Mẫu Thủ Tướng và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh,
quyền Tham mưu trưỏng QLVNCH từ ngày 28 tháng 4/75.(một bộ hạ thân tín của
tướng Dương Văn Minh ở Bộ Tư Lệnh Hành Quân từ 1955, sau nầy mới được biết là
đã làm tay sai cho CS từ đầu thập niên 70 và từ đó đã trở thành một Việt Cộng
nằm vùng rất đắc lực của Bắc Việt.) Khối Ngoại Vụ chúng tôi cho biết là CSBV
và Việt Cộng không tiếp phái đoàn, nhưng đại tá Đài cho tôi biết là "ông già
nhấn mạnh là tôi nên cố gắng, vì cuộc gặp mặt nầy rất quan trọng". Tôi đành
phải đích thân gọi vào trại Davis, gặp đại tá Sĩ để điều đình và cuối cùng
phái đoàn của Tổng Thống Minh "được đồng ý cho vào trại Davis gọi là để viếng
thăm hai phái đoàn cộng sản Bắc Việt và CPLTMN" (nguyên văn lời đại tá Sĩ trực
tiếp nói với tôi qua điện thoại).
(Xin mở một dấu ngoặc
ở đây để nói rõ về anh đại tá Sĩ nầy. Tôi biết đưọc anh Nguyễn Văn Sĩ trước
học ở trường Collège Cần Thơ, có biệt danh là "Sĩ Kiến, Theo bản trận liệt mà
chúng ta biết được thì anh Sĩ là Tư Lệnh sư đoàn 7 bộ binh của MTGPMN. Chúng
tôi hai đứa gặp nhau và nhìn lại nhau ở cương vị đối nghịch nhau tại bàn hội
nghị Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên ở Tân sơn Nhất. Nhờ đó mỗi khi gặp bế tắc
trong bất cứ vấn đề gì ở bàn Hội Nghị, nhất là về trao trả tù binh thì anh Sĩ
lại được tướng Tràn văn Trà cho làm đại diện cho Cộng sản để "mật đàm với đại
tá Nghĩa" nhằm tìm ra giải pháp. Đến năm 1989, sau khi ra khỏi trại tù cải
tạo, nhân một dịp đi xuống Cần Thơ, tôi lại được gặp anh Sĩ vài lần ở ngay sân
quần vợt Cần Thơ, và đươc biết là anh đã rời khỏi quân ngũ từ 1977, vì lý do
đảng tịch, và là người Miền Nam nên anh phải "đi một xuồng" với tướng Trà).
Phái đoàn của Luật sư
Huyền vào trại Davis lúc 9 giở 30 và rời khỏi trại hồi 10 giờ hơn. Tôi tò mò
muốn biết kết quả của cuộc gặp gỡ nầy, nhưng đại tá Đài không cho biết vì anh
không được biết hay vì anh không muốn tiết lộ, hay vì một lý do nào khác? Qua
đại tá Sĩ thì tôi cũng không được biết gì hơn ngoài câu "như đã thỏa thuận với
anh hồi nãy", tức phải được hiểu ngầm là "chỉ có viếng thăm xã giao mà không
có bàn đến các vấn đề gì khác".
Tò mò hơn, qua điện
thoại với trung tá chánh văn phòngTrương Minh Đẩu, tôi được biết là Ông Dương
Văn Minh đã "mò" lên tận vùng Long Khánh (không rõ chính xác ở đâu) với liên
lạc viên Dương Văn Nhật để gặp Lê đức Thọ từ mấy ngày trước, qua đường dây
liên lạc đặc biệt nào đó mà anh không biết.
(Dương Văn Nhật là em
ruột của tướng Minh, tập kết ra Bắc năm 1954, về Nam với quân hàm trung tá của
MTGPMN, vào ở ngay Dinh Hoa Lan tại đường Trần quý Cáp với gia đình tướng Minh
từ lâu, dĩ nhiên trong nhiệm vụ sĩ quan liên lạc của cộng sản.)
Vẫn theo lời anh Đẩu
thì sau khi phái đoàn của ông Nguyễn Văn Huyền về đến Dinh Hoa Lan, ông Minh
họp Hội đồng Chánh Phủ và cho biết là MTGPMN đã bác bỏ đề nghị của ông nhằm
tìm một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam. Vì vậy ông đã quyết định là
"chỉ còn một cách duy nhất là "đầu hàng vô điều kiện" mà thôi.
4 giờ chiều : Tôi muốn nhắc lại ở
đây một đoạn đàm thoại ngắn giữa tôi và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ qua điện
thoại mà ông gọi tôi lúc 4 giờ chiều ngày hôm nay từ tư dinh của ông ngay
trong căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất.
Anh còn ở đây chưa đi
đâu sao anh Nghĩa? Thưa thiếu tướng
chưa, vì tôi còn trách nhiệm phải lo cho gia đình các anh em quân nhân của Ban
Liên Hợp đi cho xong rồi tôi mới đi. Dự trù chiều mai 29 thưa thiếu tướng.
Gia đình anh đi chưa?
Thưa thiếu tướng đã
đi xong đêm 26 vừa rồi. Còn thiếu tướng sao giờ nầy còn ở đây? Tôi
và gia đình đang sắp sửa đi đây, Anh Tiên (chuẩn tướng Phan Phụng Tiên) cho
phi cơ đưa chúng tôi đi nhưng anh Tiên thì còn ở lại, đi sau. Nói
đến đây ông hơi ngập ngừng chừng một phút rồi mới nói tiếp: Phải
đi chớ ở lại đây sao được anh Nghĩa? Tôi vừa mới từ nhà ông Minh về đây. Theo
lời ông Minh nói với tôi lúc nãy thì chúng ta coi như đã, mất hết rồi không
còn quyền gì nữa hết, anh Nghĩa, kể cả quyền làm chánh trị!..., Ông Minh đã
nói thẳng cho tôi như thế. Lúc này thì mình còn ở lại đây để làm gì nữa anh
Nghĩa? Nói tới đây ông sụt
sùi và tôi nghe có tiếng khóc nghẹn ngào của ông qua điện thoại. Tôi nghĩ có
lẽ ông vừa bực tức ông Minh vừa bực tức vì một đời ngang dọc của ông coi như
bị trói cả hai tay trong lãnh vực quân sự lẫn chánh trị.. . . và xúc động thấy
mình sắp phải rời khỏi quê hương. Không thấy tôi nói gì
nữa ông nói tiếp:
Vậy tôi đi hôm nay
nghe, anh cũng nên đi luôn đi, coi chừng đi không kịp nữa đó. Anh Tiên chắc
cũng đi sau tôi. Còn sắp xếp cho anh em Không quân nữa, chắc phải đưa tất cả
phi cơ đi cho hết. Thôi anh ở lại đi sau nghe, chúc anh may mắn. Xin
chúc thiếu tướng và gia đình thượng lộ bình an. Cám ơn anh.
Một lúc sau đó anh
Phan Nhật Nam về gặp tôi ở Ban Liên Hợp xác nhận là gia đình ông Kỳ vừa bay ra
Hạm đội 7 bằng trực thăng và anh cũng nhân đó hỏi tôi đã nói gì với ông Kỳ làm
cho ông khóc vậy? Tôi đáp : Có lẽ ông cảm động
trước khi rời khòi quê hương, và bực tức vì lời nói của ông Minh Dương chớ tôi
thì không có nói gì cả. Từ sáng sớm hôm nay,
căn cứ Không Quân Biên Hòa được lệnh dời hết về Tân Sơn Nhất tất cả phi cơ các
loại, từ phi cơ chiến đấu, vận tải đến trực thăng các loại, tất cả nhân viên
phi hành và không phi hành đều lục tục kéo nhau về hết ở đây cho đến gần 7 giờ
chiều mà vẫn chưa hết. Người nào có gia đình hay thân nhân ờ vùng Sài Gòn Chợ
Lớn Gia định thì được phép về nhà nhưng toàn bộ vũ khí cá nhân đều phải gởi
lại hết ờ Tân Sơn Nhất. Như thế là cả Vùng 3 và Biệt Khu Thủ Đô chỉ còn có mỗi
căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất mà thôi.
6 giờ chiều
Chúng tôi vào D.A.O.
đưa một toán 200 người thuộc gia đình sĩ quan và hạ sĩ quan /Ban Liên Hợp Quân
sự ra phi cơ trong chương trình di tản (toán thứ 8).
Chờ
cho phi cơ cất cánh xong (9 giờ) chúng tôi mới trở về lại Ban Liên Hợp, vẫn
phải trực như mọi người và mọi đơn vị.
10 giờ đêm: Từ 10 giờ đêm, Bắc
Việt bắt đầu pháo kích và bắn hỏa tiễn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Ngay ban
chiều vào khoảng 7 giờ, họ đã cho một loạt tác xạ điều chỉnh vào khu vực sân
bay rồi : tất cả 5,6 quả và 2 hỏa tiễn đều rơi vào khu dân cư ở xóm Trương
minh Giảng và Lăng Cha Cà ở bên ngoài khu vực sân bay. Nhưng từ 10 giờ đêm trở
đi thì tất cả đạn pháo nặng nhẹ từ 130 ly đến bích kích pháo 82 ly và hỏa tiễn
đều rơi vào các đường bay, các ụ chứa phi cơ và các kho bom đạn cũng như Bộ
chỉ huy các Không đoàn, Riêng Ban Liên Hợp chúng tôi cũng được hưởng mấy trái
hỏa tiễn và đạn pháo 130 ly làm cho 3 dãy nhà bị cháy và gây tử thương vài
binh sĩ, làm bị thương một số khác
Chúng tôi và đại tá
Ba ra ngoài đường thoát nước lộ thiên bằng xi măng trước văn phòng nằm tránh
đạn. Chiếc xe của tôi đậu cách chỗ nằm của chúng tôi chừng 15 thước bị một
mảnh đạn và bốc cháy mà chúng tôi không dám chữa. Từ đó, Bắc Việt pháo kích
từng chập từng chập cách nhau chừng 15 phút, đủ loại, không ngừng cho đến sáng
hôm sau. Hầu như không có phi cơ quan sát hay tiềm kích nào cất cánh lên được
suốt đêm nay, và cũng không nghe thấy có tiếng súng phản pháo nào.
Riêng trại Davis của
hai phái đoàn cộng sản, cách văn phòng chúng tôi chừng 100 thước, thì không bị
một quả đạn nào, tất nhiên đây là vị trí của tiền sát viên Bắc Việt giúp điều
chỉnh tác xạ suốt đêm nay thật chính xác, vì trong 2 năm ở đây họ đã nắm rõ
từng vị trí trong sân bay nầy rồi!
Ngày 29 tháng 4:
9 giờ sáng:
Chúng tôi qua Phòng
họp của Ban Liên Hợp Quân sự không bị trúng đạn pháo, từ đó mới xử dụng được
đường dây điện thoại để báo cáo đi các nơi về thiệt hại vật chất và nhân mạng
đêm qua..
Đến 9 giờ sáng thì có
một chiếc trực thăng Mỹ (sơn toàn trắng) đáp xuống ngay trước phòng họp để bốc
chúng tôi đi. Nhưng không hiểu sao tôi lại không chịu đi. Và tôi cho trực
thăng nầy di tản 6 sĩ quan của toán thanh tra ngừng bắn, người Nam Dương.
Tôi vẫn còn nhớ ơn
đại tá Abbas, Phó trưởng đoàn và trưởng phòng Tình Báo của phái đoàn Nam Dương
nầy đã 2 lần đích thân kín đáo trao cho tôi bản đồ trận liệt ghi rõ tiến trình
xâm nhập vào Miền Nam của đầy đủ 16 sư đoàn chánh quy bộ binh Bắc Việt và các
sư đoàn thiết giáp và sư đoàn pháo binh nặng, vừa được cập nhật vào đầu tháng
giêng năm 1975.
- lần đầu ngày 3
tháng giêng 1975. (tôi đích thân mang tay lên trình cho Tổng Thống Thiệu ngày
4 tháng 1, với lời giải thích miệng rất đầy đủ theo đúng tin tức tình báo mà
phái đoàn Nam Dương đã sưu tầm rất chính xác và rất đầy đù, (nhưng sau đó tôi
đã không thi hành lệnh của Tổng Thống, chỉ vì ông bảo tôi phải mang sang cho
Trung tướng Đặng văn Quang)
- lần thứ hai ngày 1
tháng 3, với chú thích về mục tiêu tiến chiếm dự trù của cộng sản là Ban Mê
Thuột. Đây là tin tức hết sức chính xác về mục tiêu và thời điểm tấn công của
Bắc Việt: tiến chiếm Ban Mê Thuột vào tháng 3/75. Tôi cũng đã mang tay bản đồ
và tin tức nầy đến trình cho Tổng Thống Thiệu, nhưng lần nầy thì ông bảo tôi
mang sang cho Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng.. Tôi đã y lệnh thi hành. Dĩ
nhiên tôi không biết với tư cách Tổng Tư Lệnh Quân đội và Tổng Tham Mưu Trưởng
hai ông đã có quyết định kịp thời về một "đường lối hành động" nào hay không.
10 giờ sáng: Tôi liên lạc với Đại
tá Nguyệt, Hải Quân, để đưa một số sĩ quan và quân nhân các cấp, khoảng 30
người xuống tàu, di tản theo Hải Quân. Trong số nầy có các Đại tá Chuân, đại
tá Đóa,v.v... thuộc Khối Nghị Hội / Ban Liên Hợp. Số anh em sĩ quan và nhân viên
còn lại của Ban Liên Hợp, chúng tôi dự trù cũng sẽ xuống luôn bến Bạch Đằng
khoảng 12 giờ trưa sau khi thu xếp việc tản thương xong cho một số anh em quân
nhân và nữ trợ tá xã hội tử thương và bị thương đêm qua.
11 giờ 30 sáng:
Chúng tôi nghe thấy
có tiếng súng liên thanh từ dưới đất bắn lên các phi cơ đang cố gắng cất cánh
khỏi phi trường. Anh em cho biết là chiếc xe jeep mui trần có gắn liên thanh
12 ly 7 của đại úy Quân Cảnh / Phi trường đang nằm ngay giữa các phi đạo bắn
lên bất cứ loại phi cơ và trực thăng nào muốn cất cánh rời khòi phi trường.
(sau ngày 30/4, đích thân tôi gặp đại úy Quân Cảnh nầy, mang súng lục đang
đứng gác ngay tòa nhà Quốc Hội ở đường Tự Do. Thì ra đây là một tên cộng sản
nằm vùng đã nhận lệnh của cộng sản từ trại Davis trong công tác ngăn chận
không cho phi cơ cất cánh từ khuya ngày 29 tháng 4.)
Chúng tôi lên xe đi
xuống Hải Quân để kịp lên tàu với đại tá Nguyệt. Nhưng lúc vừa đi ngang qua Bộ
Tổng Tham Mưu (đúng 12 giờ trưa) thì không biết tại sao thình lình tôi lái xe
Jeep của tôi rẽ trái đi vào cổng Tổng Tham Mưu. Hai xe jeep và 2 xe 4/4 trong
đoàn xe của tôi dĩ nhiên phải vào luôn cổng theo xe của tôi.
Đến
ngay Bộ Chỉ Huy
Pháo Binh, chúng tôi ngừng xe lại và tôi vào ngay Hội trường của Bộ
Chỉ Huy
nầy tìm chỗ nằm xuống đánh một giấc ngon lành không còn biết ất giáp
trời
trăng gì nữa, có lẽ vì quá mệt mỏi. Tất cả anh em sĩ quan theo tôi từ
Tân Sơn
Nhất (trong số nầy có đại tá Nguyễn ngọc Nhận, đại tá Lộc, pháo binh
thuộc Ban
Liên Hợp quân sự Cần Thơ, trung tá Chữ Nam Anh, trung tá Hoàng chánh
văn phòng, v.v...) đều theo tôi vào hết trong hội trường vắng trống nầy.
Đến 4 giờ chiều,
thình lình tôi thức dậy và đinh ninh mình đang ngủ dưới tàu của Hải Quân nên
lên tiếng hỏi:
Tàu của chúng ta đã
chạy đến đâu rồi? đã ra khòi sông Lòng Tão chưa?
Chạy
đến Hội trường của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh trong Tổng Tham Mưu rồi! Trung tá
Hoàng vừa cười mai mỉa vừa trả lời. Tôi bàng hoàng đứng
ngay dậy quan sát thì rõ ràng thấy mình đang ở giữa Bộ Tổng Tham Mưu. Bèn ra
lệnh: Anh em lên xe ngay đi
để xuống Bến Bạch Đằng chắc còn kịp vì đại tá Nguyệt chắc chắn còn đợi tôi.
Không kịp nữa rồi ông
ơi, Bộ Tổng Tham Mưu đã khóa cổng và có lệnh không cho ai ra vô gì nữa hết,
chúng tôi đã thử mấy lần muốn ra rồi mà không được. Vậy
là chết rồi! anh thử liên lạc với ông Nguyệt thử coi? ở số nầy nè! Trung tá Hoàng cố gọi
chừng 15 phút mà không nghe ai trả lời.. . . Thế là số mạng bắt ta
phải ở lại đây rồi! (tôi chán nản nghĩ thầm như vậy khi sực nhớ lại không biết
vì lý do gì mà mình tự nhiên lại rẽ vào cổng Bộ Tổng Tham Mưu lúc 12 giờ trưa
nay thay vì cứ phải chạy thẳng xuống Bến Bạch Đằng để xuống tàu. Về sau nầy
tôi mới được biết là đại tá Nguyệt chỉ vì chờ tôi không chịu nhổ neo tách bến
nên phải bị anh em binh sĩ Hải Quân khiêng xuống tàu và rời bến lúc 2 giờ trưa
)
7 giờ chiều
Trung tướng Vĩnh Lộc,
quyền Tổng Tham mưu trưởng, cho người xuống gọi cá nhân tôi và đại tá Nhận lên
văn phòng của ông để nhận việc. Lúc đó tôi mới biết được là ở Bộ Tổng Tham Mưu
hiện giờ không cón Tham mưu Trưởng, không còn một số trưởng phòng quan trọng
nào nữa như P1, P2, P3 và P4. Tất cả đều đã tìm phương tiện di tản hết rồi,
chỉ còn sĩ quan xử lý thường vụ mà thôi. Không cần suy nghĩ tôi cũng đã thấy
được tình hình chung như thế nào rồi.
Đại
tá Nhận được trung tướng Vĩnh Lộc ép nhận chức vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham
Mưu. Tôi vẫn không chịu nhận bất cứ một nhiệm vụ nào, ít nhất trong hiện tại,
vì đã dự định nội nhật ngày mai là phải rời khòi Bộ Tổng Tham Mưu để tìm
phương tiện di tản. 8 giờ 30 tối: Các trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ồ ạt đáp xuống
D.A. O. (Phòng Tùy viên Quân Lực Mỹ) ở ngay phía sau lưng tòa nhà chánh của Bộ
Tổng Tham Mưu để bốc người Mỹ theo đúng tiến trình hành quân di tản của Hoa
Kỳ. Không có một tiếng súng nhỏ lớn hay hỏa tiễn phòng không nào của Bắc Việt
từ dưới đất bắn lên, điều nầy cho thấy rõ là giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt đã có một
mật ước nào đó rồi cho thời gian và lộ trình di tản của Hoa Kỳ.
Có tiếng loa kêu gọi từ các trực thăng lúc họ bay
ngang qua không phận Bộ Tổng Tham Mưu: Ai muốn được di tản thì cứ qua bãi đáp
trực thăng bên D.A.O. ngay phía sau Bộ TTM. Có một số sĩ quan và nhân viên của
Ban Liên Hợp (đang ở đây với tôi) đã nghe rõ tiếng loa kêu gọi từ trực thăng
và đã vượt rào kẽm gai của Bộ Tổng Tham Mưu đến bãi bốc trực thăng bên D.A.O.
(khoản 40 thước đường) trong số đó có Đại tá Lộc, trung tá Hoàng và một số sĩ
quan cấp úy khác. Riêng tôi thì không thích "chui rào" như họ, (có lẽ vì tự ái
cá nhân hay vì số mạng không biết )
Ngày 30
tháng 4: 6 giờ sáng: Do đó, sáng ra kiểm điểm lại thì chỉ còn có tôi với trung tá Chử
Nam Anh và một số chừng 10 binh sĩ mà thôi. Những người khác thì đã được trực
thăng Mỹ di tản đêm qua rồi. Cùng tôi lên xe sẵn sàng ra cổng Bộ Tổng Tham
Mưu.
7 giờ sáng:
Nhân lúc xe của trung tướng Vĩnh Lộc và đại tá Nhận ra cổng, chúng
tôi tháp tùng theo xe nầy luôn, vì nếu không thì sẽ bị chận lại không ra khỏi
đây được nữa theo tiêu lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu.
Ra khỏi Bộ Tổng Tham Mưu là chúng tôi chia tay nhau, tạm gọi là
"đường ai nấy đi" vì tới giờ phút nầy chúng tôi hình như đã linh cảm được số
phận của Miền Nam Việt Nam sẽ ra sao rồi!
Tôi
lái xe về nhà người em họ ở Cư xá Đô Thành (Bàn Cờ) dự trù sẽ thay quần áo và
nghỉ ngơi trước khi tìm được phương tiện di tản. Tình hình quân sự và chánh
trị thì đã quá rõ ràng rồi, bây gờ chỉ còn xem con đường nào thuận tiện nhứt
để thoát khỏi đây thôi. Phương tiện nào đây? Tàu hay phi cơ? Bằng tàu thì hoặc
phải xuống Bến Bạch Đằng và Nhà Bè, hoặc phải ra tận Vũng Tàu hay Gò Công?
Bằng phi cơ thì chỉ có ra tòa đại sứ Mỹ.. Vậy ta phải đi một vòng xem sao rồi
mới quuyết định được. Đang ngồi suy tính một mình thì thằng em họ kêu cho hay
là có lệnh mới rồi.. Lệnh của Tổng Thống và của Tổng Tham Mưu trưởng..
11 giờ trưa Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố Miền Nam Việt Nam "đơn phương
ngừng bắn vô điều kiện", một cách chơi chữ để nói lên một sự "đầu hàng Cộng
sản Bắc Việt không có điều kiện (nhưng đó mới thực sự là điều kiện của Bắc
Việt đã trao cho ông), và ngay sau đó tướng Nguyễn hữu Hạnh với tư cách là
Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH lên tiếng trên đài truyền hình và đài phát
thanh Sài Gòn, ra lệnh đơn phương ngừng bắn cho các đơn vị còn đang chiến đấu
và kêu gọi quân nhân các cấp phải buông súng xuống!
Lắng tai nghe đi nghe lại những lời tuyên bố của hai tướng Minh và
tướng Hạnh tôi vừa đau khổ vừa bùi ngùi nghe theo lời khuyên của em mình, trút
bỏ bộ quân phục thân yêu của mình trong suốt gần 25 năm trong quân đội, xong
mượn chiếc xe Honda của thằng em vội vàng phóng ra cửa. Tôi nghĩ bụng: Thôi
thế là coi như xong hết rồi, không biết cái gì sẽ xảy ra sau chuyện đầu hàng
quá nhục nhã nầy? Thương thuyết chăng? Chánh phủ Liên Hiệp chăng? Chắc chắn là
không rồi. Hàng ngàn chiếc xe xe tăng T.54 từ Bắc Việt vào đây tức là cộng sản
Bắc Việt nhất quyết đã chọn giải pháp quân sự rồi thì làm gì còn có giải pháp
chánh trị? Và đối với mộng bành trướng bá quyền của Cộng sản thì đâu có chuyện
anh MTGPMN nhảy vào ngồi mát ăn bát vàng của họ được? Tôi vừa đi vừa suy nghĩ
mông lung.. tự nhiên thấy mình trở lại gần Bộ Tổng Tham mưu lúc nào không hay.
Nhân tiện tôi đi vòng qua hướng Lăng Cha Cả để theo đường Trương minh
Giảng xuống Sài Gòn.
Lúc nầy đã quá
1 giờ trưa rồi. Đường xá vắng tanh, dân chúng rút hết vô nhà đóng kín cửa.
ngoại trừ bọn hôi của còn đang lăng xăng lục lạo và khuân vác từng biệt thự do
người Mỹ mướn ở, hay các nhà vô chủ, của những người dân quá sợ cộng sản đã bỏ
đi hoặc di tản hay đang tìm đường di tản ra ngoại quốc.
Tuy không còn nghe tiếng đạn pháo hay rốc kết liên tục nhưng vẫn
còn lác đác một vài tiếng súng cá nhân hay một vài tràng liên thanh đâu đó từ
hướng trại Hoàng hoa Thám của anh em Dù. Tôi còn nhớ lúc rời khỏi Ban Liên Hợp
Quân sự ngày hôm qua, tôi còn chứng kiến được một số hành động anh dũng của
anh em "Biệt kích 81 Dù" đã bắn hạ 13 chiến xa T.54 của Bắc Việt từ Lăng Cha
Cả lên hướng Củ Chi khi các đơn vị Bắc Việt tấn công vào trại Hoàng Hoa Thám
để tìm cách đột nhập ngang hông vào Tân Sơn Nhất. Hôm nay xác những chiếc tăng
T.54 vẫn còn ngổn ngang ở vùng nầy, và tiếng súng cá nhân vẫn còn lẻ tẻ mặc
dầu đã có lệnh đơn phương ngừng bắn của QLVNCH từ 11 giờ sáng nay.
Đường Trương minh Giảng vắng tanh không một bóng
người, không một chiếc xe nào chỉ thấy có một vài xác chết rải rác ngoài
đường, gần cầu, hình như của bọn đặc công Bắc Việt.
Khắp các nẻo đường mà tôi đi qua, trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn
và cả Gia Định, tôi quá đau lòng mà thấy cảnh không biết bao nhiêu là súng ống
đạn dược đủ loại, quân phục đủ màu đủ sắc của mọi binh chủng được vứt bỏ ngổn
ngang từng đống hay bừa bãi, rải rác khắp các vỉa hè, các thùng rác, cống
rãnh.. có lẽ đây là một cách vừa thi hành, vừa phản đối lệnh buông súng đầu
hàng của tướng Minh và tướng Hạnh. . . .còn đang ra rả kêu gọi liên tục trên
đài phát thanh. Càng đau lòng hơn khi thỉnh thoảng tôi bắt gặp một số người
chạy long nhông ngoài đường, hầu hết chỉ có một quần cụt trên người, có khi
trần truồng như nhộng, chắc chắn họ là quân nhân, vì họ luôn miệng chửi thề
tục tỉu vang trời, chửi cả bọn chiến thắng Bắc Việt lẫn người chủ bại đan tâm
khóa tay Quân đội để đầu hàng cộng sản!
Bến Bạch
Đằng và Nhà Bè vắng tàu nhưng không vắng người vì còn một số quá đông đang còn
lóng nhóng chờ... tàu từ Tân Cảng xuống. Nhưng tôi nghĩ chắc chắn không còn
chiếc nào.
Tôi vào Bình Đông (Chợ Lớn) để thử
tìm đưởng bộ xuống Gò Công. Nhưng cảnh sát dã chiến ở chốt đầu cầu đã được
lệnh khóa cổng từ 6 giờ sáng nay không cho một ai qua khỏi cầu. Trở về Phú
Lâm, tôi cũng bị chốt cảnh sát dã chiến ngăn chận, như thế có nghĩa là từ 6
giờ sáng nay đã có lệnh khóa hết mọi con đường ra khỏi Đô thành, khó mà dùng
đường bộ được, và cũng có nghĩa là bọn cộng sản Bắc Việt đã bao vây chặt thủ
đô nầy rồi.
Như thế là coi như tôi không còn khả
năng và phương tiện nào thoát ra khỏi thủ đô Sài Gòn nữa bằng cả 3 đường bộ,
đường thủy và đường bay. Thôi thì đành phải ngồi yên để chờ xem diễn tiến sắp
tới tức là ngồi chờ xem Cộng sản Bắc Việt tiến vào thủ đô mà thôi!! Nghĩ thế
tôi quay xe trở về Bàn Cờ.
Trên đường về, đột
nhiên tôi nghe mấy tràng đại liên ròn rã ở hướng nhà thờ Sài Gòn. Quá tò mò
tôi muốn đến xem nhưng gần đến nhà thờ thì nghe tiếng chiến xa chạy rầm rập ở
hướng đại lộ Thống Nhất. Tôi biết là chuyên gì đã xảy ra rồi, nhưng quá đau
lòng đến độ không thể nào dám chạy đến đó để xem, tôi vội chạy về Bàn Cờ ngay.
6 giờ chiều: Tôi có ý định lên Hạnh Thông Tây, vào thăm Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp
của mình. Nhưng khi vừa qua khỏi sân Golf ở phía sau Tổng Tham mưu thì một
cảnh tượng quá đau lòng làm tôi phải ngừng xe lại ngay. Từng nhóm thương bệnh
binh dìu nhau đi bộ từ cổng Tổng Y Viện Cộng Hòa. Hỏi ra tôi mới biết là từ 5
giờ chiều nay, một toán quân Bắc Việt đã vào tiếp thu Quân Y Viện mà họ liệt
vào hàng "chiến lợi phẩm chiến tranh". Người sĩ quan tiếp thu ra lệnh cho tất
cả đều phải ra khỏi bệnh viện, và "ngay tức khắc" không được chậm trễ, không
được mang theo bất cứ thứ gì kể cả xe cộ đủ loại, vì tất cả đều là của Mỹ
Ngụy, không do cá nhân mua sắm, ngoại trừ quần áo đang mặc trên mình.
Tất cả mọi người, từ các bác sĩ quân y, các nam nữ y
tá, trợ tá xã hội, lao công dân chính v.v. cho đến thương bịnh binh đủ loại,
không cần biết tình trạng bệnh lý, đã được chữa trị hay chưa, vết thương đã mổ
hay chưa? lành hay chưa lành? v.v... Thật quá khủng khiếp cho những anh em
thương binh vừa được chuyển từ mặt trận về, vừa được lên bàn mổ hay vừa được
mổ mà chưa khâu xong vết mổ, còn đang nửa mê nửa tỉnh.. đều phải ôm vết thương
lang thang xuất viện mà không biết phải đi về đâu? nhà ở đâu mà về? Gia đình
có đâu mà về? đơn vị ở đâu mà về? Vì họ được tản thương về đây từ mặt trận.
Đây là một câu chuyện thê thảm nhất trong lịch
sử chiến tranh quốc cộng, giữa Nam Bắc Việt Nam, giữa người Việt Nam với nhau.
Ngay như trong cả 2 thế chiến, người ta cũng không có lối cư xử quá tàn bạo và
nhẫn tâm vô nhân đạo như thế, huống là giữa những người Việt Nam cùng một dòng
máu Lạc Hồng?
Để giúp cho những người khốn khổ
nầy, chúng tôi và một số dân chúng quanh chùa Vạn Hạnh (Phú Nhuận) kêu
gọi
được một số xe tư nhân, xe tắc xi, xích lô máy, xích lô đạp.. đưa giùm
một số
thương bịnh binh nặng, đang trong tình trạng giải phẫu dở dang.. đến
các bệnh
viện Đô Thành, Nguyễn văn Học, Chợ Rẫy, Grall và một số bệnh viện tư
của người
Hoa ở Chợ Lớn, kể cả 2 bệnh viện tư nhỏ của hai bác sĩ Nguyễn Văn Tạo,
Nguyễn Duy Tài ở đường Pasteur.. để nhờ tạm chữa trị tiếp, chờ ngày cho
họ về với gia
đình..
Giờ nầy thật tình thời gian đã trôi qua
quá lâu rồi, gần 30 năm rồi, thử hỏi dân chúng Miền Nam cũng như người Việt
Nam ở hải ngoại nầy còn có mấy ai biết đến và nhớ đến một buổi chiều thê thảm
nhất của anh em quân nhân chúng tôi, nhất là những anh em thương bịnh binh
thuộc QLVNCH đang điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa đã bị xua đuổi thẳng tay
một cách vô nhân đạo ra khỏi bàn mổ hay khỏi giường bịnh, do sự tiếp thu của
Cục Quân Y của Quân Đội Nhân Dân BV? vào ngày 30 tháng 4 /1975 mà cộng sản gọi
là ngày chiến thắng của họ trong chiến dịch xâm lăng Miền Nam Việt Nam có tên
gọi là chiến dịch Hồ chí Minh!!!
Đêm nay về Bàn
Cờ nghỉ tạm, tôi không có một chút hứng thú nào khi ngồi trước một bữa cơm
ngon của gia đình, tôi cũng trằn trọc suốt đêm không ngủ được chỉ mong cho
trời mau sáng để được xem tận mắt cảnh "đổi đời"! Ước gì cảnh đó phải hoàn
toàn khác hẳn cảnh mà tôi đã đích thân chứng kiến chiều hôm qua ở Gò Vấp!
Ngày mồng 3 tháng 5/ 1975
Không có chuyện gì làm, tôi lang thang tản
bộ quanh khu chợ Sài Gòn, và đi lần về Thư Viện Quốc Gia, trong thâm tâm chỉ
muốn gặp lại một người bạn của tôi là anh Hữu, quản thủ thư viện Quốc Gia. Có
đến nơi mới thấy được cảnh mà cộng sản Bắc Việt gọi là bài trừ "Văn Hóa đồi
trụy" :
Sau ngày 30/4/75, một ủy ban gọi là "ủy
ban bài trừ văn hóa đồi trụy" ra đời. Thành phần gồm một cán bộ Đảng CSVN và
sinh viên học sinh chít khăn đỏ trên tay (mà người dân Sài Gòn gọi là mấy con
"cọp 30"), tại Sài Gòn Chợ Lớn thì mỗi quận một tiểu ban, ở các tỉnh thì mỗi
tỉnh một tiểu ban.
"Văn hóa đồi trụy" được định
nghĩa là tất cả những ấn phẩm thuộc mọi lãnh vực chánh trị, kinh tế, lịch sử
(nhất là lịch sử), giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, văn nghệ, phim, ảnh.
v.v... đang được lưu hành và sử dụng tại Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 30/4/1975
trở về trước, được in, chép hay thu vào băng nhựa, bằng tiếng Việt Nam hay bất
cứ loại sinh ngữ ngoại quốc nào (trừ chữ Tàu và chữ Nga).
Mục tiêu mà các "ông cọp 30" nhắm vào trước tiên là Thư viện quốc
gia (national library) ở đường Gia Long. Tất cả sách bìa cứng bìa mềm, gáy tím
gáy vàng, dày mỏng gì cũng đều được mang ra đường xé nát và đốt hết. Tội
nghiệp cho mấy bộ tự điển và Encyclopédia chữ Anh chữ Pháp (trên 100 cuốn), và
rất nhiều bộ sách quý thuộc các ngành Công Pháp quốc tế, Khoa Học Kỹ Thuật,
Hàng Không và cả khoa học Không Gian,v.v... mà anh Hữu đã tốn công sưu tầm
trên 10 năm dài để làm giàu cho thư viện của Đất Nước, trong phút chốc bị "cọp
30" xơi tái hết! Chúng tôi đến gần lượm từng tờ của bộ Encyclopedia lên xem mà
ứa nước mắt... nhưng không dám hỏi thêm vì bị ngay một "cọp 3O" khoảng 16 tuổi
tới đuổi:
"Đi đi, tiếc gì mà coi, xé bỏ hết, đốt
bỏ hết, nó là tiếng nước ngoài, của thực dân, của đế quốc đồi trụy, ru ngủ đầu
độc dân tộc. Ta Độc lập rồi thì Ta cần gì ba cái thứ nầy nữa!!" Tội nghiệp! Thật là tội nghiệp!!! (Về sau mãi cho
đến 1992 lúc chúng tôi sắp rời khòi VN, thì thư viện quốc gia nầy vẫn còn được
cộng sản dùng làm "mặt bằng" cho mướn làm tiệc cưới và tiệc "liên hoan" của
cán bộ công nhân viên các cấp).
Mục tiêu kế tiếp
của bọn "cọp 30" là Thư Viện Bộ Giáo Dục, các nhà sách ở khu chợ Bến Thành và
dài dài vô đến Chợ Lớn... sau đó tiểu ban đi xét từng nhà khắp đô thành Sài
Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, ai sợ thì cứ tự mình đốt, bỏ... nếu xét gặp thì chắc
chắn phải gặp khó khăn với mấy "ông cọp 30 trẻ" nầy.
Về văn nghệ thì tất cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu
không phải loại nhạc lai căn (lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang
vào, đều được liệt vào loại "nhạc vàng của đế quốc Mỹ và tay sai", cấm lưu
hành, xé đốt, hủy bỏ, ai lưu giữ sẽ có tội. Các kịch bản hay các vở tuồng cải
lương, hát bộ v.v.. cũng phải được duyệt xếp loại lại (Bà Thiếu tá Cách Mạng
đào hát Kim Cương phụ trách phần nầy).
Nói tóm
lại Bắc Việt chủ trương hủy bỏ tất cả những gì mà họ cho là tàng tích của Mỹ
Ngụy từ 75 trở về trước, để đem thay thế vào đó những gì mà miền Bắc đang có
và đang áp dụng, không cần biết có hợp với dân tộc Việt Nam hay không và cũng
không cần lượng xét hậu quả sẽ như thế nào (có nghĩa là thay vì đẩy Miền Bắc
tiến lên để theo kịp đà phát triển của Miền Nam, họ làm mọi cách nhằm kéo lùi
Miền Nam thụt lùi lại vài chục năm, sao cho trình độ văn minh tiến bộ của hai
miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển như nhau... nhằm
đưa đất nước Việt Nam vào con đường xã hội chủ nghĩa đúng theo lệnh của các
quan thầy Liên Xô và Trung Cộng. Mãi cho đến cuối thập niên 80, lúc tôi ra
khỏi trại tù cải tạo, lãnh đạo đảng Nguyễn Văn Linh nhờ chạy theo phong trào
"đổi mới" của Liên Xô, mới chịu mở mắt ra và chừng đó mới thấy được là đảng
cộng sản đã kéo cả đất nước và dân tộc Việt Nam đi lùi vào thời kỳ đồ đá... từ
sau ngày cướp được chánh quyền mùa thu năm 1945 và nhất là để mất đi một cơ
hội và một thời gian quá dài từ sau ngày nhuộm đỏ Miền Nam Việt Nam 30 tháng 4
1975.) Ngày 4 tháng 5 Tôi đến nhà của Ngô công Đức vì nghe tin anh ta mới từ bên Pháp trở về
Sài Gòn qua ngã Lào, Hà Nội (mang theo chiếc xe đạp). Đến nhà anh mới được
biết là người vợ của anh đã sang ngang không biết vì lý do gì, (có thể vì hành
động phản chiến của anh.) Đến đây tôi may mắn được gặp lại một người bạn thân,
trung tá Nguyễn văn Binh, cựu quận trưởng quận Gò Vấp, (anh rễ của Ngô công
Đức) may mắn có mặt tại Dinh Độc Lập từ sáng ngày 30/4, nhờ vậy tôi mới được
biết thêm một vài chi tiết liên quan đến chuyện bộ đội Bắc Việt vào tiếp thu
Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 4. Tôi phải ghi lại gần như nguyên văn lời của
ông bạn Nguyễn văn Binh của tôi như sau :
"Sau
khi chiến xa T.54 ủi sập một bên cổng chính của Dinh Độc Lập, (theo suy đoán
của anh Binh thì đây là một hành động tượng trưng cho chiến thắng quân sự cuối
cùng và quyết định của cộng sản Bắc Việt ) một số bộ đội tràn vào sân thượng
hạ cờ VNCH xuống và treo cờ MTGPMN lên (chưa phải là cờ đỏ sao vàng của Bắc
Việt ), một sĩ quan Bắc Việt có bộ đội hộ tống ập vào đại sảnh, nơi mà Tổng
Thống Dương Văn Minh đang có mặt cùng với những người cộng sự viên thân tín
nhứt trong Chánh Phủ của ông. Thấy vị sĩ quan nầy đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ,
vì không biết cấp bậc của quân đội nhân dân Miền Bắc, nên ông Minh tưởng rằng
mình đang đứng trước một tướng lãnh cao cấp. -"Thưa quan sáu, tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông"
Sĩ quan nầy dùng danh từ "mầy tao" xẵng giọng
hách dịch và đanh đá lên tiếng: - "Mầy dám nói
là trao quyền hả? Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mầy làm gì có
"quyền" nào để giao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng nầy
đây.
Ngoài ra tao xác nhận với mầy là tao không phải là tướng mà chỉ
là một trung tá ủy viên chánh trị của một đơn vị chiến xa.Kể từ bây giờ tao cấm mầy không được ngồi xuống!
Mặt tướng Minh co dúm lại. ông
chợt hiểu là ông không gặp được những người của MTGPMN mà là những người cộng
sản Bắc Việt, dù họ treo cờ Việt Cộng trên xe. Không phải là những người Miền
Nam đã vào chiếm Dinh Tổng Thống, mà đang đứng trước mặt ông là những chiếc xe
tăng, những sĩ quan và bộ đội Bắc Việt và họ đã đối đãi với ông không như bạn
hay đồng bào, mà như một kẻ thù thất trận!
Tướng Minh cố gắng tự kềm chế và dịu dàng hơn
ông nói tiếp: -
"Chúng tôi đã có dự trù sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng
cua... Vị trung tá
Bắc Việt ngăn ông lại và xẵng giọng: - "Bọn bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy
giữ cái bếp tư sản của mầy lại đi. Chúng tao đã có cơm dã chiến của chúng tao,
một nắm cơm nắm và một hộp thịt kho mặn"
Sau đó sĩ quan nầy ra lệnh nhốt tất cả các tổng
trưởng hiện diện vào một gian phòng, sau khi đã cho lệnh khám xét rất cẩn thận
và không khoan nhượng trước sự hiện diện các nhà báo ngoại quốc đang làm nhiệm
vụ quay phim, chụp ảnh lia lịa cảnh tượng lịch sử nầy.
Sau đó ông Minh bị "bộ đội" bao
quanh chĩa súng vào người ông, và vị sĩ quan cao cấp vung khẩu súng lục to đẩy
ông lên một chiếc xe Jeep và phóng đi dưới hàng loạt ánh đèn chớp của máy ảnh
và máy quay phim của báo chí. Ông được đưa đến đài phát thanh để ông phải lên
tiếng kêu gọi lần chót với các binh sĩ còn đang tiếp tục chiến đấu. Vì chiến
trận vẫn còn tiếp diễn gần như khắp nơi, ở ngoại ô, ở Chợ Lớn, chung quanh Bộ
Tư Lệnh Cảnh Sát, ở khu vực gần Tân Cảng, trước trung tâm truyền tin Phú
Lâm,...
Đến 13 giờ,
tướng Minh được đưa trở về Dinh Tổng Thống và bị nhốt dưới tầng hầm. "
Cũng vẫn theo lời của
anh bạn tôi: -
Ông Nguyễn Văn Hảo đương kim Tổng trưởng Tài Chánh đã có mặt tại
dinh Độc Lập ngày 30/4/75 với tướng Dương Văn Minh,
cùng với nội các của ông Vũ Văn Mẫu và một số nhân sự phản chiến tự xưng là
thành phần thứ ba (như Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Cứ, Võ Long Triều,v.v...). Khi
ông Minh được đưa trở về đến Dinh Độc Lập thì ông Hảo lên tiếng, nói một câu "bất hủ" với sĩ quan
chỉ huy Bắc Việt rằng: -"Tôi còn ở đây chờ quí
vị, để trao cho quí vị một món quà, đó là trên 20 tấn vàng". Vị sĩ quan đó đáp ngay tức khắc: -"Đó không phải là quà mà là chiến lợi phẩm của chúng tao, tao phải
tịch thu, mầy hãy trao ngay cho tao đi!".
Và ông Hão đã dẫn người nầy đến Ngân Hàng Quốc
Gia Việt Nam ngay chiều ngày 30/4/1975, trao 3 chìa khóa hầm vàng cho đại diện
Bắc Việt, để chỉ dẫn họ cách thức lấy 20 tấn vàng dằn kho của VNCH ở Ngân Hàng
nầy. Sau đó ông Hảo vẫn bị đưa
về nhốt chung với các vị Tổng trưởng khác". .................. Ở nhà của Ngô công Đức, tôi được chứng kiến một
cảnh "ngu dốt" của một toán bộ đội Bắc Việt, nói lên tình trạng quá lạc hậu
đáng thương hại của người dân Miền Bắc nói chung:
Trong lúc tôi và anh Binh anh Đức ngồi ở phòng
khách trò chuyện thì có một toán chừng 6 anh "bộ đội" ập vào nhà "khám xét".
Người chỉ huy cầm
trong tay cái điện thoại và hách dịch hỏi anh Đức : Cái "đài" nầy là của anh? Phải, của tôi Anh làm "chức vụ" gì lớn lắm của Mỹ Ngụy mà có cái "đài" nầy?
anh dùng cái đài nầy để liên lạc với Mỹ Ngụy và với CIA phải không? Tôi phải
bắt anh ngay về cơ quan để "làm việc", mặc áo vô đi rồi theo tôi ngay. (vì lúc
đó anh Đức ở trần) Xin lỗi anh tôi
không đi đâu hết, cái nầy là
cái điện thoại chớ không phải cái đài. Đồ ngoan cố, cái nầy là
cái điện đài, tôi được lệnh bắt anh, vì trong nhà anh có một cái điện đài mà
không chịu đi khai báo.. . . .. . .
. . . . Tôi rời khỏi nhà anh Đức
trưa hôm đó, lòng suy nghĩ miên man. Thật tội nghiệp cho cái anh chàng phản
chiến Ngô công Đức nầy, giờ nầy chạm mặt với thực tế có lẽ anh mới sáng mắt
thấy rõ trình độ của người dân Miền Bắc và mức độ giáo dục và ảnh hưởng tuyên
truyền nhồi nhét của cộng sản là thế nào đối với dân chúng..! Tội nghiệp cho
cái anh bộ đội quá ngu dốt nầy, và cũng thật quá
tội nghiệp cho người dân Miền Nam của mình trong những năm tháng sắp tới... có
lẽ phài chịu sống đau khổ triền miên vì cái tình trạng ngu dốt của kẻ xăm lăng
thống trị, đến từ Miền Bắc... Ngày 5 tháng 5/75 Tôi
quyết định đến nhà anh chị bác sĩ Nguyễn văn Tạo ở đường Pasteur để tạm trú và
tạm lánh mặt chờ ngày 15 tháng 6 là ngày trình diện đi "học tập". Ở đây có lẽ
yên hơn là về Sadec (gia đình tôi) hay Cai Lậy (gia đình bên vợ tôi), dù sao ở
ngay Sài Gòn chắc không bị những màn trả thù rùng rợn như ở tỉnh, như một số
tin tức mà tôi được biết cho tới ngày hôm nay.. (như ở ngay tỉnh
Vĩnh Long, các ông cai tổng Nguyễn Văn Dần, Nguyễn Văn
Xôm, Nguyễn Văn Thêm đều bị họ kết án là "có tội với nhân dân" mà không thông
qua một tòa án nào, và bị hành quyết ngay khi bị bắt, bằng vũ khí thô sơ như
búa, mã tấu...Riêng anh trung úy Dù Nguyễn văn Ngọc ở xã Long Hồ, dù đã chết
từ hơn một năm trước, vẫn bị họ đào mả lên, đưa cả quan tài ra giữa chợ ở Ngã
Tư Long Hồ để cho phá nát bằng cốt mìn.)
Sáng nay tôi phải lên
thăm một thiếu tá tuyên úy Phật Giáo, đang là trụ trì tại một ngôi chùa ở Hạnh
Thông Tây, và là người có trách nhiệm lo mọi công tác hậu sự cho quân nhân các
cấp không may bị tử thương, và hằng ngày lo chăm nom săn sóc nơi an nghỉ cuối
cùng của anh em quân nhân chúng tôi là "nghĩa trang
quân đội Hạnh Thông Tây" nằm ở đối diện
không xa với chùa nầy.
Đưa tôi vào chánh
điện lạy Phật xong ông dẫn tôi lên phòng riêng và khi chỉ còn có hai chúng tôi
thì ông nín không nổi nữa, bật lên khóc sướt mướt, ấp úng nói không thành lời.
Sau một lúc khá lâu bình tâm trở lại ông mới nói rõ cho tôi nghe là không phải
ông khóc vì chuyện "mất nước", nhưng khóc vì động lòng từ
bi trước cảnh mồ mả trong nghĩa trang quân đội mà ông có trách nhiệm săn sóc
đã bị cộng sản Bắc Việt dùng xe ủi đất san bằng hết ngay chiều ngày mồng 3
tháng 5 vừa qua.
Mặc cho sự van xin
cầu khẩn của ông (trong bộ áo nâu sòng của một thượng tọa) họ vẫn
san bằng hết từ nhà xác, nhà liệm xác, nhà nguyện cho đến ngôi
mộ cuối cùng...... Ông vừa nói vừa tức tưởi khóc: " Không hiểu sao họ quá tàn nhẫn như vậy? Họ nói là để lấy đất mà
trồng trọt để nuôi nhân dân đang đói nghèo. Đất rộng như vầy, màu mỡ như vầy
mà làm nghĩa địa thì phí của trời quá... độc ác với nhân dân quá!" Thật tội nghiệp cho vị tuyên úy Phật Giáo nầy. Ông quá thật tình,
nhìn sự việc qua lòng từ bi của một tu sĩ, nên không hiểu là hành động nầy
phải xuất phát từ chủ trương và chánh sách của người cộng sản mà nhất là cộng
sản Miền Bắc, đội quân tiền phong của Quốc tế Cộng sản Đệ Tam Nga Tầu.!
Dù họ là
người Việt Nam nhưng tư tưởng, hành động và nhất là lương tâm của họ ngày hôm
nay không còn thuộc về họ nữa. Họ phải theo đúng giáo điều Mác Lê, theo đúng
lệnh của Staline, của Mao trạch Đông là những quan thầy trực tiếp điều khiển
họ trong cuộc chiến tranh bành trướng về phương Nam nầy. Ông
bạn tuyên úy của tôi cũng chất phác như người dân Miền Nam đã từng cho những
lời "tố cộng" của chánh quyền hay của Phòng Chiến Tranh Chánh trị là những
chuyện "đặt điều" cốt để tuyên truyền tác động tinh thần của quân cán chính
Miền Nam. Bây giờ chỉ mới giáp mặt với một vài hành động của họ thôi, rồi đây
có lẽ từ từ rồi họ sẽ thấy được bộ mặt thật của con người cộng sản nầy. Nhưng
từ hôm nay cho đến đó người dân Miền Nam chúng ta chắc còn sẽ phải chịu nhiều
cảnh thương đau cùng cực nữa... trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của
họ.
Tôi mời ông thiếu tá
tuyên úy bạn tôi cùng lên nghĩa trang Biên Hòa
để xem thử là họ đã ủi nghĩa trang quân đội ở đây chưa? Theo tin ông đã
nhận được thì hình như họ cũng đã thực hiện công tác nầy rồi, cũng vào ngày 3
tháng 5.
Có đi đến nơi chúng
tôi mới thấy rõ được hiện trạng. Thật là thê thảm!
Trước hết là tượng hình của một binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến qua tượng đài
"Thương Tiếc", một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật rất có giá trị đặt bên vệ
đường ở mặt tiền của nghĩa trang quân đội đã bị cộng sản phá nát bằng cốt mìn,
và ủi sạch không còn một chút dấu vết..Cả nghĩa trang rộng lớn cũng đã biến
thành bình địa!
Trên đường về Hạnh
Thông Tây cả hai chúng tôi yên lặng không trao đổi một lời nào, tôi tin chắc
là cảm nghĩ của một người tu sĩ đương nhiên phải khác hẳn với cảm nghĩ của một
chiến binh như tôi. Dù sao khi về đến chùa, trước khi giã từ, tôi cũng nói rõ
cho Thầy tuyên úy bạn tôi thấy được cảm nghĩ của tôi: - Hành động quá ư tàn nhẫn đến dã
man nầy thật không đúng là hành động của bất cứ người Việt nào nhất là ở Miền
Nam Việt Nam. Từ ngàn xưa, đúng theo đạo lý và truyền thống của dân tộc Việt,
người Việt Nam chúng ta ai cũng biết là "nghĩa tử là nghĩa tận" hay "chết là
hết". Dù giữa cá nhân anh và tôi có thù hằn nhau cách mấy nhưng khi anh hay
tôi có người đã nằm xuống rồi thì coi như mối thù đó được xóa bỏ vĩnh viễn,
không ai còn muốn nhắc đến nữa. Vậy ủi hết mồ mả của quân nhân các cấp thuộc
QLVNCH có nghĩa là gì đây? Nếu không muốn nói trước hết là nhằm "trả thù cho
quân đội và nhân dân Miền Bắc"? sau đó lại "xóa sạch được vết tích của QLVNCH,
người đã chết xóa trước, người còn sống xóa sau? trong chủ trương sửa lại toàn
bộ lịch sữ trong tương lai đối với các thế hệ trẻ sau 1975, một trang sử đấu
tranh dai dẵng của Quân Dân Cán Chính Miền Nam đã hy sinh làm tiền đồn ngăn
chận làn sóng xăm lăng cộng sản, trong suốt gần 30 năm từ 1945 mà họ cần phải
xóa bỏ ? Tôi nghĩ chỉ
có như vậy họ mới đang
tâm có những hành động phi nhân đạo nầy. Và chắc chắn trên toàn bộ Miền Nam
Việt Nam các nghĩa trang quân đội đều phải chịu chung một số phận.
Dĩ nhiên rồi cũng phải đến số phận
của chúng tôi... những chiến binh còn sống sót.
Nhưng ngày nào còn có một chiến binh QLVNCH còn sống sót như cá
nhân tôi thì ngày dó cộng sản Bắc Việt đừng hòng sửa được một trang sử nào!!!
Chúng tôi
xin tạm
chấm dứt mấy trang "Hồi
Ký Dang Dở" ở đây, và xin thành tâm cầu nguyện cho
nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được vĩnh viễn thoát khỏi ách
độc tài đảng trị của bọn cộng sản vô thần khát máu và tàn bạo nầy. Dương
Hiếu Nghĩa
Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, người dẫn đầu đoàn xe chở ông Diệm, qua đời
RICHLAND, Washington (NV)
– Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa qua đời lúc 8 giờ 30 phút sáng Chủ Nhật,
14 Tháng Tư, trong một nhà dưỡng lão ở Richland, Washington, hưởng thọ
94 tuổi. Ông là người từng dẫn đầu đoàn xe chở anh em Tổng Thống Ngô
Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu sau cuộc đảo chính 1 Tháng Mười Một,
1963, và trên đường trở về hai ông đã bị ám sát.
Bà Dương Thị Yến, ái nữ của ông Nghĩa, xác nhận tin này với nhật báo Người Việt hôm Thứ Năm, 18 Tháng Tư.
Bà cho biết thêm: “Ba tôi ra đi rất nhẹ nhàng. Ông đi trong giấc ngủ.
Ông là một đảng viên cao cấp đảng Đại Việt, từng đỗ thủ khoa Khóa 5
Hoàng Diệu, trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, từng làm tỉnh trưởng Vĩnh
Long. Ông cũng từng làm việc trong Ủy Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên
trước năm 1975. Sau khi cuộc chiến kết thúc, ông bị đi tù Cộng Sản 13
năm.”
Bà Yến cho biết, sau này ông đã tu hành, trở thành một thiền sư, đã lập một số thiền viện và xuất bản cuốn “Quê Mẹ Oan Khiên.”
Khi được hỏi chi tiết về biến cố ông Diệm và ông Nhu bị ám sát năm
1963, bà Yến cho biết: “Lúc đó, ba tôi chỉ là thiếu tá, ông dẫn đầu đoàn
công voa, đâu phải nhân vật cao cấp gì đâu, nhưng sau này có nhiều sách
viết xuyên tạc chuyện này lắm.”
Trong một hồi ký đã công bố nhiều năm trước, Đai Tá Dương Hiếu Nghĩa
cho biết ông không biết gì về việc hai anh em Tổng Thống Diệm bị sát hại
trên đường đi; vì chiếc thiết vận xa chở hai ông đi phía sau còn xe ông
Nghĩa dẫn đầu. Ông Nghĩa chỉ được lệnh đi đón hai ông Diệm, Nhu từ nhà
thờ Cha Tam, Chợ Lớn, để đưa họ về Bộ Tổng Tham Mưu.
Trong email gởi ra cho người quen, bà Yến cho biết “tang lễ trong
vòng gia đình và lễ hỏa táng đã được cử hành trong ngày Thứ Ba, 16 Tháng
Tư.”