Saturday, June 28, 2014

Phỏng vấn Trúc Hồ / Huy Phương

SBTN SPECIAL: Việt Nam Ơi (Trúc Hồ)



Dưới đây là bài phỏng vấn của Nhà Báo HUY PHƯƠNG với Nhạc Sĩ TRÚC HỒ.  rất vui chuyển đến các Bạn bài phỏng vấn này vì tôi rất ái mộ TRÚC HỒ đã viết những bài hát tranh đấu cho quyền làm người của đồng bào ta ở trong nước và chống Trung Cộng xâm lăng nước ta. Hiện nay TRÚC HỒ là Trưởng Ban Tổ Chức Chương Trình "Hát Cho Biển Đông & Quyền Con Người" có sự tham gia của nhiều nghệ sĩ ASIA và xướng ngôn viên đài SBTN sẽ diễn ra tại Freedom Plaza, Washington DC  ngày 6 tháng 7 năm 2014 từ 1 giờ đến 4 giờ chiều. Mục đích của chương trình là để bày tỏ tấm lòng của chúng ta đối với đất nước trong cơn hiểm nguy Trung Cộng xâm lăng và để lên tiếng cùng Người Việt yêu nước đang bị trấn áp tại quê nhà và cũng để cho cả thế giới thấy rõ dân tộc ta cương quyết chống xâm lăng. Rất nhiều tổ chức trong và ngoài nước hưởng ứng tham gia.


Lời giới thiệu (Huy Phương)
So tuổi đời với những công việc mà nhạc sĩ Trúc Hồ đảm trách hiện nay thì tuổi anh quá trẻ (sinh năm 1964). Với cương vị là Giám đốc đài truyền hình Việt Nam SBTN có tầm vóc nhất ở hải ngoại, đồng chủ trương trung tâm băng nhạc Asia, nhưng Trúc Hồ là một người giản dị, khiêm nhường, rất ít nói.

Zoom in (real dimensions: 720 x 540)Image

Bản tính Trúc Hồ cũng như bề ngoài lúc nào cũng xuề xoà, lại hay e thẹn, nhưng trong quả tim của người nhạc sĩ là cả một khối lửa nóng, đứng ngồi không yên, lúc nào cũng muốn làm một điều gì cho những người lính đã nằm xuống, những thuyền nhân đã bỏ nước ra đi, và bây giờ là những vấn đề nóng bỏng về nghĩa trang Quân Đội, về chuyện những người tù chính trị. Nhìn những thay đổi và gần gũi với tâm tình người hải ngoại gần đây trên SBTN hay Asia, người ta nhìn rõ ra con đường Trúc Hồ đang đi và muốn đến.
Người nhạc sĩ này vốn lại rất ít nói, nên muốn thực hiện một cuộc phỏng vấn để được nghe Trúc Hồ nói về mình không phải là chuyện đơn giản.
Tuy vậy, nhân trung tâm Asia dự định làm một chương trình ca nhạc kết hợp hai dòng nhạc Trầm Tử Thiêng và Trúc Hồ, là hai thế hệ nhưng đã cùng chung một tấm lòng nghĩ về quê hương, đời sống của người tỵ nạn với những ca khúc đã đi vào lòng người hải ngoại, chúng tôi đã có dịp chuyện trò với Trúc Hồ để tìm hiểu đời sống và tâm tình của người nghệ sĩ trẻ tuổi này.
Trúc Hồ sinh năm 1964 tại Saigon, là con trưởng trong một gia đình ngoan đạo, có 4 anh em, nhà ở trong vòng khuôn viên nhà thờ chợ Quán, Quận 5-Saigon .
Thân phụ anh, Trúc Giang là một nhạc sĩ, hạ sĩ quan, phục vụ trong ban Quân Nhạc Phủ Tổng Thống do Đại tá Trần Văn Tín chỉ huy, nên nhà anh luôn luôn vang tiếng trống kèn, vì thân phụ mở lớp dạy nhạc thường trực tại nhà.
Nhờ vào hoàn cảnh ấy, lên bốn tuổi, Trúc Hồ đã biết chơi trống, sáu tuổi đã đánh key board, đánh đờn và theo các chú, bác đi trình diễn trong những đám cưới. Biết con có năng khiếu, nhạc sĩ Trúc Giang rất chiều ý con, và vào sinh nhật thứ bảy, Trúc Hồ đã được làm chủ riêng mình một chiếc organ nhỏ để chơi một mình.
Một ngày nọ, cậu bé Trúc Hồ lại được cha dẫn vào tiến cử với Đại tá Trần Văn Tín để xin thụ giáo piano. Cảm tình với thuộc viên và thấy thằng bé thông minh, kháu khỉnh, ông nhạc sĩ này đã nhận lời, cũng như sau đó Trúc Hồ có cơ hội để học nhạc với rất nhiều bạn hữu của nhạc sĩ Trúc Giang và bắt đầu biết chơi nhạc cổ điển với Beethoven, Bach, Chopin…
Chưa tới mười tuổi, Trúc Hồ đã mải mê từ accordéon (Pháp; accordion, Anh), violon (Pháp; violin, Anh), kéo mệt nghỉ, lại bỏ sang guitare (Pháp; guitar, Anh) piano (Pháp & Anh), rồi organe (Pháp; organ, Anh) . . . bỏ bê chuyện học hành, bảy tuổi thi rớt vào trường công, phải theo học trường Chí Thiện.
Sau đó vì mẹ Hồ đang là giáo viên trường Đồng Tâm, Hồ chuyển về học tại trường này. Từ sáu, bảy tuổi Trúc Hồ đã biết chơi nhạc kiếm tiền, nên việc học hành phải bê trễ.
Rồi một buổi chiều Tháng Tư, đi chơi về, Trúc Hồ thấy cả gia đình đang sửa soạn đồ đạc, hành lý, nghe nói là chờ ghe ra đi. Rồi sáng hôm sau, đột ngột nghe tin Miền Nam đầu hàng, mấy người cậu đi lính từ đơn vị kéo nhau trở về nhà.
Đó là mùa hè năm 1975, thời gian ấy, Trúc Hồ chỉ mới có 11 tuổi và chưa có khái niệm gì về đất nước, chiến tranh, Cộng Sản hay Quốc Gia.

HUY PHƯƠNG:- Với tuổi 11, anh biết gì về chế độ Cộng Sản mới vào Miền Nam và chế độ VNCH trước kia?
TRÚC HỒ:- Lúc ấy, Hồ chưa có khái niệm gì rõ ràng nhưng những cảnh trước mắt rõ ràng là đập vào tâm trí Hồ. Đường phố xe cộ thưa thớt, nhiều nhà đóng cửa bỏ xứ đi đâu mất. Công ăn việc làm không có, họp hành liên miên. Hình như trong gia đình thấy ai cũng có vẻ lo lắng, căng thẳng. Lúc đó ông ngoại, bà con lối xóm hay kể chuyện cũ, rồi so sánh với những ngày chế độ mới thiết lập ở Saigon, phê phán điều tốt điều xấu, sung sướng, cực khổ khác nhau như thế nào, cuộc sống của mọi người hình như ngột ngạt, không có gì cởi mở, vui vẻ.
Vào lớp thì thấy bạn bè học giỏi bị kỳ thị, một số vắng mặt không bao giờ trở lại, một số khuôn mặt, giọng nói lạ lẫm mới vào. Giờ chơi thì học sinh chia phe chia nhóm, trong tuổi vô tư, nhưng Hồ cảm thấy lòng không vui.
Vì gia đình có kèn trống, Phường Khóm thường lui tới mượn, thuê nhạc cụ cũng như mời tham gia ban nhạc, có khi vào chơi nhạc tận trong Dinh Độc Lập cũ. Gia đình càng ngày càng có vẻ khá hơn nhờ những dịch vụ này, nhưng riêng Hồ cảm thấy lạc lõng, không thấy vui vẻ, hoạt động như ngày xưa. Năm đó, Hồ lại thi vào lớp 10 Lê Hồng Phong (Pétrus Ký cũ) bị rớt nữa.
HUY PHƯƠNG:- Trúc Hồ được đào tạo về âm nhạc ra sao và bắt đầu sáng tác vào tuổi nào?
TRÚC HỒ:- Năm sau, Hồ vào trường Lê Hồng Phong, 15 tuổi lại bỏ trường và cũng vì nhờ quen biết, Hồ được thầy Vũ đã từng tốt nghiệp ở Bulgaria, Hungary… dạy lý thuyết, thầy Dung huấn luyện Hồ về hoà âm, nhất là được thầy Nghiêm Phú Phi kèm cặp thêm cho dương cầm. Bản nhạc đầu tiên Hồ viết cho người yêu đầu đời, một cô bạn học từ năm lên tám tuổi là bài “Dòng Sông Kỷ Niệm”. Đó là năm Hồ 16 tuổi.
HUY PHƯƠNG:- Những gì đã xẩy ra sau những ngày tương đối ổn định, và Trúc Hồ đã suy nghĩ gì khi quyết định vượt biên trong tuổi vị thành niên như thế?
TRÚC HỒ:- Nhiều khi Hồ cảm thấy mình bị tù túng, cứ nghĩ là nếu mình vượt biên, mình có thể học bất cứ ngành nghề gì mình thích. Lối xóm, thỉnh thoảng lại nghe có nhiều gia đình vừa vượt biên. Bạn bè, ngay cả người yêu cũng kiếm đường đi, lòng Hồ lúc bấy giờ cũng nôn nao, không yên. Nhà tuy nghèo, nhưng Hồ lại được cưng nhiều nhất. Đàn, trống … thứ nào Hồ thích là cũng được Bố Mẹ mua cho.
Gia đình Hồ đã quyết định bán cây đờn Yamaha 30 để lấy 4 cây vàng, chuẩn bị cho chuyện vượt biên. Anh nên nhớ lúc bấy giờ, Việt Nam chỉ có mấy cây Yamaha 30 nên chuyện bán cây đờn rất dễ. Lúc ấy việc ra đi coi như đã quyết tâm, Hồ không thấy bịn rịn, vương vấn gì ở Việt Nam nữa.
Lần thứ nhất, Hồ về quê nội ở Bến Tre, chuẩn bị cho lần đi thứ nhất. Chuyến vượt biển chưa ra tới cửa biển đã bị bể, cả tàu bị Công An bắt, nhưng vì còn nhóc con, Hồ được thả sớm cho về.
Về đến nhà, nhưng không hề thấy sợ hãi gì cả, lại nôn nóng kiếm chỗ khác để đi, Vĩnh Long rồi Rạch Giá, bị giam ở đồn công an, hỏi đi đâu thì nói về Trà Vinh thăm bên nội, nhất quyết chối cho tới cùng.
Hồ đã chứng kiến những cảnh hãi hùng trong đêm tối, tiếng công an la: “Tàu vượt biên, đứng lại, không tao bắn!”, rồi nghe tiếng súng nổ từng tràng trong đêm.
Buổi sáng, cảnh tượng những người bị tạm giam phải ra biển, kéo những xác người chết chìm lên những chiếc ghe nhỏ kéo vào bờ, già trẻ lớn bé đều có. Mỗi lần đi vượt biên đều có những suy nghĩ và cảm tưởng khác nhau, nhưng không bao giờ thấy sợ hãi. Thất bại nhiều lần, phải nói là Hồ cũng chán nản.
HUY PHƯƠNG:- Nếu chán nản, ở lại thì sao hôm nay có Trúc Hồ ngồi ở đây được? Anh có thể cho biết chi tiết hơn về những chuyến vượt biên tiếp theo.
TRÚC HỒ:- Đó là năm 1981, lúc ấy, ở Saigon văn nghệ ca hát đã có vẻ cởi mở hơn. Đã có ban nhạc Hy Vọng, Đại Dương ra đời, dân chúng đã được nghe lại nhạc của Begees, Abba. Một Đại Hội Nhạc Trẻ được tổ chức tại Đà lạt, và Hồ lên đó lo về âm thanh. Tuổi trẻ ham vui, lo công việc, đôi lúc không nghĩ đến chuyện vượt biên nữa.
Rồi sau Tết Âm Lịch năm đó, Hồ nghe tin một bạn thân của Hồ là Trạng vượt biên bằng đường bộ qua ngả Campuchea (Cambodia) thành công. Bác Hiệp Hoà, bạn thân của gia đình có quán cà phê gần nhà, giới thiệu cho Hồ ra đi, lần này là bằng đường bộ.
Hồ được chở bằng xe Honda đi Châu Đốc, ở lại một đêm trong một gia đình người lạ, có lẽ họ thuộc đường dây đưa người đi. Đêm sau, họ lại chở xe đưa mình vào rừng, đi trong rừng suốt đêm thì xe tới một con đường tráng xi măng, từ đó chạy hai tiếng nữa là đến Nam Vang.
Chuyến đi từ Saigon đến Nam Vang, mới đầu tưởng không có gì vất vả, gian nan như một chuyến vượt biên. Đến Nam Vang rồi, vào quán, có người kêu cà phê, hủ tiếu cho ăn.
Từ Nam Vang đi tới biên giới Thái Lan bằng xe lửa, Hồ lúc bấy giờ mặc xà rông như người Miên chính hiệu, da còn trắng mà cũng không hề biết một tiếng Miên nào. Tàu chưa chạy, công an đã lên tàu hỏi thăm, bắt mình xuống sân ga, nhưng người đưa Hồ đi đã móc vàng vụn ra hối lộ công khai trước mặt mọi người, rồi lại được lên tàu tiếp tục đi.
Từ đó tới Battambang, Hồ phải qua những đêm lo sợ, kinh hoàng.
Tới ngày thứ sáu, người dẫn đường cho Hồ bỏ trốn biệt tăm. Gần chợ biên giới, Hồ gặp một thằng bạn cùng hoàn cảnh bị bỏ lại như Hồ. Một bà già người Việt gốc Hoa tại Miên biết tiếng Việt cho biết là hai đứa đã bị bỏ rơi, tối đến thương tình dắt cho hai đứa đi tiếp con đường mà những người vượt biên đường bộ thường đi, theo một đám người buôn lậu hàng hoá qua Thái Lan.
Đến đây mới biết có nhiều người cũng dùng đường bộ ra đi, trong đó cũng có rất nhiều đứa trẻ thuộc tuổi mình. Sau đó cả toán được một thằng bé người Miên tốt bụng dẫn dường cho qua vùng đất đầy mìn bẫy, nó lanh lẹ như một con sóc, biết chỗ nầy có nước uống, chỗ kia phải dừng lại vì nguy hiểm.
Đôi lúc nó nằm sát kê tai trên mặt đất nghe ngóng, rồi ngoắt tay cho cả bọn cùng chạy. Con đường này là tử lộ, bọn buôn lậu thường đụng độ, chém giết nhau như cơm bữa. Đêm đó, cả nhóm đi lẫn vào một toán buôn lậu người Miên.
Hồ bị một tên lính Miên hung dữ dí súng vào đầu như muốn bắn, Hồ chỉ biết lâm râm cầu nguyện Đức Mẹ, và không hiểu vì sao lúc đó, lại buột miệng ra nói một câu tiếng Miên mà mình không hiểu gì cả và tự nhiên tên Miên thu súng lại, ngoắt tay cho đi.
Đến gần biên giới Miên-Thái thì Hồ và thằng bạn đồng hành đã lẩn vào một đám khá đông người, đến đêm chờ lúc lính Thái đổi gác là cả bọn ù té chạy qua đất Thái Lan, miệng chỉ biết kêu “Vietnam! Vietnam!”.
Tất cả đều bị lính Thái bắt vào nhà giam. Một buổi sáng, lính Thái vào trại ra dấu kêu hai thằng Việt Nam ra, hai đứa đinh ninh là bị đem đi bắn, nhưng lại được kêu đi chùi rửa trực thăng cho chúng. Sau ba ngày hai đứa bị gọi leo lên xe truck, đứa nào cũng xanh mặt, sợ bị chở lại đất Miên, nhưng cuối cùng xe lại chạy thẳng vào trại tỵ nạn của Hội Hồng Thập Tự Quốc tế.
Tại đây, Hồ viết thư về nhà, cương quyết dặn dò, nhất định không cho ai trong gia đình vượt biên nữa. Tuy là giờ đây đã tới được đất tự do sau hơn mười ngày gian nan, tưởng đã chết mất mạng, nhưng trại tỵ nạn này lại là nơi khốn khổ khác.
Mỗi ngày mỗi người được phát hai chén cơm, muối và một muỗng dầu, nhưng không đủ nước uống. Cơm còn thừa, bọn coi trại đem đi đổ. Bọn Hồ chờ sẵn, mỗi lần thấy chúng đem cơm đi đổ là hè nhau xông vào giựt. Lúc đầu, Hồ rất ngượng, chờ tụi bạn giựt cơm xong chia lại cho ăn, nhưng chỉ mấy ngày sau, Hồ đã lanh lẹ, rành nghề, giựt cơm như điên. Cơm này đem về chiên với muối dầu, là một món ăn tuyệt hảo không bao giờ quên được.
Với cảnh sống như vậy, Hồ chỉ biết cầu nguyện lên Đức Mẹ, nhiều lúc quẫn trí, muốn trốn trại về lại Việt Nam cho xong. Hồ nhớ đến con đường Trần Bình Trọng, xóm nhà thờ Chợ Quán, mấy đứa em và bạn bè. Bấy giờ là tháng 3 năm 1981.
Sau hai tháng, Hồ được chuyển qua trại Pannat Nikhom tức là trại tiếp chuyển (transit center) chuẩn bị đi định cư, coi như đã thấy ánh sáng sau những ngày tăm tối. Ông dượng Hồ ở quận Cam gởi cho Hồ $50 đầu tiên, Hồ khao bạn bè một bữa, có hủ tiếu bò kho và nước ngọt Coca Cola.
HUY PHƯƠNG: – Những ngày đầu định cư, Trúc Hồ ở tiểu bang nào và bắt đầu cuộc sống trên đất Mỹ ra sao?
TRÚC HỒ:- Ngày 20 tháng 8 năm 1981, Hồ bước chân đến San Francisco. Lâu nay cứ nghĩ ở Mỹ đâu cũng nhà cao chọc trời như New York hay Chicago, nhưng cuối cùng đến phi trường John Wayne, nhà cửa đường sá không có gì là vĩ đại.
Đây là thời gian tăm tối nhất của Hồ, tất cả đều xa lạ, không bạn bè, không thân thuộc, tiếng Anh không biết. Suốt thời gian này, Hồ rầu rĩ, chán đời nhớ Việt Nam đến đứt ruột. Đây là thời gian Hồ nhớ tới người yêu, giờ này không biết lưu lạc ở nơi nào, hoàn tất bài “Dòng Sông Kỷ Niệm”.
Trường học đầu tiên của Hồ trên đất Mỹ là Fountain Valley High và Hồ được xếp vào lớp 9. Năm Hồ lên lớp 11 thì tuổi đã 18, không thể nào ăn ở mãi trong nhà người bảo trợ. Một buổi chiều Hồ viết thư để lại, cám ơn và thu xếp áo quần, sách vở ra đi. Hồ về ở với gia đình một người bạn là Đỗ Phủ, năm đứa con trai chất vào một phòng: Hồ, Đỗ Phủ, hai đứa em và một người share phòng.
Dần dà, đi lại quen biết, Hồ về dạy nhạc cho con bác Thời là bạn của ba Hồ (Ns Trúc Giang) để kiếm tiền tiêu. Năm sau, Hồ vào Community College, ghi danh học Toán, nhưng mới học xong một semester, Hồ lại nghĩ ngày trước mình xin cha đi Mỹ là cốt để có cơ hội học nhạc, bây giờ học Toán ra để là gì và tương lai ra sao?
Hồ bắt đầu đi học piano với Dr. Gile, học phí mỗi giờ là $45.00, mỗi tháng Hồ phải đóng $180.00 tiền học nhạc. Để có đủ số tiền này, Hồ đi chùi rửa bàn bida của một tiệm ở thành phố Garden Grove, đi làm cho báo cho Orange County Register (công việc là bỏ quảng cáo vào tờ báo),mỗi week-end được $40.00, mỗi tháng được $160.00, như vậy là cũng tạm ổn.
HUY PHƯƠNG: - Trúc Hồ bắt đầu bước vào sinh hoạt ca nhạc ở hải ngoại bắt đầu từ bao giờ?
TRÚC HỒ:- Lúc đầu có người rủ Hồ đi chơi nhạc, nhưng lại không đủ tiền mua đàn. Về sau Hồ chơi trong ban nhạc Chí Tài, mỗi tuần 3 đêm, mỗi đêm được $70.00, mỗi tháng cũng được gần $1,000.00 và lần đầu tiên Hồ đi mở riêng một bank account cho mình.
Học xong ba năm ở Golden West College, Hồ chuyển lên US Long Beach. Thời gian này, Hồ đờn cho ban Anh Tài, thu âm và chơi piano cho Dạ Lan, Anh Tài, thực hiện 7, 8 cuốn cassette, phát hành đi nhiều nơi trên thế giới, những chỗ có nhiều người Việt sinh sống.
Sau 3 năm rưỡi học hành, cuối cùng Hồ cũng ra tay không. Bỏ học, Hồ đi đàn cho ban Trung Nghiã, thu băng cho nhạc sĩ Anh Bằng…Trung tâm băng nhạc nào có thu băng là Hồ xách đờn tới.
HUY PHƯƠNG:- Trúc Hồ có thể nói qua cho biết nguyên nhân nào đã khiến ngày nay Trúc Hồ gắn bó với Trung Tâm Asia và đài truyền hình SBTN đã được thành hình ra sao không?

 
Zoom in (real dimensions: 720 x 960)
TRÚC HỒ: - Hồ có lúc đã chán cảnh xách đờn đi thu cho hết trung tâm này đến trung tâm khác, nên Hồ nhận lời mời của nhạc sĩ Anh Bằng và chị Thy Vân (ái nữ của Anh Bằng), về làm “music director”cho Trung Tâm Asia, lúc đó tách ra từ Trung Tâm Dạ Lan.
Bắt đầu từ đó, Hồ chung vốn làm Asia. Lúc ấy những cuốn băng Asia đều được dàn dựng và quay trong studio. Khi Las Vegas kỷ niệm 10 năm Ceasar, Hồ đưa ý kiến sao mình không quay luôn ngoài rạp khi trình diễn (tức là trực tiếp thu hình).
Đó là thể nghiệm lần đầu và cuốn băng “Đêm Saigon I” tại Ceasar Palace coi như thành công.
Asia đã đào tạo nên những ca sĩ tên tuổi như Như Quỳnh, Mạnh Đình, Lâm Thuý Vân, Lâm Nhật Tiến…. Còn Hồ thì bá nghệ: hoà âm, sáng tác, xử dụng nhạc khí, làm gì cũng được, nhưng may mắn là chỉ một vợ.
Sau đó, Hồ, anh Đông, chị Vân hùn tiền làm phim, đó là cuốn “Cơn Mưa Hạ”. Lúc mới bắt đầu hy vọng là sẽ có lời, nhưng cuối cùng cuốn phim lỗ vốn, hết sạch tiền, đây là lúc Hồ bắt đầu bán xới nhiều thứ.



Image
HUY PHƯƠNG:- Trúc Hồ gặp nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng từ lúc nào, và cái gì đã gắn bó giữa hai nhạc sĩ của hai thế hệ này, cũng như Trầm Tử Thiêng đã đóng góp gì cho những cuốn băng nhạc Asia? Sau hết là Trúc Hồ đã học hỏi được gì từ con người Trầm Tử Thiêng?
TRÚC HỒ:- Các trung tâm thu băng nhạc thường nhờ anh Trầm Tử Thiêng viết hoà âm và phần Hồ thì đờn trong ban nhạc, nhất là trong thời gian làm cho đài văn nghệ truyền thanh của anh Lương Văn Tỷ, do đó cũng có quen biết nhau nhưng chưa đi tới chỗ thân tình.
Khi anh em bắt đầu làm cuốn “Đêm Mưa Hạ”, Hồ viết nhạc cho phim xong có nhờ anh Thiêng viết lời cho hợp với câu chuyện phim. Sau đó cuốn phim coi như thất bại như anh đã biết ở phần trên.
Khoảng năm 1992 khi các trại tạm cư ở Đông Nam Á đóng cửa, tất cả con thuyền cập bến đều bị xua đuổi ra biển khơi và người tỵ nạn bị cưỡng bách hồi hương.
Nhiều người đã mổ bụng tự sát trong khi cảnh sát xông vào các trại lôi kéo người bắt lên máy bay, những cảnh tượng này đã gây xúc động sâu xa trong lòng Hồ, một đứa trẻ ngày xưa đã ở trong trại tỵ nạn và may mắn đã được đến Mỹ.
Từ đó, lòng Hồ luôn luôn nghĩ đến những đứa trẻ mà Hồ đã thấy sau những hàng rào giây kẽm gai ở các trại tỵ nạn, với đôi mắt thẫn thờ, vô vọng và từ đó, bài “Bên Em Đang Có Ta” ra đời.
Viết nhạc xong, Hồ đem đến nhờ nhạc sĩ Anh Bằng viết lời, nhưng Anh Bằng đã nói anh viết loại này không hay, Hồ nên gặp anh Trầm Tử Thiêng để nhờ anh viết lời và anh đã đáp ứng một cách sốt sắng.
Đây là một bài hát có tính nhân bản, nhắm đến những đứa trẻ đang kẹt nhiều năm trong các trại, thậm chí có những đứa trẻ sinh ra và lớn lên nhiều năm trong hàng rào kẽm gai.
Nhiều khi cần trao đổi về lời lẽ, tính anh Thiêng không những không tự ái, trái lại rất thông cảm, anh em ngồi lại thảo luận, sửa đi sửa lại, và phải nói là lời ca của “Bên Em Đang Có Ta” quá tuyệt vời. Sau đó Hồ đã kêu gọi các ca sĩ Ngọc Lan, Trung Hành… và gần 70 ca sĩ tập họp để hợp ca bài này, ai cũng sốt sắng nhận lời, mỗi người hát một câu, như ai cũng giang cánh tay ra với các em. Sau đó, Việt Dzũng đã giúp đỡ phổ biến CD này trên các đài phát thanh, gây nên những mối cảm xúc trong lòng người hải ngoại về chuyện cưỡng bách hồi hương.
Sau đó, một bản nhạc viết chung khác giữa Trầm Tử Thiêng và Trúc Hồ là bài “Bước Chân Việt Nam”. Thật ra lúc đầu Hồ chỉ muốn viết một bài để cám ơn nước Mỹ đã bao dung chúng ta, mở đầu bằng câu “Thanks America!”, sau đó anh Thiêng góp ý, rồi anh Nguyễn Hoàng Đoan đề nghị nhan đề là “Bước Chân Việt Nam” (đây là lúc Trầm Tử Thiêng chơi thân với gia đình chị Khánh Ly).
Bản nhạc này đã khẳng định được sự hợp tác thành công giữa anh Thiêng và Hồ. Sau đó là “Một Ngày Việt Nam” với giai điệu hoài hương, nhớ nhà, nhớ Việt Nam. Cũng từ những tâm tình đó, Hồ đã viết “Việt Nam Niềm Nhớ.” Rồi đến “Hẹn Nhau Năm 2,000”, phấn khởi với niềm tin bốc lửa, đã làm cho Trúc Hồ và Trầm Tử Thiêng gần gũi khắng khít với nhau hơn.
Anh Thiêng cũng đã giúp viết script cho Asia nhiều lần. Lời hát Trầm Tử Thiêng viết là những lời đẹp đẽ nhất, mang tâm trạng của những người tỵ nạn hải ngoại lúc nào cũng nghĩ về đất nước Việt Nam và mong mỏi có một ngày tươi sáng.
Anh Thiêng là một người cứng rắn, cương quyết chống đối đến cuối cùng để giành lẽ phải, nhưng đầy lòng nhân hậu, lúc nào anh cũng nghĩ về quê hương và những người khốn khổ hơn mình. Anh em thường bàn luận về những vấn đề chính trị và hiện tình đất nước, phải nói là bạn bè rất tương đắc.
Hồ học cách viết lời nơi anh Trầm Tử Thiêng, dung dị mà đượm tình người vì chính Hồ cũng biết những khuyết điểm về tiếng Việt của mình.
Cách sống của anh Thiêng là hết lòng với bạn bè, thẳng thắn và không bao giờ buông thả, phản ánh con người nghệ sĩ mà “rất thầy giáo” của người nhạc sĩ này.
Cũng xin nói rõ cho anh biết, là tuy tuổi tác cách biệt (anh Trầm Tử Thiêng cùng tuổi với Ba của Hồ) nhưng luôn luôn xem nhau như bạn bè ngang hàng, anh em hay nói rõ hơn là tri kỷ.
Hai anh em đã đồng ý với nhau nhiều vấn đề và có ý nghĩ chung về đất nước, tương lai. Không bao giờ anh Thiêng ỷ lớn để áp đặt tư tưởng hay chơi ép Hồ. Nhiều khi anh em cãi nhau về một nốt nhạc, một chữ trong bài, nhưng cuối cũng cũng thu xếp ổn thoả.

HUY PHƯƠNG
.


Cuộc sống của người Việt trên đất nước Mỹ


Gần đây tôi có đọc được một vài bài viết nói về cuộc sống của người Việt trên đất nước Mỹ khiến tôi không khỏi chạnh lòng. Ở bất kỳ đất nước nào trên thế giới, con người cũng đều phải đi làm để lo cho cuộc sống của mình. Những người lười biếng, thì cuộc đời của họ sẽ dậm chân tại chỗ
 
Giầu và nghèo thì không có nước nào mà không có hai tầng lớp này, bởi vì chẳng nơi nào chỉ có toàn người giầu và chẳng nơi nào chỉ có toàn người nghèo cả.
 
Tôi đã theo cha mẹ qua Mỹ khi lên 10 tuổi và bây giờ chỉ còn hai năm nữa thì tôi được 30. Như vậy có nghĩa là tôi đã sống ở Mỹ một thời gian khá dài. Phải nói rằng trong lòng tôi luôn cám ơn đất nước Mỹ đã cho tôi cơ hội đến trường mà không phải lo sợ không có tiền để đóng cho họ, cám ơn Mỹ đã cho tôi cơ hội để cầm mảnh bằng kỹ sư trong tay, và cám ơn Mỹ đã cho tôi cơ hội kiếm được một công việc làm khá tốt.
 
Tất cả những điều có được ngày hôm nay là do sự cố gắng vươn lên của tôi. Muốn bước tới sự vinh quang không phải là ngồi một chỗ than thở hoặc lười biếng mà có được.
 
Rất nhiều người Việt vượt biên qua Mỹ trước kia đã thành công, có nhà cửa và có tương lai sự nghiệp vững chắc. Cha mẹ tôi khi đặt chân qua Mỹ cách đây 18 năm cũng đã phải làm lại từ đầu. Ông bà không quản ngại làm việc siêng năng để lo cho anh em tôi học nên người, nhưng không bao giờ than van rằng đất nước Mỹ bắt họ phải làm việc đầu tắc mặt tối.
 
Đất nước Mỹ không hề mang chúng ta sang đây, mà chính chúng ta tự đòi sang, vì thế nếu làm việc cực khổ thì đừng bao giờ phiền trách họ vì như thế là mình quá vô lý.
 
Nhiều người Việt khi mới đặt chân qua Mỹ sau những ngày vượt biên nguy hiểm đầy gian nan đã được chính phủ Mỹ nuôi dưỡng trong một chương trình trợ cấp còn được gọi là welfare vì có con nhỏ cho tới khi 18 tuổi, ngoại trừ độc thân thì chỉ được 24 tháng. Như vậy đủ biết xã hội mỹ đã tốt đến thế nào đối với chúng ta.
 
Người Việt ở Mỹ cũng có hai tầng lớp: một loại trí thức có văn bằng cầm trong tay và một loại người không có mảnh bằng nào cả. Người có bằng cấp sẽ kiếm được công ăn việc làm tốt hơn, còn người không có bằng cấp thì phải làm nghề lao động. Dĩ nhiên lương sẽ không được trả cao.
 
Ở Mỹ tôi đã nhìn thấy rất nhiều người cùng thế hệ với tôi trở thành bác sĩ, kỹ sư giúp ích cho đời sống mọi người. Đa số những người qua Mỹ sau này muốn làm giầu nhanh nhưng không chịu học hành.
 
Cũng có nhiều người Việt ở Mỹ từng làm giầu bằng nghề Nail. Tôi không quen biết ai trong ngành này, nhưng theo những nhận xét từ người lớn cho biết, họ kiếm tiền rất dễ dàng . Chính họ tự chọn làm nghề chà chân, sơn móng tay để kiếm tiền, chứ chính phủ Mỹ hay người Mỹ không hề bắt họ làm như vậy. Nghề này ngồi trong bóng mát và không quá khổ cực như những người phải làm việc ở ngoài đồng nhặt trái cây giống như người Mễ, hoặc công nhân sửa đường phố, nên xin đừng than thở. Mỗi lần tôi nghe ai than làm nghề nail thế này thế nọ thì tôi không thể hiểu họ thực sư muốn gì!.
 
Đôi khi họ kiếm nhiều tiền hơn cả những người đã phải bỏ công ra ngồi học 4 năm trong đại học. Những người đi làm cho công ty Mỹ luôn đóng thuế đàng hoàng nhưng họ lại không.
 
Tôi rất ghét những người ăn cơm Mỹ, ở nhà Mỹ, kiếm tiền từ người Mỹ nhưng luôn chê trách cuộc sống và đất nước Mỹ. Những người chỉ biết đứng núi này trông núi nọ không bao giờ thành công và hài lòng với những gì họ đạt được.. Nếu thật sự ở Việt Nam tốt hơn trong mắt họ thì họ nên về đó mà sống, sang Mỹ làm gì!.
 
Căn cứ theo báo cáo cũng như từng đọc báo chí thì tôi thấy cuộc sống ở VN khó khăn gấp nhiều lần bên Mỹ. Thử hỏi một kỹ sư hóa học ra trường kiếm được bao nhiêu tiền một tháng? Ngay cả tầng lớp trí thức như giáo sư người đã cho sinh viên kiến thức, mà còn nghèo khổ đi làm thêm ban đêm để có đủ tiền nuôi vợ con đó thôi.
 
Những người giầu bên VN đa số là cán bộ cao cấp, con ông cháu cha hoặc là những người buôn bán, ngoài ra số người nghèo thì vẫn còn rất nhiều.
 
Chúng ta không thể nào so sánh cuộc sống của người Việt tại Mỹ với cuộc sống của người Việt tại quê nhà được vì đây là hai bối cảnh hoàn toàn khác nhau. Ở Mỹ làm việc cực nhọc nhưng không cảm thấy bị gò bó, muốn nói gì hay đi đâu cũng được.
 
Ngoài ra luật phát của Mỹ luôn được tôn trọng nên ý thức của con người rất cao, còn ở Việt Nam thì luật pháp chẳng bao giờ được người ta thực hành triệt để vì ý thức của người dân quá thấp kém.
 
Người Mỹ rất lịch sự mặc dù có một số người kỳ thị nhưng khi gặp gỡ mình ngoài đường họ luôn nói lời chào hỏi dù không hề quen, điều này khiến cho người Việt ở Mỹ cũng lịch sự theo.
 
Người Việt ở Mỹ rất có lòng tốt đối với thân nhân còn sống ở bên Việt Nam. Dù giầu hay nghèo họ đều cố gắng gởi tiền về VN lo cho gia đình, thử hỏi đa số những người bên VN có dám cho tiền thân nhân của mình hay không khi biết họ nghèo khổ?, giỏi lắm thì chỉ được vài bữa ăn là cùng. Tranh giành nhau từng thước đất, hoặc gia tài thì có rất nhiều.
 
Con cái ở bên Mỹ không bao giờ chờ đợi được chia gia tài từ cha mẹ. Họ tự tạo cho mình một cuộc sống vững chắc riêng.
 
Mỗi người có một cuộc sống đi kèm theo sự thành công hay thất bại. Mỹ chưa phải là thiên đường nhưng nó đã giúp cho người Việt ở đây có rất nhiều cơ hội mà nếu ở VN thì chắc chắn họ sẽ không bao giờ có được trừ khi họ có thân nhân làm trong guồng máy chính quyền.
 
Tôi không quên nguồn gốc mình là người Việt Nam nhưng tôi cũng sẽ không làm kẻ vong ơn, ăn cơm, uống nước của Mỹ nhưng luôn miệng che bôi Mỹ.
 
Tôi rất tự hào khi được sống ở bên Mỹ.
 
(Sưu tầm trên net)

Friday, June 27, 2014

Phong Trào Độc Lập và Sự Phân Hóa của Trung Cộng


Vương Trí Dũng
Hợp rồi tan tan rồi hợp. Đó là quy luật của tự nhiên và xã hội.
Gần đây nhất, Liên bang Xô viết thành lập năm 1922 và tan rã năm 1991.
Năm 1949 nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, sáp nhập Tây Tạng Tân Cương Nội Mông trở thành quốc gia có diện tích lớn thứ ba thế giới.
Và hiện nay, nỗi sợ hãi lớn nhất của nhà cầm quyền Trung Cộng là sự tan rã.
Trung Cộng đang đối mặt với phong trào đòi độc lập, ngày một mạnh mẽ, của các khu vực sau đây.

1. Khu Tân Cương
Khu Tân Cương là khu vực nóng bỏng nhất về tinh thần ly khai hiện nay ở Trung Quốc. Tân Cương có truyền thống độc lập lâu đời tách biệt khỏi người Hán. Tân Cương có diện tích 1,6 triệu km vuông, chiếm 1/6 diện tích Trung Quốc. Người Uyghur chiếm đa số ở Tân Cương. Trung Cộng chiếm được Tân Cương phần lớn từ đời nhà Thanh trong thế kỷ 19. Trung Cộng chủ trương tăng nhanh dân số người Hán, từ 7% năm 1949 lên 40% hiện nay.
Trung Cộng đẩy mạnh Hán hóa vùng Tân Cương và đàn áp dã man phong trào đòi độc lập của người Uyghur. Tân Cương sẽ là khu vực đẫm máu của Trung Cộng trong nhiều năm tới.
2. Khu Tây Tạng
Tây Tạng có lịch sử lâu đời và tồn tại các đế chế khác nhau độc lập với người Hán. Tây Tạng có diện tích khoảng 1,3 triệu km vuông chiếm gần 1/7 diện tích Trung Cộng. Tây Tạng bị nhà Thanh thôn tính trong thế kỷ 18. Nhưng năm 1913 lại giành được độc lập. Năm 1951 chính quyền Mao Trạch Đông đã tiến quân vào Tây Tạng, sáp nhập Tây Tạng vào Trung Cộng.
Trung Cộng cũng thực hiện Hán hóa gấp rút vùng Tây Tạng. Người Tạng chỉ có khoảng 6 triệu. Nhưng từ năm 1951 chính quyền Trung Cộng đã đưa ước tính hơn 7 triệu người Hán đến Tây Tạng.
Phong trào đòi độc lập cho Tây Tạng được tiến hành rộng rãi không ngừng từ sau cuộc nổi dậy bất thành năm 1959. Cuộc đấu tranh đòi độc lập cho Tây Tạng được nhiều nước phương Tây ủng hộ.
Trung Cộng sẽ phải đối mặt không ngừng với vấn đề độc lập của Tây Tạng.

3. Khu Nội Mông Ninh Hạ
Khu Nội Mông Ninh Hạ có diện tích gần 1.3 triệu km vuông, với dân số hiện nay khoảng 31 triệu người, trong đó người Hán chiếm áp đảo khoảng 80%.
Nội Mông Ninh Hạ trong lịch sử nhiều ngàn năm là các quốc gia khác nhau không thuộc Trung Quốc. Chỉ đến năm 1950, Mao Trạch Đông mới thôn tính hoàn toàn và áp đặt khu Nội Mông Ninh Hạ trong sự cai trị toàn bộ của Trung Quốc.
Với lịch sử độc lập nhiều ngàn năm trước, tuy số dân Mông Cổ và các tộc khác chiếm tỷ trọng ít, nhưng với phong trào ly khai ở các khu vực khác, khu Nội Mông Ninh Hạ cũng luôn tiềm ẩn bùng phát phong trào đấu tranh đòi độc lập khỏi Trung Cộng.

4. Khu Quảng Đông 
Quảng Đông hiện là tỉnh có số dân hơn 105 triệu, đông nhất Trung Cộng và là tỉnh có thu nhập quốc dân lớn nhất Trung Cộng.
Tiếng Quảng Đông rất khác biệt được người Quảng Đông sử dụng ở Trung Cộng và nhiều nơi trên thế giới. Tiếng Quảng Đông từng được Tôn Trung Sơn dự tính là tiếng chính thức của Trung Cộng. Chỉ từ khi Mao Trạch Đông cầm quyền mới thiết lập được sự thống trị của tiếng Mandarin ở Trung Quốc như hiện nay.
Đề cập đến tiếng nói, văn hóa và kinh tế để thấy rằng khu vực Quảng Đông là một vùng rất đặc biệt và người Quảng Đông không ngừng có tư tưởng độc lập với các tỉnh khác. Chính quyền Bắc Kinh hiện nay đang lo lắng về sự trỗi dậy của Quảng Đông như một “Quốc gia” có tiếng nói, văn hóa khác biệt lâu đời, với một tiềm lực kinh tế hùng mạnh.

5. Khu Quảng Tây Vân Nam
Khu Tự trị người Choang của Quảng Tây, các dân tộc vùng Vân Nam từ xa xưa đều độc lập với vùng Hoa hạ. Bởi vậy, phong trào ly khai luôn có thể xẩy ra bất cứ lúc nào khi thời cơ đến.
Chưa kể đến vùng Thanh Hải Cam Túc đều thuộc các đế chế khác trước đây, chưa nói đến vùng Tứ Xuyên chuyên mưu đồ riêng cơ nghiệp, chỉ 5 khu vực có phong trào ly khai trực diện và ngấm ngầm nêu trên đã chiếm đến khoảng ½ diện tích Trung Cộng. Đó thực sự là nỗi lo và nỗi sợ hãi lớn nhất của chính quyền bá quyền Trung Cộng.
Tại sao Trung Quốc đang hung hăng?
Sự hung hăng của Trung Cộng hiện nay trên Biển Đông nói riêng và trên trường quốc tế nói chung, ngoài tham vọng bành trướng quyền lực và xâm chiếm tài nguyên lãnh thổ, còn có một lý do khác, đó chính là đánh lạc hướng dư luận về những khó khăn nội bộ, nhất là phong trào ly khai trực diện của Tân Cương, Tây Tạng và làn sóng ly khai ngầm đang âm ỉ ở Quảng Đông.

Bao giờ thì Trung Quốc bị phân rã?
Phong trào đấu tranh ly khai sẽ không bao giờ ngừng ở Trung Cộng. Những dân tộc có truyền thống độc lập hàng ngàn năm trước khi bị sáp nhập vào Trung Cộng ngày nay, sẽ không bao giờ chịu khuất phục. Họ sẽ không ngừng tranh đấu cho một nền độc lập dân chủ tự quyết của chính dân tộc mình.

Trung Cộng sẽ bị phân rã trong tương lai, khi mà nhân loại càng văn minh dân chủ và khi mà nền dân chủ đích thực toàn thắng ở Trung Cộng.

Biết được kẻ thù của Trung Cộng để xác định đồng minh. Biết được điểm yếu của Trung Cộng để không sợ Trung Cộng.
V.T.D

Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn



Chuyện một người Chiến binh trong cuộc chiến Bắc Nam: Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn

nhân đánh dấu 35 năm ngày 30-4-1975
Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn là bạn tù của tôi ở trại Lam Sơn, một Trung tâm Huấn luyện của quân đội VNCH tại Dục Mỹ, quận Ninh Hòa, được bộ đội miền Bắc chiến thắng trong cuộc chiến tranh Bắc Nam 1955-1975 tạm thiết lập làm trại tù.
Anh Sơn, nguyên thiếu tá lực lượng Lôi Hổ. Thời gian anh Sơn và tôi ở tù chung một trại không dài nhưng anh đã để lại cho tôi một ấn tượng khó quên. Một mẫu người có phong cách kỳ lạ.
Hình ảnh và tiếng kêu của anh Sơn vẫn còn văng vẵng bên tai tôi suốt 35 năm qua sau ngày chúng tôi chia tay nhau.
Anh được chuyển ra khỏi trại Lam Sơn để bước vào vòng thứ nhì của hệ thống địa ngục lao tù cộng sản. Khi chiếc xe GMC chở tù chuyển trại chạy qua khu trại tôi vào một ngày nóng bức cuối tháng 7 năm 1975 anh Sơn kêu to để báo cho tôi biết anh rời trại. Tôi chỉ kịp nhìn thấy chiếc xe tù chạy qua, cánh tay anh Sơn đưa cao vẫy. Tôi vẫy lại. Rồi biệt vô âm tín.
Thế mà đã ba mươi lăm năm!
Cuối tháng 3 năm 1975 sau khi bộ đội cộng sản vào thành phố Nha Trang tôi bị kẹt lại. Tháng 6 đang đêm công an đến nhà bắt tôi về tội không ra trình diện.
Thật ra tôi có trình diện, nhưng trễ. Biết mình đã nằm trong rọ, tôi cẩn thận theo dõi các thông cáo của Ủy ban quân quản (cơ cấu chính quyền mới ngay sau khi chiếm thị xã Nha Trang) về việc trình diện. Lúc đó tôi là dân biểu thị xã Nha Trang. Gốc sĩ qan Hải quân, nhưng tôi đã giải ngũ từ năm 1971 và không có chân trong bất cứ một đảng chính trị nào tôi đặt mình vào diện “dân cử” và chờ gọi dân cử ra trình diện để thi hành. Không thấy có thông cáo nào gọi dân cử, tôi nằm nhà chờ. Tuy nhiên vì thận trọng, một thời gian sau tôi ra phường Lộc Thọ trình diện. Lấy cớ không ra trình diện công an thị xã ra lệnh bắt.
Đang đêm đại úy công an Nguyễn Văn Linh (trùng tên với ông Tổng bí thư đảng cộng sản sau 1986) trưởng ty công an Nha Trang dùng xe Jeep  dẫn một đoàn du kích đến bắt tôi. Khi đại úy Linh giải thích lý do, tôi trình giấy trình diện. Đại úy Linh hơi lúng túng. Nhưng đoán biết công an đã quyết định bắt tôi, trình diện hay không chỉ là cái cớ, tôi nói sẵn sàng về đồn để cơ quan an ninh làm những thủ tục cần thiết. Cảm thấy thoải mái đại úy Linh bảo tôi mang đồ lề cá nhân lên xe công an đậu chờ xế cổng nhà. Tôi ngồi băng sau không bị còng tay, bên cạnh là một anh công an mang súng dài. Đại úy Linh ngồi băng trước, súng lục ngang hông với tài xế. Đoàn du kích bao vây quanh nhà tản mác vào đêm tối.
Công an đưa tôi về ty công an thị xã Nha Trang đóng nơi nhà ông giám đốc chi nhánh Nha Trang của Ngân hàng Việt Nam Thương Tín nằm trên đường Duy Tân chạy dọc theo bờ biển Nha Trang. Từ đó công an chuyển tôi lên trại Lam Sơn. Tại đây tôi ở chung trong một trại nhỏ, giống như một căn nhà với Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn. Trong tổng trại Lam Sơn có hằng mấy trăm căn nhà như vậy.
Từ trại Lam Sơn đang đêm tôi cùng một số tù nhân khác được chuyển về nhà tù Chợ Đầm của tỉnh Khánh Hòa. Sau vài tuần lễ được chuyển về giam tại trại giam tù chính trị cũ (của VNCH) xây phía sau Trung Tâm Huấn Luyện Công chức, cũng nằm trên đường  Duy Tân. Hai ngày đầu tôi bị nhốt vào xà lim trước khi chuyển qua nhốt chung với hơn 80 anh em tù nhân trong một căn phòng chỉ có khả năng chứa khoảng 30 người nằm ngồi. Tại đây tôi gặp ông Khác Chánh Văn Phòng của đại tá Lý Bá Phẩm, tỉnh trưởng Khánh Hòa kiêm thị trưởng thị xã Nha Trang và ông Nghi, trưởng ty hành chánh Thị Xã Nha Trang. Qua hai ông Khác và Nghi tôi được biết đại tá Phẩm cũng đang bị giam riêng trong trại để điều tra cùng với Thiếu Tá bác sĩ Dù Trần Đoàn.

Trại cải tạo (hình có tính minh họa)
Từ trung tâm này tôi được chuyển lên trại Đồng Găng trong rừng sâu của tỉnh Khánh Hòa. Tôi được trả tự do từ trại Đồng Găng.
Trở lại chuyện Thiếu Tá Sơn. Tôi không quen biết Thiếu Tá Sơn trước khi đến trại Lam Sơn. Chúng tôi chỉ ở chung nhà với nhau vài tuần lễ trước khi tôi  được chuyển qua nhà khác và sau đó Sơn được chuyển ra khỏi trại Lam Sơn.
Chỉ mấy tuần thôi, chúng tôi quen nhau, thân nhau, tin cậy nhau. Câu chuyện tôi thuật lại ở đây hoặc do Thiếu Tá Sơn kể lại hoặc xẩy ra trong mấy tuần lễ ngắn ngủi đó.
Trước ngày 31/3/1975 (ngày quân đội cộng sản chiếm tỉnh Khánh Hòa) trại Lam sơn là một Trung Tâm Huấn Luyện cấp sư đoàn của quân đoàn 2 có khả chứa hàng ngàn tân  binh hoặc binh sĩ về tái huấn luyện. Các binh sĩ này tạm trú trong những mái nhà tranh đơn sơ dựng cạnh nhau có phên che gió và giường ngủ chồng lên nhau. Lực lượng  cộng sản quản lý trại dùng các căn nhà này sau khi đã tháo phên che và giường chồng bên trong (để dễ kiểm sóat) gọi là “Nhà”, Nhà số 1, Nhà số 2 v.v… để cho các cựu sĩ quan và công chức miền Nam vừa bại trận trú ngụ trong thời gian học tập. Sĩ quan ở riêng. Công chức ở riêng.
Nhà số 10 dành cho một trung đội Dù bị bắt tại đèo Phượng Hoàng thuộc quận Khánh Dương trên quốc lộ nối liền Ban Mê Thuột với Nha Trang qua quận lỵ Ninh Hòa. Đặc biệt nhà số 10 sĩ quan ít mà nhiều lính Dù. Trung đội Dù này đã quần thảo với quân chính quy Bắc Việt trên đèo Phượng Hoàng cho đến phút chót. Trong nhà 10 chỉ có một Trung úy và một Thiếu úy Dù, còn lại là hạ sĩ quan và binh sĩ, và một sĩ quan Lôi Hổ: Thiếu Tá Nguyễn Văn Sơn.
Tôi bị bắt trễ nên khi lên Lam Sơn các dãy nhà đều đầy người, họ nhét tôi vào nhà 10. Tôi nhận thấy hai người sĩ quan Dù rất bình thản và các người lính Dù có vẻ thoải mái như đang được nghỉ ngơi sau các cuộc hành quân. Họ giúp các sĩ quan đào giếng lấy nước, trồng cà chua, ớt, bầu bí v.v… nơi đám đất  bỏ hoang trước nhà. Thiếu Tá Sơn suốt ngày hút thuốc và kể chuyện tiếu lâm.
Thời biểu chính của tù nhân là hằng ngày lên lớp nghe cán bộ giảng 9 bài căn bản. Tôi còn nhớ một số đề tài như “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”, “Chiến tranh giới hạn” … và học những bài hát  “cách mạng” như “Tiếng chày trên sóc Mambo”, “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, “Giải Phóng Miền Nam”, “Chiến thắng Điện Biên”…
Tôi không hiểu làm sao và lúc nào tôi và Thiếu Tá Sơn trở nên thân nhau. Hình như Lôi Hổ và Dù không có gạch nối nên hai sĩ quan Dù ít nói chuyện với Thiếu Tá Sơn. Lính Dù thì vẫn giữ khoảng cách với sĩ quan. Có lẽ còn do tính tình. Hai sĩ quan Dù ít nói, trong khi Thiếu Tá Sơn sống để ruột ngoài da. Anh Sơn không quan tâm đến hoàn cảnh. Ông vui sống trong cảnh tù tội và sằn sàng đón chờ mọi chuyện.
Thời gian đó không khí trong trại Lam Sơn còn rất dễ chịu. Người cộng sản có sách vở để xử lý phe địch. Họ áp dụng phương pháp “bảy tầng địa ngục”. Họ không đưa người tù vào ngay tầng dịa ngục cuối cùng. Họ đưa vào tầng nhẹ nhàng nhất ở ngoài và dần dần đưa người tù vào các tầng bên trong khắc nghiệt hơn từng bậc để người tù thích ứng dần và mất ý chí phản kháng.
Trại Lam Sơn,  nơi tù nhân học 9 bài căn bản là vòng đầu của địa ngục. Sau giờ lên lớp tù nhân trở về nhà giam tự do thoải mái trò chuyện với nhau, nấu nướng linh tinh gì cũng được, có thể đi thăm bạn tù ở các nhà khác và chỉ phải tôn trọng giờ đi ngủ và giờ thức dậy. Trước cỗng trại Lam Sơn ban quản trại cho họp chợ bán thức ăn và mọi thứ cần dùng cho tù nhân. Vợ con tù nhân đến thăm bao nhiều lần một tuần cũng được và tù nhân có tiền (lúc đó tiền VNCH vẫn còn lưu dụng) có thể tiêu xài thoải mái.
Học xong 9 bài là thời  kỳ 2 tuần lễ để viết bản “thu hoạch”, nghĩa là mỗi tù nhân viết bản khai lý lịch, khai báo quá trình làm việc và mọi tư tưởng riêng tư. Trong thời kỳ này ban quản trại mỗi ngày tập họp tù nhân toàn trại một lần động viên tù nhân “thành thật khai báo” để được khoan hồng về với gia đình. Ban quản trại phỉnh các tù nhân rằng họ có hồ sơ từng người không cần khai báo họ cũng đã biết. Thu hoạch chỉ là để đo sự tin tưởng của tù nhân vào “cách mạng”. Thời kỳ khai báo họ để cho tù nhân nhiều tự do hơn và đa số tù nhân tưởng rằng (trừ các sĩ quan và viên chức ở trong ngành an ninh tình báo) sau khi viết xong bản thu hoạch họ sẽ được trả tự do. Tâm lý này làm đa số tù nhân viết rất thật, không dấu diếm ngay cả những gì nghĩ là sai trái mình đã làm, cũng như các công tác quan trọng mình đã thi hành. An ninh cộng sản chỉ cần có thế để phân loại tù nhân đưa vào những tầng trong thích hợp cho từng đối tượng của bảy tầng địa ngục.
Bản thu hoạch của tôi tương đối đơn gỉản nên chỉ cần vài hôm là tôi viết xong. Tôi ở trong quân ngũ 16 năm. Hai  năm tại trường đào tạo kỹ sư hải quân của hải quân Pháp, một năm phục vụ trên chiến hạm như một cơ khí trưởng và 13 năm tại Trường Sĩ Quan Hải quân Nha Trang như một huấn luyên viên và sĩ quan điều hành công tác đào tạo sĩ quan hải quân, trước khi đắc cử dân biểu thị xã Nha Trang và giải ngũ. Thời gian trên chiếm hạm, chiến tranh bắc nam chưa bùng nổ lớn nên chiến hạm của tôi chỉ đi làm các công tác tiếp tế nhỏ. Một chuyến đi tiếp tế địa phương quân canh gát đài khí tượng trên đảo Hoàng Sa, một chuyến tiếp tế cho trại tù Côn Sơn.
Thiếu Tá Sơn cũng không viết gì nhiều. Tôi hỏi, Sơn nói: “Họ nói họ đã biết hết rồi thì còn gì để viết. Tôi viết ngắn gọn rằng tôi là sĩ quan Lôi Hổ, một đội quân được huấn luyện để làm các công tác đột kích vào mật khu Việt cộng, và tôi đã từng giết nhiều cán bộ cao cấp trong các cuộc đột kích. Tôi sẵn sàng trả giá của người chiến bại theo tinh thần thượng võ, không có gì để nói chuyện khoan hồng khai báo lôi thôi.”
Cung cách của Thiếu Tá Sơn là vậy. Hiên ngang như đời sống phóng khoáng của anh. Anh kể rằng anh thuộc một gia đình công giáo sung túc. Bố mẹ muốn anh trở thành linh mục. Anh đã vào đại chủng viện, nhưng chịu không nổi khuôn phép của Giáo Hội để trở thành linh mục, anh rời chủng viện bất chấp sự bất mãn của bố mẹ. Tránh phiền toái và trách móc của gia đình anh thi vào trường sĩ quan bộ binh Đà Lạt. Ra trường anh chọn binh chủng Lôi Hổ để thỏa chí phiêu lưu.
Thiếu Tá Sơn cho biết anh có vợ và 2 con. Chuyện lấy vợ của anh ly kỳ không kém đời anh. Nó là một tình sử của thời chiến tranh. Trách Sơn cũng được mà thông cảm Sơn cũng được.
Chuyện Sơn kể rằng: Sau những ngày đánh trận anh thường lang thang nơi thành phố Nha Trang. Một nữ sinh ở Xóm Bóng lọt vào mắt xanh của anh. Hai người tha thiết yêu nhau và anh quyết định cưới người yêu.
Bố mẹ cô nữ sinh không thuận cuộc hôn nhân vì không muốn con gái ở góa trong thời chinh chiến. Lý do khác là khác biệt tôn giáo. Sơn đến nhà cô gái cho bố mẹ cô gái biết anh không có thì giờ chờ đợi và anh không buộc vợ rữa tội theo đạo Chúa. Anh nói anh đã sắp xếp với nhà thờ và trong vài hôm sẽ mang sính lễ tới xin cưới trước khi đi hành quân. Anh đã thuê một căn nhà trong thành phố cho vợ ở khi anh vắng nhà.
Ngày hẹn, anh đến nhà cô gái với sính lễ đầy đủ trên hai chiếc xe Jeep.  Anh dùng một xe có tài xế. Xe thứ  hai dành cho hai sĩ quan bạn và mấy quân nhân Lôi Hổ tháp tùng. Một đại úy đóng vai đại diện nhà trai làm chủ hôn. Một trung úy đóng vai phụ rễ. Anh Sơn mặc đại lễ trung úy Lôi Hổ, lưng đeo súng ngắn, ngực đầy huy chương.
Biết bố mẹ vợ tương lai sẽ từ chối cuộc rước dâu, anh cho quân nhân mang sính lễ vào nhà như không có chuyện gì sẽ xẩy ra. Anh Sơn và hai sĩ quan bạn theo sau. Thấy  quân nhân trang trọng vào nhà, bố mẹ cô dâu buộc phải ra tiếp (thời chiến tranh, không ai muốn cưỡng lại nhà binh!). Ông bố bình tỉnh hỏi quý vị đến nhà có việc gì. Ông đại úy chủ hôn trình bày lý do. Ông bố tuyên bố ông chưa bao giờ chấp thuận hôn lễ. Đã tính trước, ông đại úy xin được mời cô dâu ra để hỏi ý kiến. Từ trong phòng cô dâu trang phục sẵn sàng bước ra trước sự ngạc nhiên của bố mẹ.
Ông đại úy chủ hôn hỏi, và cô dâu xác nhận biết hôm nay là ngày hôn lễ của cô với trung úy Nguyễn Văn Sơn. Bố mẹ cô dâu nén giận nhưng đành phải để cho con lên xe hoa. Trung úy Sơn giành tay lái, người yêu khóc sướt mướt ngồi bên cạnh. Khóc vì lấy được người yêu hay khóc vì đã làm buồn lòng cha mẹ? Ghế sau hai quân nhân bồng súng ngồi ở thế tác chiến. Sĩ quan chủ hôn và phù rể lái theo sau. Đám cưới không có phù dâu.
Sau lễ cưới độc đáo của thời chiến tranh, trung úy Sơn chiến trận liên miên. Chị Sơn ở nhà lo tổ ấm. Sau vài năm anh chị Sơn có được hai cháu, một trai một gái kháu khỉnh. Thấy con gái có hạnh phúc với tình yêu chân thật bố mẹ chị Sơn tha lỗi cho con gái, nhận rễ và cho phép con gái và cháu ngoại về ở chung để con gái tránh đơn độc trong những lúc anh Sơn hành quân vắng nhà.
Biến cố tháng Tư đến và trung úy Sơn, lúc này là thiếu tá bị bắt tại mặt trận và đưa vào trại Lam Sơn. Câu chuyện giữa anh Sơn và tôi bắt đầu từ đó.
Cán bộ hướng dẫn nhà 10 của chúng tôi là một hạ sĩ quan quê Bắc Ninh. Anh ta hiền lành và không hống hách như các cán bộ khác. Anh thưộc một đơn vị chính quy quân đội Bắc Việt từng tham dự trận đánh An Lộc trong những ngày đầu của trận chiến sau cùng. Mỗi ngày anh đến nhà chúng tôi làm nhiệm vụ hướng dẫn và thường ngồi xổm trên đất, tay vấn thuốc lá phì phèo hút và kể đủ thứ chuyện về “ngoài Bắc ta” và chuyện chiến trận anh đã trải qua. Anh không tô điểm đời sống “ngoài Bắc ta cái gì cũng có” như các cán bộ khác và kể lại các trận đánh anh không theo luận điệu của trại là “trận nào quân ta cũng thắng”. Chúng tôi trong nhà 10 có nhiều thiện cảm với anh, và trở nên bạo dạn trong những trao đổi với anh.
Một hôm tôi ngồi cạnh Thiếu Tá Sơn nghe anh nói chuyện với anh trung sĩ cán bộ. Thuật lại một trận đánh để giành một vị trí gần Lộc Ninh, viên trung sĩ nói đơn vị anh, mặc dù với quân số áp đảo, đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của một đơn vi quân đội VNCH cho nên dù chấp nhận mọi tổn thất nhân mạng đơn vị anh vẫn không chiếm được vị trí. Thiếu Tá Sơn cho biết tiểu đoàn của anh đã được phái đến tăng cường trong trận đánh đó. Sơn nói:
“Đánh đấm với các anh chán bỏ mẹ. Quân lính các anh cỡ tuổi 14 hay 15, trông như con nít, không biết gì khác ngoài việc xông tới, hết lớp này đến lớp khác. Chúng tôi bắn chết, thây chồng chất lên nhau trông vừa thương tâm vừa kinh tởm và có lúc tôi đã ra lệnh cho lính tạm ngừng bắn dù biết chậm một giây là đơn vị có thể bị tràn ngập”
Viên trung sĩ cán bộ nghe và không trả lời. Anh ta chỉ cười nho nhỏ. Vẫn giữ thế ngồi xổm anh xê dịch kiếm lửa châm điếu thuốc đang hút dở vừa tắt. Hình như anh ta chán nản một điều gì.
Chiều hôm đó tôi nói với Sơn: “Chúng ta là kẻ chiến bại. Những gì anh nói với viên trung sĩ cán bộ có thể được báo cáo và người  cộng sản có thể thủ tiêu anh. Khích hay làm nhục kẻ chiến thắng không phải là một cách hành xử không ngoan.”
Sơn cười chua chát: “Tôi biết họ và họ biết rõ tôi. Trước sau họ cũng sẽ giết tôi. Tôi nói để họ biết người chiến sĩ VNCH không hèn nhát. Thua, tôi chấp nhận mọi hậu quả, không than van, không than trời trách đất, không đổ thừa cho đồng minh bỏ chạy.”
Thiếu Tá Sơn rất ít nói đến gia đình dù tôi biết anh nghĩ tới và âu lo từng phút từng giây. Có lẽ anh đang dọn mình cho đời sống ở một thế giới khác cùng với người vợ và cũng là người tình duy nhất của anh. Trong khi thân nhân của các sĩ quan và công chức bị bắt tại Nha Trang và các vùng lân cận đến thăm thì không một thân nhân nào của anh Sơn đến thăm anh. Tôi hỏi, anh Sơn nói anh không biết và cũng không muốn đoán biết.  Anh nói anh xem như đời anh đã chấm dứt sau khi đơn vị anh đầu hàng và anh không thể tự vận vì anh là một tín dồ theo đạo Chúa.
Một thời gian vài tuần sau khi mọi tù nhân viết xong bản “kiểm điểm” nộp ban quản trại, tôi được chuyển sang một nhà khác giam chung với các công chức trong thị xã . Họ đã xếp loại và cho tôi vào thành phần “ngụy quyền”.
Bây giờ không còn chợ trời trước cổng trại Lam Sơn, không còn  những buổi thăm viếng tự do. Nhân một tù nhân lợi dụng giờ ra chợ trốn trại về Nha Trang bị bắt lại, ban quản trại không cho họp chợ nữa. Nhưng bên trong trại các tù nhân vẫn còn được đi lại từ nhà này qua nhà khác thăm viếng hàn huyên. Tôi vẫn thường đến thăm Thiếu Tá Sơn vào những buổi chiều trước giờ cơm chiều. Cơm còn đủ để ăn no với cá vụn và canh rau.
Một buổi chiều đang ngồi trong trại, cạnh con đường đất dùng để xe tuần chạy quanh các khu nhà, tôi nghe tiếng kêu từ một chiếc xe GMC chạy qua nhà tôi: “Anh Sơn ơi, tôi đi đây, vĩnh biệt anh.” Nhìn nhanh ra đường tôi thấy một chiếc xe GMC mui trần chở đầy tù nhân chạy qua. Một người lính cầm súng đứng gát phía sau. Thấp thoáng tôi thấy bóng dáng Sơn đưa tay vẫy, miệng không ngừng kêu “Anh Sơn! Vĩnh biệt anh!”
Anh Sơn bị chuyển trại. Và đó là hình ảnh cuối cùng của Sơn.
Tôi ra trại, vượt biên, và trong suốt hơn 30 năm ở  nước ngoài tôi vẫn ngóng trông tin Sơn. Tôi không nghĩ anh Sơn đã bị giết hay chết trong một trại tù nào đó ngoài miền Bắc. Một người giàu ý chí như Thiếu Tá Sơn không thể chết dễ dàng như vậy. Tôi tin anh vẫn sống và đã ổn định tại một góc trời nào đó trên trái đất này. Nhiều sĩ quan rơi vào những trường hợp nghiêm trọng hơn anh đã được ra nước ngoài theo diện HO.
Tôi tin anh Nguyễn Văn Sơn vẫn sống. Hy vọng lớn nhất của tôi là  đoản văn này lọt vào mắt của anh Sơn hay bạn bè anh Sơn trong quân ngũ hay ngoài đời sống dân sự. Xin nhắn với Thiếu Tá Sơn rằng người bạn tù Trần Văn Sơn tại trại Lam Sơn vẫn còn đây và chờ nghe tin lành của anh và gia đình. E-mail liên lạc: binhnam@sbcglobal.net
April 15, 2010
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com

Hát Cho Biển Đông / Phái đoàn Houston Texas



Kính Thưa quý ông bà cùng anh chị em,
Phái đoàn HOUSTON đi Hoa Thịnh Đốn ngày 4 tháng 7 năm 2014 đang được đồng hương yểm trợ nồng nhiệt....
Sau đây là chương trình ngày “Hát Cho Biển Đông & Quyền Con Người" tại Hoa Thịnh Đốn ngày 6 tháng 7, 2014:
[11:00 AM - 11:45 AM]
Biểu tình trước Tòa Đại Sứ Trung Cộng
Địa điểm: 3505 International Pl NW, Washington, DC 20008


[12:00 PM - 12:45 PM]
Biểu tình tại Tòa Đại Sứ CSVN
Địa điểm: Sheridan Circle, Washington DC 20008

[1:00 PM - 4:00 PM]
Đại Nhạc Hội “Hát Cho Biển Đông & Quyền Con Người”

Chương trình miễn phí ngoài trời có sự tham gia của nhiều nghệ sĩ ASIA như:
Ns. Trúc Hồ, Nguyên Khang, Y Phương, Lâm Thuý Vân, Lâm Nhật Tiến, Đan Nguyên, Mai Thanh Sơn, Đoàn Phi, Đặng Thế Luận, Huỳnh Phi Tiễn, Hoàng Anh Thư, Nga My, Ngọc Minh, cùng các xướng ngôn viên Đài Truyền Hình SBTN như Diệu Quyên, Mai Phi Long, và Victoria Tố Uyên
Địa điểm: 1455 Pennsylvania Ave NW, Washington DC

[4:00 PM - 5:00 PM]
Tuần hành ngang qua Tòa Bạch Ốc.

Phái đoàn sẽ rời Hoa Thịnh Đốn vào lúc 6 giờ cùng ngày (Chúa nhật 6 tháng 7 năm 2014) và trở về Houston khoảng chiều hôm sau (Thứ Hai, 7/7/2014).
Hẹn gặp các bạn !
Quí vị nào muốn đi cùng phái đoàn hOUSTON xin vui lòng đóng góp $200.00/người, càng sớm càng tốt, vị nào ghi danh đóng tiền trước sẽ được ưu tiên.
Xin gọi cho chúng tôi:
ĐẶNG QUỐC VIỆT (832- 670-5313)
ĐÀO VĂN THẢO (
713-231-4425)
LÊ VĂM SANH (281-536-54830
NGUYỄN THỰC (
832-287-5408)
TRỊNH DU (
713-253-2110)
Hoặc là đến Nhà thuốc HOA ĐÀ (đối diện Khu thương mại Hongkong 4),
Hoặc đến đài BYN-TV 57.3 (Trong khu thương mại LINH QUY, kế bên KT Printing)