Friday, September 5, 2008

Pitures 21-32













Picture 11-20








WEBSHOTS PICTURES












MẠN ĐÀM VỚI ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN

Lâm Lễ Trinh

Từ Hoa Thịnh Đốn, tin cho biết Đại tướng Cao Văn Viên, nay 85 tuổi, phải một lần nữa nhập viện Virginia Hospital Center vì bệnh tim tái phát trầm trọng. Ngày mùng hai Tết Bính Tuất, chúng tôi có nói chuyện khá lâu với ông qua điện thoại khi ông vừa từ bệnh viện trở về cư xá cao niên tại số 4435 N. Pershing Drive, Arlington. Ông có linh cảm khó thoát khỏi, tuy trí tuệ vẫn còn sáng suốt. Tình trạng sức khoẻ sút kém của vị tướng đàn anh trong Quân đội VNCH gây lo ngại trong Cọng đồng người Việt Hải ngoại vì ông từng giữ lâu năm nhiều chức vụ then chốt thời Đệ nhứt và Đệ nhị Cọng Hoà: Tham mưu trưởng Biệt bộ tham mưu Phủ Tổng thống (thời chính phủ Ngô Đình Diệm), Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù, Tư lệnh Quân đoàn, Tham mưu trưởng Liên quân, Tổng Uûy viên Chiến tranh, Ủy viên Quốc phòng, và Tổng Tham Mưu trưởng (từ tháng 11.1967 cho đến ngày 27.4.1975, gần một thập niên). Mối thân tình giữa chúng tôi bắt đầu từ 1958 khi Trung tá Viên thay thế Đại tá Nguyễn Văn Là, đảm trách chức Tham mưu trưởng Biệt bộ Tham mưu Phủ Tổng thống trong giai đoạn người viết là Bộ trưởng Nội vụ trong Nội các Ngô Đình Diệm từ 1954 cho đến cuối 1959.

Trung tâm Lubbock giúp hiệu đính lại The Final Collapse

Lối tháng 2.2002, Đại tướng Viên gởi tặng cho chúng tôi hai quyển sách tiếng Anh: tậïp tiểu thuyết best seller “Monkey Bridge, Cầu khỉ” do ái nữ của ông là Lan Cao, giáo sư luật quốc tế ở Đại học Brooklyn, New York, sáng tác, và “The Final Collapse”, tài liệu chuyên khảo dày 184 trang, do chính ông khởi viết vào khoảng 1976-1978 và được Center of Military History, United States Army, Washington DC, xuất bản năm 1983. Một số chuyên gia danh tiếng Mỹ về chiến tranh Đông Dương như Ronald S Spector, Jeffrey Clark, Philip Davidson..hợp tác với Trung tâm Quân sử này. Về phiá Việt Nam, có các tướng Cao Văn Viên, Ngô Quang Trưởng, Đồng Văn Khuyên, Trần Đình Thọ, Nguyễn Duy Hinh, đại tá Hoàng Ngọc Lung.. Sáu tác giả vừa kể sáng tác được 16 tập nghiên cứu, tất cả được xếp vào bộ Indochina Monographs. Tướng Viên viết riêng quyển Leadership (1981), The Final Collapse (1983) và viết chung với Đồng Văn Khuyên Reflections on the Vietnam War (1980).
The Final Collapse phân tích các lý do sụp đổ của Miền Nam VN về mặt quân sự và chính trị. Tuy nhiên, có ba điểm trong quyển sách này không làm cho tướng Viên vừa ý: 1) nhà xuất bản Mỹ cho in trên bìa hình một chiến xa mang cờ Việt Cộng, khiến các độc giả có thể hiểu lầm ông, 2) một số đoạn trong sách, khi được biên tập viên dịch ra tiếng Anh, đã diễn đạt sai lạc ý kiến của tác giả và 3) ông chưa thực hiện được bản tiếng Việt đồng lúc với bản tiếng Anh để trình bày quan điểm cá nhân trong chi tiết.
Vì tình bạn, người viết đã giúp ĐT Viên liên lạc với ông Nguyễn Xuân Phong, cựu Quốc vụ khanh phụ trách Hoà đàm Paris và hiện là đồng giám đốc VN Center thuộc Đại học Texas Tech University, Lubbock, Texas. Với sự hỗ trợ của giới tài phiệt Hoa kỳ, trung tâm này hiện tàng trữ nhiều sử liệu VN nhứt trên thế giới về quân sự, văn hoá và chính trị. Trung tâm có phương tiện để hiệu đính, bổ túc, in lại và phổ biến The Final Collapse. Vì tướng Viên phải ngồi xe lăng và di chuyển khó khăn cho nên ông Nguyễn Xuân Phong đã nhiều lần đích thân từ Texas lên Hoa Thịnh Đốn để phỏng vấn và ghi lại trong gần hai năm các đoạn cần điều chỉnh trong The Final Collapse. Vốn tốt nghiệp Đại học Oxford và là một nhà ngoại giao kỳ cựu, ông Phong chu toàn mọi việc về mặt sinh ngữ.
Một trong các lý do khiến Trung tâm Lubbock nhận giúp là tướng Viên liên tục thay mặt gần một thập niên chính phủ VNCH để bàn thảo về chiến lược quân sự chống Cộng sản với các tư lệnh đồng minh Mỹ, từ Paul Harkins, William Westmoreland, Creighton Abrams cho đến Frederic Weyand. Trong vị thế ấy, ĐT Viên có dịp thu thập kinh nghiệm quý báu về cuộc chiến không quy ước giữa Nam và Bắc Việt, một cuộc chiến trong đó Hànội chủ trương đấu tranh toàn diện, khai thác tối đa tuyên truyền, đẩy mạnh dân vận và đột nhập dưới vĩ tuyến 17, bất chấp các Hiệp ước ký kết.
Công việc viết lại The Final Collapse vừa hoàn tất, sách sắp xuất bản một ngày gần đây. Điều an ủi trong hiện tại là The Final Collapse được dịch giả Nguyễn Kỳ Phong chuyển ngữ qua tiếng Việt năm 2003 dưới tên Những Ngày Cuối của VNCH (nhà xuất bản VN Bibliography, Virginia) gồm có 10 chương, 295 trang và một số chú thích của tướng Viên. Theo tác giả tâm sự với người viết, The Final Collapse không thể đề cập đầy đủ đến mọi sự việc vì bị giới hạn trong phạm vi xử dụng các sử liệu, một số lớn chưa được Ngũ Giác Đài, Nga, Tàu và chính quyền Bắc Việt giải mật vào năm 1983.

Cuộc mạn đàm với Đại tướng Cao Văn Viên tại West Virginia.

Từ 1975 đến nay, Tướng Viên giữ một sự im lặng có liêm sĩ và từ chối phê bình đến những biến cố tại VN cũng như bí mật trong hậu trường. Người viết đã mất nhiều năm thuyết phục ông nên góp phần đánh tan những dư luận không đúng – từ phía quốc gia, đồng minh cũng như cộng sản - liên hệ đến cuộc chiến đã qua. Cuối cùng, trước Giáng sinh 2004, người viết đã thực hiện được tại tư thất của nguyên Trung tá Lý Thanh Tâm, một chuyên viên địa ốc thành công ở Springfields, Virginie, cựu bí thơ thân tín của ĐT Cao Văn Viên (CVV), một buổi mạn đàm thân mật bốn tiếng đồng hồ có ghi hình. Tướng Viên nhận trả lời cởi mở nhiều câu hỏi liên hệ đến đời công và tư của ông.
Đúng theo lời giao kết, toàn nội dung cuộc nói chuyện chưa được tiết lộ tới giờ này. Nay Đại tướng Viên quá yếu về sức khoẻ, người viết nghĩ đã đến lúc có thể công khai hoá vài điều tâm tình của ông. Đây cũng là cách nói lên sự nguỡng mộ đối với một người bạn thân quý, đồng thời một nhân chứng hàng đầu trong chính trường Miền Nam VN.
Dưới đây là những câu vấn đáp chính của cuộc mạn đàm giữa Đại tướng Viên (CVV) và ngưới viết (LLT) có thể tiết lộ trong phạm vi bài này:

LLT: Vào tháng 4.1975, năm cuối của cuộc chiến, VNCH có 1.100.000 lính tại ngũ, một trong những quân đội lớn nhứt ở Á châu. Lúc đó, Quân đoàn 4, với trên dưới 200.000 quân, chưa đánh một trận lớn nào, chưa một Tư lệnh nào bỏ chạy. Tại sao chúng ta lại thua CS mau như thế, trong hỗn loạn? có đáng thua hay không, thưa anh?
CVV (một phút suy nghĩ): Có nhiều lý do. Đây là một vấn đề phức tạp. Chỉ nói về phiá Hànội mà thôi, CS – dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh - có kế hoạch xâm lăng Miền Nam ngay từ sau Hiệp định Genève, 1954. Hiệp ước Paris, 1973, đã bắt cầu thêm cho chúng, đánh dấu bước lùi cuối cùng của Thế giới Tự do. Kế hoạch thôn tính Miền Nam do Chính trị bộ nghiên cứu kỹ, thi hành liên tục, với quyết tâm chiến thắng bằng mọi giá, bằng mọi hy sinh. Hànội được đồng minh Nga, Tàu hỡ trợ toàn lực, với khối xã hội chủ nghĩa đứng sau lưng. Bắc kinh và Mạc tư khoa không trực tiếp xen vào để chỉ huy. Tại Miền Nam, chúng ta thiếu các yếu tố thuận lợi ấy, chúng ta không liên tục trong sự lãnh đạo. Với một đồng minh như Hoa kỳ, thử hỏi làm gì được? Đồng minh với Mỹ khó hơn là kẻ thù của Mỹ. VN không phải là quốc gia đầu tiên thí nghiệm bài học đau đớn này! VNCH chỉ là một con cờ trong chiến lược toàn cầu của đại cường Hoa kỳ. Chiến lược ấy đạt được mục tiêu sau khi Nixon gặp Mao Trạch Đông năm 1972 tại Bắc kinh.

LLT: Trong vụ nhóm Nguyễn Chánh Thi âm mưu đảo chính hụt ngày 11.11.1960, chuyện gì đã xảy ra cho anh? Anh biết gì về việc thương thuyết giữa Chánh văn phòng Võ Văn Hải (đại diện cho TT Diệm) và phe Vương Văn Đông? về vấn đề TT Diệm có trao cho tứớng Nguyễn Khánh một tờ giấy viết tay cam kết trao quyền lại cho Quân đội, theo lời ông Khánh tiết lộ với tôi?
CVV: Vài tuần trước đó, để giúp tôi làm việc dễ hơn, ông Quách Tòng Đức, Đổng lý Phủ Tổng Thống, có cấp cho tôi, Tham mưu trưởng Biệt bộ, một căn nhà gần bệnh viện Grall và một chiếc xe Peugeot 202 mang số ẩn tế. Ngày 11 tháng 11, khi nghe tiếng súng đầu tiên nổ lớn, tôi đích thân lái xe đến Phủ đi vòng phía vườn Tao Đàn. Một lính nhảy dù võ trang tiểu liên, hùng hổ la to bảo ngừng xe, tôi chưa kịp quay kiến xuống để hỏi ất giáp thì anh ta nổ súng, kiến trước bể tung, may phước tôi không bị thương. Vừa bước khỏi xe, tôi được lệnh đến ngồi dưới gốc một cây me với vài quân nhân bị bắt như tôi. Liền lúc đó, một xe jeep nhà binh trờ tới, anh lính nhảy dù vừa hô, vưà bắn xối xả vào xe, người tài xế chết tức tốc. Tôi không thấy tận mắt những gì diễn tiến sau đó tại Dinh Độc lập. Được biết tướng Khiêm về kịp để can thiệp, tướng Khánh nhảy rào giờ chót vào Dinh để chỉ huy. Phiến quân tan rã, số sĩ quan mưu loạn trốn qua Cam bốt, bắt theo tướng Thái Quang Hoàng làm con tin. CIA giúp Ls Hoàng Cơ Thụy, trong Bộ Tham mưu của Đông, thoát khỏi VN. Tôi nghĩ Hoa kỳ đã xử dụng cuộc đảo chính hụt ngày 11.11.1960 và vụ hai phi công Phạm Phú Quốc – Nguyễn Văn Cử ném bom Dinh Độc lập vào tháng 2.1962 như hai cảnh cáo, warnings liên tiếp đối với TT Diệm, trước khi tiến vào giai đoạn chót là lật đổ ông ngày 1.11.1963.
Tôi có nghe nói TT Diệm bảo ông Hải ra trước cổng Dinh điều đình với phe phiến loạn. Hình như họ yêu cầu ông bà Nhu phải ra đi. Bà Nhu lồng lộn phản đối đòi hỏi này khi ông Hải trở vào trình với TT Diệm, trước thái độ im lặng của ông Nhu. Về chuyện ông Khánh tiết lộ, tôi không tin Tổng Thống Diệm sẵn sàng trao quyền lúc đó. Đây chỉ là một kế hoãn binh.

LLT: Sau khi Tổng thống Diệm bị đảo chính năm 1963, các tướng Miền Nam có được chuẩn bị về chính trị để lãnh đạo cuộc chiến chống Bắc Việt hay không? Anh nghĩ sao về Hội đồng Quân nhân Cách Mạng? Nếu ông Diệm thoát khỏi cuộc đảo chính 1963 thì anh nghĩ Miền Nam có thể tránh sụp đổ chăng năm 1975?
CVV: Họ thiếu chuẩn bị về chính trị. Họ chia rẽ. Không ai có đủ khả năng và uy tín để thay thế Tổng thống Diệm. Nhóm đảo chính tự phong cho mình danh xưng Cách mạng. Thật ra mục tiêu của họ là giết TT Diệm chớù không phải thay đổi tốt xứ sở. Bằng chứng là họ đã gây ra sau 1.11.63 hỗn loạn liên miên và tự loại. Không có một lãnh tụ nào có tầm vóc hay cương lĩnh kiến quốc cở Nasser, Sukarno, Lý Thừa Vảng..
Để trả lời phần hai câu hỏi của anh: Ông Diệm là một lãnh tụ được biết nhiều về mặt quốc tếá, hơn ông Thiệu. Dù sao, ông chỉ là một symbol, một biểu tượng mà thôi, ông không thể làm gì nếu không có cố vấn Nhu bên cạnh. Tất cả các bài diễn văn của TT Diệm đều do ông Nhu soạn thảo. Khổ nỗi, Hoa kỳ muốn tách ông Nhu khỏi ông Diệm. Ông Nhu là một trở ngại. Trở ngại lớn hơn TT Diệm. Vì ông Nhu có nhiều mưu lược. Ông Nhu chống Mỹ hơn chống Pháp. TT Diệm thì trái lại. Rốt cuộc, ông Diệm trở thành nạn nhân của Mỹ.

LLT: Việc Tổng thống Thiệu tom hết quyền bính trong tay, qua mặt Quốc hội và Tối cao Pháp viện, một mình quyết định bỏ Cao Nguyên và Miền Trung là điều có lợi hay hại? Trong quyển hồi ký “Đôi dòng ghi nhớ “ (1994, trang 191-215), cựu Chánh văn phòng của anh là đại tá Phạm Bá Hoa có kể lại cuộc rút quân bi thảm của tướng Phạm Văn Phú theo đường số 7 và nhắc lại hai khẩu lệnh của anh bằng điện thoại cho đương sự ngàỵ 15 và 18.3.1975 bảo gởi phi cơ vận tải C130 cho Quân đoàn 2 và chở các quân dụng đắt tiền khỏi Pleiku “mà không cho biết lý do”. Ông Hoa than phiền Tổng Cục Tiếp vận, thuộc bộ Tổng Tham mưu, không hề được thông báo về tình hình suy sụp ở Cao Nguyên. Anh nghĩ sao về lờiï than phiền này?
CVV: Tất nhiên không có lợi. Một cá nhân không thể quyết định đơn phương vận mạng của Đất nước. Ông Phạm Bá Hoa trình bày không đúng về một số sự kiện trong quyển hồi ký mà tôi đã nhận được. Tôi có gởi cho y một bổn The Final Collapse được bổ túc để làm sáng tỏ vấn đề nhưng không thấy y nói gì. Phạm vi cuộc mạn đàm hôm nay không cho phép đi sâu vào chi tiết. Xin để dịp khác.

LLT: Anh có nghĩ rằng chuyện rút khỏi Miền Trung quá sớm, quá hấp tấp và thiếu chuẩn bị hay không? Đây có phải là một ván bài tố của TT Thiệu để thử coi Nixon có giữ lời cam kết riêng hay không? Trung tướng Ngô Quang Trưởng từng xác nhận với chúng tôi rằng đầu năm 1975, quân lực của chúng ta tại Miền Trung không quá yếu đến nỗi phải tháo chạy tán loạn như vậy, anh nghĩ sao?
CVV: Không chuẩn bị. Về mặt quân sự, rút quân khó hơn tấn công. Khởi đầu nan, mọi sự đã hư do Mỹ cúp quân viện. Theo tôi, thời cuộc đã diễn ra ngoài ý muốn của tướng Trưởng, ông không làm gì được. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ ngày 10.3.1975, dân chúng vùng 1 nghe tin đồn Chính phủ sẽ cắt đất nhường cho địch nên họ hoảng sợ, tự động ào ào bỏ chạy, không ai ngăn nỗi. Trong bài “Vì sao tôi rút khỏi Miền Trung?” đăng trên báo, tướng Trưởng có nói rằng Bộ Tổng Tham Mưu không tăng quân số theo lời ông xin. Điều này không đúng. Hai đơn vị tổng trừ bị là sư đoàn thủy quân lục chiến và sư đoàn dù đã được tăng cường cho ông, mỗi sư đoàn gồm có bốn chiến đoàn. Trong tay tôi lúc ấy không còn gì nữa. Chính sách của Hoa Kỳ đã khóa tay chúng ta.
Tôi không đọc được sự suy tính thầm kín của TT Thiệu. Nay ông đã qua đời, hãy để ông ngủ yên. Anh còn nhớ TT Thiệu từng nói: “Je suis responsable mais pas coupable.” Mỗi Tổng thống có nỗi khổ tâm riêng. Vào việc rồi mới biết.

LLT: Tôi đã hỏi cựïu Ngoại trưởng Trần Văn Lắm (lúc còn sống) và Phó Thủ tướng Nguyễn Lưu Viên (hiện ở Virginia) kể từ lúc nào họ nhận thức được Miền Nam sụp đổ. Mỗi người trả lời khác nhau. Với tư cách Tổng Tham Mưu trưởng Quân đội VNCH, từ thời điểm nào anh thấy tình hình Miền Nam vô phương cứu chửa?
CVV: Trước khi trả lời câu hỏi, tôi xin nêu ra một điểm: Trong quân sử, có trường hợp - nhưng rất hiếm- những tướng tài với ít quân thắng địch đông hơn. Đó là trường hợp của Alexandre Đại đế, của Nả Phá Luân… Về vấn đề tương quan lực lượng, bên nào có quân nhiều thì bên đó ởù thế thượng phong. Khi Mỹ rút lui sau Hiệp định Bá Lê thì họ tròng vào cổ Miền Nam một chiếc dây thòng lọng, lần hồi cúp quân viện để gây áp lực, hăm doạ đủ điều. Bắc Việt có quân số và võ khí dồi dào hơn, không ngớt được tăng cường. Giữa Nam và Bắc, cán cân mỗi ngày thêm quá chênh lệch. Tình thế hết mong cứu vãn đối với Sàigòn. Hiệp định Bá lê là án tử hình cho Miền Nam. Mỹ đánh mà không muốn thắng, họ sợ thắng. Phần thì phong trào phản chiến sôi sục bên trong Hoa kỳ. Xì-căn-đan Watergate đã xúc tiến sự bức tử của VNCH.

LLT: Anh có nghĩ rằng quyết định giết Tổng thống Diệm sớm làm Miền Nam sụp đổ hay không? Chuyện gì đã xảy ra cho cá nhân anh ngày 1.11.1963?

CVV: Giết ông Diệm là một lỗi lầm nguy hại. Ngày 1.11.63, tôi là đại tá tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù (thay thế Nguyễn Chánh Thi). Khi Hội đồng Cách mạng hỏi tôi có ủng hộ phe đảo chính hay không, tôi trả lời: “Lật đổ Chính phủ là một chuyện quốc gia đại sự, tôi không được hỏi ý kiến trước. Tôi chỉ là một quân nhân, không làm chính trị.” Quân cảnh liền còng tay tôi, tôi ngồi chờ trước cửa văn phòng ông Dương Văn Minh. Tôi tự hỏi: Sẽ chung số phận với Lê Quang Tung, Hồ Tấn Quyền chăng? Ông Tôn Thất Đính bước ra can thiệp mở còng cho tôi. Hôm sau, tôi được thả nhưng bị quản thúc tại gia ở đường Ngô Quyền, Chợ Lớn. Lối một tuần sau, tôi về chờ lệnh tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi vô cùng chán nản, không tha thiết ở lại Quân đội vì tình huynh đệ chi binh không còn nữa, anh em một nhà giết hại lẫn nhau. Nếu có lệnh đẩy tôi làm tùy viên quân sự tại Lào, tôi chấp nhận ngay. Vientiane là nơi tôi ra đời. Tên tôi, Viên, là vần đầu tiên của thủ đô Vientiane.
Một hôm, trong khi ngồi rầu tại văn phòng, tôi bổng nhận được cú điện thoại của vợ tôi. Bà hỏi: “Buồn lắm hả? » Nước mắt tôi tự nhiên trào lên. Vợ tôi tiếp: « Nếu “người ta” đưa anh trở lại chỉ huy nhảy dù, anh chịu không? » Tôi nghẹn lời vì không thể tin được. Do sự dàn xếp sao đó mà tôi không được biết giữa vợ tôi và bà Trần Thiện Khiêm (hai người thân thiết với nhau), tôi nhận được sự vụ lệnh, ordre de mission, của tướng Khiêm, Tham mưu trưởng Liên quân, đưa tôi về nắm lại Nhảy dù. Ông Khiêm cho tôi biết mật rằng đây là một quyết định riêng của ông, chắc sẽ gặp phản ứng vì không hỏi ý kiến cấp trên. Đúng vậy, việc bổ nhiệm chính thức bằng một công vụ lệnh, ordre de service thuộc thẩm quyền Tổng tham mưu trưởng Quân đội. Một thời gian ngắn sau, ông Khiêm mất chức Tham mưu trưởng Liên quần, bị đổi về chỉ huy Quân đoàn 3. Vài ngày trước 30.1.1964, Khiêm điện thoại kín cho tôi, hỏi:”Sẵn sàng chưa?”. Đây là ám hiệu hành động. Đêm 30 tháng giêng, lữ đoàn dù của tôi giúp hai trung tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm chỉnh lý phe Dương Văn Minh. Việc “hốt” các tướng “trung lập” thực hiện dễ như trở bàn tay. Không đổ máu, không tốn một viên đạn vì sau 1.11.1963, các tướng này đều dùng quân dù của tôi để canh gát nhà họ. Thật như “gởi trứng cho ác!”
Việc tôi giúp ông Khiêm là chuyện dĩ nhiên, để đáp ơn “thả hổ về rừng”. Tôi không để ý đến điểm Minh, Đôn, Đính, Xuân và Kim có thật sự chủ trương trung lâp hay không.

LLT: Ai ra lệnh giết anh em Tổng thống Diệm? Ai thi hành lệnh ấy?
CVV: Chính tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh giết hai ông Diệm và Nhu. Nguyễn Văn Nhung, vệ sĩ của Minh, thăng Thiếu tá sau vụ ám sát, có nhiệm vụ thi hành lệnh dưới sự giám sát của hai tướng Mai Hữu Xuân và Nguyễn Văn Quan (người thay Đổ Mậu trong chức Tổng giám đốc An ninh Quân đội). Nhung bị An ninh Quân đội bắt trong vụ chỉnh lý nói trên và đem về giam tại Lữ đoàn dù của tôi. Hôm sau, tôi được phúc trình Nhung đã tự treo cổ bằng một sợi dây giày nhà binh. Có lẽ vì Nhung biết không tránh khỏi tử hình nếu bị giãi ra trước Toà vì Nhung phạm quá nhiều tội ác.

LLT: Trong hồi ký “Vietnam. Histoire secrète d’une victoire perdue” (nxb Perrin, Paris, 1986), giám đốc CIA William Colby xác nhận kế hoạch Aáp Chiến Lược, Strategic Hamlets (mà ông Ngô Đình Nhu là cha đẻ) làm Bắc Việt khiếp đảm vì rất hữu hiệu. Đúng như vậy không? Vì sao Hội đồng Cách Mạng lại hủy bỏ kế hoạch ấy?
CVV: Kế hoạch Aáp Chiến Lược là một việc phải làm để tách CS ra khỏi nhân dân, tách cá khỏi nước, như đã từng thí nghiệm tốt ở Mã Lai với tướng Robert Thompson. Tại VN, có những sơ sót trong việc thi hành bởi một số tỉnh trưởng dàn cảnh, để lấy điểm với thượng cấp. Thay vi chỉnh đốn lại để tăng hiệu lực, Dương Văn Minh và HĐCM đã hấp tấp hủy bỏ kế hoạch Aáp Chiến Lược liền sau vụ đảo chính vì lý do họ thù ông Nhu. Họ thay vào đó cái mà họ gọi là Aáp Tân Sinh. Đây là một lổi lầm ghê gớm. Tôi không biết rô họ đã thảo luận với nhau ra sao. Lữ đoàn dù, do tôi chỉ huy lúc đó, bị nghi trung thành với ông Diệm nên không được hành quân, chỉ được giao làm những công tác vớ vẫn tại vùng Long An, Mỹ Tho.

LLT: Nếu so sánh TT Diệm với TT Thiệu thì ai độc tài hơn ai? Xin so sánh hai đảng Cần Lao (của ông Diệm) và Dân chủ (của ông Thiệu).
CVV: Mỗi người độc tài theo cách riêng. TT Diệm cai trị nước như một quan lại của thời quân chủ, ông bẩm sinh chống cộng, tự ban cho mình “thiên mạng” cứu nước. Có lẽ anh còn nhớ vụ ông tỉnh trưởng Bình Tuy săn được một con hà mã, dấu cái sừng tê giác, không khai báo. Khi hay được, cụ Diệm nổi trận lôi đình, cách chức và đòi giam viên tỉnh trưởng về tội “tẩu tán tài sản Nhà nước.”
TT Diệm tự hào về dân tộc, tự đại về gia đình, thích độc thoại, không chấp nhận dễdàng sự chỉ trích. Ông chủ trương “tiết trực tâm hư.” nhưng bị ảnh hưởng nặng của gia đình. Còn ông Thiệu thì theo đường lối “độc tài trong dân chủ”, võ ngoài dân chủ nhưng bên trong chi phối cả hai ngành lập pháp và tư pháp. Bàn tay sắt trong đôi găng nhung.
Vì không vững kiến thức như ông Diệm, ông Thiệu chịu khó thăm dò ý kiến của các chuyên viên, lắùng nghe, đúc kết lại để quyết định một mình. TT Diệm dễ tin người xu nịnh nên dễ bị phản trắc. Ông Thiệu đa nghi Tào Tháo và không e ngại ban phát ân huệ để tạo phe cánh và chia rẽõ đối phương như ông đã làm tại Quốc hội. Ông chủ trương “làm chính trị phải lì”. Bởi thế TT Thiệu “lật” ông Kỳ không khó và tồn tại lâu hơn TT Diệm nhưng ông không khí khái bằng ông Diệm. Ông Thiệu mưu sĩ, ông Diệm đạo đức. Những năm tại chức, ôÂng Thiêu bị ám ảnh bởi cái chết của TT Diệm.
Đảng Cần Lao – dựa vào thuyết Cần Lao Nhân Vị - tổ chức quy củ hơn, với sự chỉ huy trực tiếp của hai ông Nhu và Cẩn, đi sâu vào Quân Đội với các quân ủy, như CS. Đảng Dân chủ yếu hơn, không dựa vào cương lĩnh vững chắc nào, chỉ có hình thức, được ông Thiệu thành lập để củng cố địa vị, không có ảnh hưởng trong Quân đội và quần chúng. Tôi không có gia nhập Đảng Cần Lao.
Theo tôi được biết, vào giờ phút chót tháng 11.1963, TT Diệm cho đại sứ Cabot Lodge biết ông sẳn sàng điều đình một giải pháp nhưng đã quá trể, phe chủ trương “diệt Diệm” trong Bộ Tham mưu của John Kennedy thắng thế. Les dés sont jetés! Les jeux sont faits !

LLT: Trong hồi ký Our Endless War và Việt Nam Nhân chứng, tướng Trần Văn Đôn ghi rằng trong tất cả các vụ chính biến ở Miền Nam từ 1960 trở về sau, đại tướng Trần Thiện Khiêm đóng vai trò chủ động, giựt dây sau hậu trường, điều này có đúng hay không?
CVV: Tôi không biết rõû. Tôi chỉ liên hệ với tướng Khiêm về công vụ. Chúng tôi quen nhau từ hồi còn ở trong Quân đội Pháp, sau khi tôi ra trường Võ bị Cap Saint Jacques, Vũng Tàu, năm 1949. Vợ tôi là bạn thân của bà Khiêm. Ông Khiêm có lần tuyên bố không thích chính trị. Nhưng nói và làm là hai chuyện khác biệt !

LLT: Nới trang 428-429 của hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng” (nxb Xuân Thu,1989), tướng Trần Văn Đôn viết: “Có lần ông Thiệu than phiền ông Cao Văn Viên không làm việc nhiều..Ông Thiệu nhờ tôi nói với Đại tướng Viên, Tổng Tham Mưu trưởng, về việc ông này cứ ở mãi Tổng Tham mưu làm việc, không chịu đi ra ngoài, ông Viên trả lời: Tôi đã xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp nhận nên tôi cứ ở văn phòng làm việc mà thôi!” Mặt khác, trong quyển hồi ký “Đôi dòng ghi nhớ “ nêu trên, cựu đại tá Phạm Bá Hoa cũng có nhận xét rằng trong gần 9 năm rưỡi giữ chức Tổng Tham Mưu trưởng - chức vụ quan trọng bậc nhất trong Quân đội – anh đã nhiệt tình hoạt động 7 năm đầu nhưng hai năm sau cùng, vị “Nguyên soái” của Quân đội Miền Nam không cáng đáng hết trách nhiệm, đến văn phòng cho có lệ, tập luyện yoga và đi học lấy bằng cử nhân văn khoa ngoài giờ làm việc. Mong anh đại tướng vui lòng, nếu tiện, giải thích thái độ.
CVV: Tôi sẵn sàng trả lời. Trước khi cuộc đàm phán tại Paris tiến đến giai đoạn kết thúc năm 1973, tình hình quân sự thêm căng thẳng. Tổng thống Thiệu, với tư cách Tổng tư lệnh Quân đội, tập trung hết quyền bính trong tay, cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại Dinh Độc lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu lần hồi bị dồn vào vai trò tuân hành và thị chứng. Bộ Quốc phòng chỉ còn là hộp thơ giữa Tổng thống và Bộ Tổng tham mưu. Vì không có điều kiện làm việc được như trước, tôi đã năm, sáu lần vô đơn xin từ chức. Ông Thiệu yêu cầu tôi nán lại, đợi người thay thế nhưng ông không quyết định. Tôi không có quyền bỏ ra đi một cách vô trách nhiệm.
Tuy nhiên khi Tổng thống Trần Văn Hương nhường ghế cho tướng Dương Văn Minh tháng 4.1975, tôi cương quyết xin giải ngũ vì tôi không phục ông Minh từ lâu, tôi từng là nạn nhân của ông Minh. TT Hương chấp nhận đơn của tôi. Ngày 27.4.1975, tôi rời VN trong tình trạng hợp lệ.
Vấn đề tôi tập luyện yoga và thiền có một lý do riêng. Khi giữ chức tư lệnh nhảy dù, tôi vướng phải một bệnh nan y về khớp xương, một loại phong thấp nặng, gây nhức nhối vô cùng. Tôi giữ kín việc này, tìm cách tự trị liệu. Là chỉ huy nhảy dù mà bệnh hoạn, không nhảy được thì coi kỳ quá, không còn gì thể thống. Tôi đã thử đủ thứ thuốc Tây lẫn Ta, mọi thứ dược thảo, nhân điện, dưỡng sinh, tổ ong chính gốc..v..v.. Tôi đã lợi dụng một cuộc viếng thăm chính thức Đài Loan để tìm hiểu khoa châm cứu. Bệnh tình không thuyên giảm với thời gian, với tuổi tác.
Về chuyện đi học văn khoa, môn tôi thích từ lúc còn trẻ, tôi thấy cần trau dồi thêm kiến thức. Đó cũng là một lối thoát khỏi những chuyện bực bội của cuộc sống căng thẳng hằng ngày.

LLT: Anh nghĩ gì về vụ Phật giáo chống TT Diệm năm 1963? Về vụ Phật gíáo nổi lọan ở Miền Trung đầu 1966? Vai trò của Hoa kỳ trong hai vụ? Tại sao Hoa Thịnh Đốn có thái độ khác nhau trong hai trường hợp? Theo Trần Văn Đôn (hồi ký VNNC, trang 372)) thì trong vụ thứ hai, có trên 200 người chết và bị thương, lối 6.000 quân nhân đào ngũ và một số người chạy vào chiến khu Việt cộng. Có đúng như thế hay không?
CVV: Phật giáo thống nhất hơn khi chống ông Diệm, vai trò của Thích Trí Quang quá rõû. Có tay Hoa kỳ và CS nhúng vào. Trong vụ Phật tử dấy loạn ở Miền Trung, Phật giáo chia làm hai khối Aán Quang (Thích Trí Quang, chống Chính phủ) và Vĩnh Nghiêm hay VN Quốc Tự (Phật giáo Bắc Việt di cư với Thích Tâm Châu, thân Ủy ban lãnh đạo Thiệu Kỳ). Mặt khác, một số tư lệnh Quân đoàn 1 có cảm tình với phiến lọan như Nguyễn Chánh Thi, Tôn Thất Đính, trong khi Nguyễn Văn Chuân và Hùynh Văn Cao thì lừng khừng. (Cao và Đính chạy vào Bộ Tư lệnh Thủy Quân Lục chiến Mỹ ở Đà Nẳng xin tị nạn chính trị). Vì thế có một lúc Miền Trung gần như không có Chính phủ: Thị trưởng Đà Nẳng, Bs Nguyễn Văn Mẫn, cũng như đa số quân nhân, công chức ..tuân lệnh của tăng ni đem bàn thờ Phật xuống đường biểu tình. Phong trào có nguy cơ lan tràn xuống Miền Nam, làm tiêu chế độ. Tướng Kỳ, chủ tịch Uûy ban Hành pháp Trung ương, xin tôi (lúc đó Tổng Tham mưu trưởng) đổ quân tái chiếm Đà nẳng, mặt khác yêu cầu tôi cấp gần 20.000 cây súng củ của Pháp (Mass 36, tiểu liên, lựu đạn..) cho Nguyễn Ngọc Loan, TGĐ Công an - Cảnh sát, hầu võ trang các đảng phái ở Miền Trung lập thăng bằng với lực lượng Phật giáo. Tôi đề nghị để tướng Loan hành động trước. Hai tuần sau, tình hình thêm nguy kịch. Tôi quyết định can thiệp. Theo lối của tôi: tương kế tựu kế. Lúc đó, tôi có một tiểu đoàn thủy quân lục chiến đang hành quân tại Bình Định. Tôi ra lệnh chính thức cho đơn vị này tập trung đúng ngày, giờ ấn định, tại sân bay Quảng Ngãi nói là để không vận về Sàigòn, thay bằng một tiểu đoàn khác. Phải dùng mưu ấy để đánh lạc hướng Viện Hoá Đạo có người gài khắp nơi. Đêm hôm đó, đúng 12 giờ, tôi đưa thêm 4 tiểu đoàn khác nhập chung với tiểu đoàn có sẵn, thành 5, giao cho đại tá Ngô Quang Trưởng chỉ huy, tràn vô các chùa bắt các phần tử nguy hiểm, giải tán bằng biện pháp mạnh các ổ dân quân, buộâc họ buông súng. Cuộc hành quân cương quyết này đã đem lại kết quả. Trong hồi ký “The Buddha’s Child”, Nguyễn Cao Kỳ ba hoa dành hết công trạng về mình.
Tôi không thể xác nhận với anh về những thiệt hại sinh mạng. Con số của tướng Đôn đưa ra có vẻ quá đáng. Dù sao, Hoa Thịnh Đốn không lên tiếng phản đối như đã làm thời TT Diệm. Về phía Hoa kỳ, cần ghi rằng ông tổng lãnh sự Mỹ tại Đà Nẳng nghiêng theo phía Phật giáo, trong khi toà Đại sứ Mỹ tại Sàigòn giữ thái độ thận trọng wait and see, nếu không nói đồng ý ngầm với Uûy Ban Lãnh đạo quốc gia. Thật vậy, năm 1963 đại sứ Cabot Lodge ra mặt ủng hộ Phật giáo vì TT Diệm chống việc Mỹ hóa chiến tranh. Năm 1969, tình hình thay đổi, Hoa kỳ cần giữ lại ê-kíp Thiệu Kỳ và bắt đầu Việt nam hoá cuộc chiến. Từ đồng minh, cánh Phật giáo thiên tả đã biến thành đối lập với Mỹ.

Kêt luận.

Trên đây là những đoạn – buồn nhiều hơn vui - trích từ bộ VCR mạn đàm với đại tướng Cao Văn Viên. Phần còn lại, không kém hệ trọng, sẽ phổ biến khi thuận tiện.
Với một nụ cười mệt mỏi, hơi thở phều phào, (vì lúc ấy sức khoẻ của ông đã rất suy kém, thân hình của ông co rút lại), Tướng Viên – một sĩ quan có tiếng “bô trai” trong Quân đội, - kết thúc bằng một câu nói khiêm nhường: “Xin đừng xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, như trong phim “Rashomon”. Một trăm chứng nhân, một trăm sự thật. Định kiến làm cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm tình với lòng thành. Hảy để cho hậu thế lượng định và phâùn xét. Chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ”
Đại tướng Cao Văn Viên sẽ lưu lại trong ký ức các người từng biết ông – thân hữu, bạn đồng đội như kẻ bất đồng ý kiến - hình ảnh của lòng chung thủy, “trước sau như một”, không a dua, không phản trắc, từ tốn khi phê bình, chủ trương đoàn kết trong tình huynh đệ chi binh. Ông không bon chen trên chính trường, không đạp trên xác đồng đội để tiến thân. Ông là một nhà tướng phi chính trị bị thời thế cuốn hút vào chính trường gió tanh mưa máu. Khi hai địch thủ Thiệu, Kỳ dành giựt với nhau cân đai, áo mảo, Hội đồng Quân lực định đưa ông Viên lên chức Quốc trưởng vì ông là vị tướng có thâm niên nhứt. Ông đã một mực từ chối vì nhận thức lương thiện khả năng của mình. Tuy nhiên ông vẫn không tránh được số phận một con thiêu thân - trong vô số con thiêu thân khác - bị chiến tranh Việt Nam đốt cháy.


Thủy Hoa Trang,
Ngày 27.1. 2006
Xuân Bính Tuất

Đại Tướng Cao Văn Viên Pictures







Tướng Cao Văn Viên (1921-2008)

Tác giả: Nguyễn Kỳ Phong


1. Tướng Cao Văn Viên (1921-2008)

Một ngày mùa Hè năm 2002 tôi nhận điện thoại. Người ở đầu giây xin nói chuyện với “anh Kỳ Phong.” Trả lời là tôi đang nghe, người bên kia tiếp tục: “Anh Kỳ Phong, tôi là Cao Văn Viên. Tôi nghe nói anh đang dịch một cuốn sách tôi viết. Nếu anh không bận, tôi xin gặp anh nói chuyện vài tiếng. Tôi đến nhà anh được không?” Rất ngạc nhiên, nhưng tôi trả lời được, và chỉ đường cho ông đến nhà. Buông điện thoại xuống, tôi chưa hiểu tại sao ông đại tướng gọi mình, và có chuyện gì để nói? Hay là ông không muốn tôi dịch quyển sách ông viết cho trung tâm Quân Sử Lục Quân Hoa Kỳ ra tiếng Việt? Ngồi suy nghĩ để dự đoán câu chuyện đối thoại sẽ là gì. … Chừng một tiếng sau tôi thấy một chiếc xe Ford loại nhỏ chạy vào truớc cửa. Từ trong nhà nhìn ra, tôi thấy một ông già yếu, lưng hơi còng xuống, một tay chống cây gậy, tay kia cố gắng đóng cửa xe lại. Thấy cảnh đó tôi giựt mình: Người trong điện thoại mà tôi đã nói chuyện có một giọng nói rất khoẻ mạnh, nếu không nói là giọng khoẻ như của một trung niên. Nếu đã biết ông yếu như vậy, tôi không thể để ông lái xe đến nhà. Tôi vội vàng chạy ra xe và nói với ông, “Thưa bác, từ đây về sau bác cần gì, cháu sẽ đến gặp bác. Bác không nên lái xe đường xa như vậy đến đây.” Và đó là bắt đầu sự quen biết của tôi đối với bác Cao Văn Viên.

Vài năm trước trước khi tôi được gặp bác Viên, tình cờ tôi có đọc qua cuốn The Final Collapse do bác Viên viết và được trung tâm Quân Sử Lục Quân Hoa Kỳ xuất bản năm 1985. Cuốn The Final Collapse là một trong 17 quyển sách loại chuyên đề, viết về chiến tranh Việt Nam, do Center of Military, the United States Army bảo trợ và xuất bản. Vì đây là một loại sách chuyên môn — mà lại do chánh phủ xuất bản giới hạn — nên không phổ quát bên ngoài giới không chuyên môn, và ít thấy ngoài thư viện công cộng. Tôi thấy quyển sách có nhiều điều lý thú. Ðầu năm 2002 tôi bắt đầu dịch quyển The Final Collapse ra tiếng Việt (Hơn 10 năm trước, tôi cũng dịch một quyển cũng do Center of Military xuất bản, Lam Son 719, của thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh. Sách nói về cuộc hành quân đánh qua Lào tháng 2-1971. Nhưng Lam Son 719 bản Việt ngữ chỉ được đăng từng kỳ trên báo địa phương chứ không được xuất bản ra thành sách.). Có lẽ trong thời gian dịch quyển The Final Collapse, bạn bè đến nhà chơi, thấy công việc tôi đang làm rồi nói ra ngoài; và bác Viên nghe được chuyện. Mục đích của bác Viên đến là để hỏi tôi về bản tiếng Việt của The Final Collapse.

Gặp nhau, bác Viên hỏi tôi quyển sách đã dịch như thế nào rồi, có khó khăn không … rồi bác đi thẳng vào vấn đề. Bác nói là bác không đồng ý lắm về quyển The Final Collapse: quyển sách viết xong hơn bốn năm rồi mới được cho ra đời; bìa sách là hình một chiếc xe tăng có lá cờ cộng sản … tất cả đều đi ngược lại ý muốn của người viết. Nhưng chỉ là một người viết contract, ông không có được quyết định trong ban biên tập/ xuất bản. Bây giờ thấy tôi dịch bản này ra tiếng Việt, bác Viên hỏi tôi là có thể nào cho ông đọc bản thảo và thêm vào những phụ chú để giải thích khi thấy cần. Bác Viên cũng nói thêm là trong những năm qua, nhiều sách và bài báo viết về thời gian ông làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (TTMT/ QLVNCH) … những tác giả đó, hoặc với một ác ý, hoặc chưa hiểu thấu sự vụ bên trong nên viết như vậy. Bác Viên đề nghị đây là một cơ hội cho ông đặt lại vấn đề cho đúng chổ. Một vài phụ chú, một lời bạt là đủ để nói lên tâm sự của ông. Tôi đồng ý với đề nghị của bác Viên không do dự, với hai lý do rất đơn giản: Tôi có quyết định cuối cùng trong bản thảo; và, đây là cơ hội cho độc giả nghe tiếng nói của đại tướng Cao Văn Viên — một người ít nói về những chuyện đã xảy ra; những biến cố đưa đến sự thất thủ của Việt Nam Cộng Hòa. Trước khi về, bác Viên đề nghị chương trình làm việc: hai tuần gặp nhau ăn trưa một lần, để trao đổi bản thảo và sửa bản thảo. Tôi đồng ý.

Ðến đây tôi xin được nói về tư cách của bác Viên. Tôi thích ông: ông có ngôn từ, lối nói chuyện, và đùa giỡn của tánh tình người miền nam … tôi thấy ông thật tự nhiên qua những đối thoại. Tôi để ý một điều: trừ lần đầu tiên trên điện thoại ông gọi tôi là, “anh Kỳ Phong,” từ sau đó, lúc nào ông cũng thân mật gọi tôi đơn giản là “Kỳ Phong.” Lúc nào cũng vậy. Riêng tôi, tôi ở xa và dưới ông còn hơn “kính nhi viễn chi;” tôi quá nhỏ đối với ông. Tôi chưa bao giờ gọi ông bằng chức vụ. “Bác Viên” là lối xưng hô duy nhất tôi xử dụng — khi nói với ông ở ngôi thứ nhất hay nói về ông ở ngôi thứ ba. Tôi thích sự vui tính của ông. Vì hai tuần đi ăn trưa một lần, đôi khi tôi giành trả tiền, đôi khi ông nài nỉ trả tiền … và đôi khi người chủ quán phở “biếu không” bửa ăn trưa! Sau vài lần tranh nhau trả tiền, ông đề nghị: luân phiên thay nhau trả. Dĩ nhiên tôi đồng ý. Một hôm đang ăn trưa, ông nhìn tôi, vẻ mặt tư lự, rồi buột miệng lẩm bẩm “hhmm …” Tôi ngạc nhiên, hỏi có chuyện gì? Ông cười lớn lên và nói, “Hhmmm, không biết hôm nay ai trả tiền ta?” Tôi cũng cười, thấy thật vui với ông đại tướng.

Mùa Thu năm 2003 bản tiếng Việt của The Final Collapse ra đời với tựa là Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hòa. Ở Lời Bạt và phần Phụ Chú, bác Viên có thêm vào hai phần mà ông chưa bao giờ nói ra cho đến lúc đó: Vai trò của ông trong cuộc đảo chánh 1-11-1963 (ông bị bắt nhốt ở bộ tổng tham mưu vì từ chối không tham dự/ ủng hộ); và vai trò của Bộ Tổng Tham Mưu trong những năm cuối cùng của cuộc chiến (chỉ là một hộp thư liên lạc giữa tổng thống Thiệu và các tư lệnh Quân Ðoàn).

Ðại tướng Cao văn Viên vào lính rất muộn so với lứa tuổi. Sanh năm 1921, gia nhập quân đội và ra trường sĩ quan Vũng Tàu năm 1949. Mang lon thiếu úy năm hai mươi tám tuổi. Khi ông được thăng chức thiếu tướng năm 42 tuổi (3-3-1964), ông là sĩ quan được lên cấp tướng trễ nhất so với các tướng lãnh của thời 1960-1967 — So với các ông Trần Văn Ðôn, mang thiếu tướng năm 38 tuổi; Tôn Thất Ðính, 35; Nguyễn Cao Kỳ 34; Lê Nguyên Khang, 33; Nguyễn Văn Thiệu, 40. Tướng Viên cũng là sĩ quan cuối cùng được lên cấp tướng theo hệ thống quân đội Pháp: đại tá lên thiếu tướng, thay gì lên chuẩn tướng như trong hệ thống quân đội Hoa Kỳ mà QLVNCH bắt đầu áp dụng từ tháng 8-1964.

Trong thời gian gặp tướng Viên, tôi có hỏi ông nhiều chuyện và được giải thích cặn kẻ. Nhưng cũng có nhiều chuyện tôi không dám hỏi vì sự tế nhị của câu chuyện. Những chuyện tôi ngại hỏi như: Có phải tướng Viên được lên tướng vì đã đích thân chỉ huy — và bị thương — trong cuộc hành quân Quyết Thắng đánh vào mật khu Việt Cộng ở Giồng Bầu, Hồng Ngự, hay là ông đã có công giúp tướng Trần Thiện Khiêm, tướng Nguyễn Khánh “chỉnh lý” tướng Dương Văn Minh vào đầu năm 1964? Hay là kết quả của cả hai thành tích trên? Một thắc mắc khác là, làm sao từ một sĩ quan đại tá bị bắt giữ vì không theo phe đảo chánh, tướng Viên được trả lại quyền chỉ huy trưởng lữ đoàn Nhảy Dù rồi được cho gia nhập vào trung tâm của quyền lực của Hội Ðồng Tướng Lãnh chỉ hơn một năm sau đó?

Suy luận từ những gì nghe được từ tướng Viên — suy luận là vì tôi chưa bao giờ hỏi thẳng hay nghe tướng Viên nói chi tiết về những gì được viết ra đây — tôi nghĩ ông được lên tướng một phần từ chiến công trong cuộc hành quân Quyết Thắng (3-1964); một phần đến từ cuộc chỉnh lý 1964; và phần còn lại đến từ liên hệ và vai trò của ông trong những năm xáo trộn 1964-1967. Trong cuộc chỉnh lý của tướng Khánh năm 1967, Lữ Ðoàn Nhảy Dù dưới quyền của đại tá Viên (lúc đó vẫn còn đại tá) đã bắt giữ những tướng liên hệ đến cuộc đảo chánh năm 1963, và những sĩ quan thuộc về phe của tướng Minh. Ở mặt ngoài tuy trung tướng Khánh là người cầm đầu cuộc chỉnh lý, nhưng bên trong, quyền thế thật sự nằm trong tay trung tướng Khiêm và những sĩ quan trẻ có quân trong tay. Sau khi lên thiếu tướng ông Viên nằm gần với trung tâm quyền lực hơn. Năm 1964, ông là một trong những “Young Turks” đang thật sự chỉ huy quân đội. Một tài liệu từ tòa đại sứ Mỹ liệt kê những “người lãnh đạo trẻ” của năm 1964 là các ông Thiệu, Kỳ, Viên, Lê Nguyên Khang, Phạm Xuân Chiểu, Nguyễn Bảo Trị, Tôn Thất Xứng, Nguyễn Thanh Sằng, Ðặng Văn Quang, Vĩnh Lộc, Nguyễn Chánh Thi, Dư Quốc Ðống, Chung Tấn Cang. (Young Turks là tên gọi chung một số sĩ quan, chính trị gia trẻ của đế quốc Ottoman, Thổ Nhĩ Kỳ sau này, vào cuối thế kỷ 19. Những người trẻ này có nhiều quyết định rất “cấp tiến” so với giới lãnh đạo thế hệ trước, với hy vọng cứu vớt sự suy đồi của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn đầu thập niên 1900s.)

Trong bốn năm 1964-67 — cho đến khi bầu cử quốc hội và tổng thống đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa hoàn tất (3 tháng 9-1967) — giới lãnh đạo quân lực VNCH thay đổi liên tục. Trong giai đoạn này, muốn giữ được quyền chỉ huy và không bị lưu đày ra nước ngoài không phải dể. Phải có tài ngoại giao và sự dũng mãnh của mình đối với các sĩ quan đồng nghiệp. Tôi nghĩ tướng Viên có hai yếu tố đó. Tôi dựa sự phán đoán này vào vài chuyện tôi nghe và tìm hiểu được (qua tài liệu). Trong cuộc hành quân ở Kiến Phong năm 1964, đại tá Viên đích thân chỉ huy tại mặt trận. Trong lúc giao tranh, hỏa lực của Việt Cộng đàn áp mạnh … thấy nguy hiểm, người sĩ quan Thiết Giáp có mặt tại đó là Lý Tòng Bá, nói với đại tá Viên nên vào bên trong xe thiết vận xa để chỉ huy và tránh đạn. Nhưng đại tá Viên trả lời, “Mình chỉ huy, phải ở trước mặt lính thì lính mới đánh. Lính không thấy mặt người chỉ huy thì làm sao đánh hăng được (tôi nghe tướng Viên nói chuẩn tướng Bá là vai cậu hay chú gì đó của Bác Gái, và trong liên hệ gia quyến bên vợ, tướng Bá có vai trên tướng Viên). Chuyện đánh nhau trong cuộc hành quân này tôi được anh Ðoàn Kim Tuấn, sĩ quan tiểu đoàn 1 Nhảy Dù tham dự xác nhận (trung tá Tuấn, khoá 9 Thủ Ðức, sau này về làm việc ở Nha Kỹ Thuật). Tháng 5-1966, khi biến động miền Trung lên tận cao điểm, chính phủ của thiếu tướng Kỳ có cơ nguy sụp đổ vì những biến loạn đó. Hội đồng Tướng Lãnh quyết định đem quân ra miền Trung để biểu dương uy thế của chính quyền trung ương. Tối ngày 4 tháng 4-1966, tướng Kỳ và Viên, đại tá Nguyễn Ngọc Loan, hai tiểu đoàn TQLC, một số đơn vị tâm lý chiến, an ninh quân đội, và cảnh sát dã chiến bay ra Ðà Nẵng. Một bộ tư lệnh dã chiến được thiết lập ở Ðà Nẵng, để từ đó quân chánh phủ sẽ tiến ra Huế. Tướng Viên có nói với tôi về biến cố này. Ông nói tướng Kỳ chỉ ra đó một ngày rồi về vì phải nói chuyện với trung tướng TQLC Hoa Kỳ, Lewis Walt, đang chỉ huy quân lực Mỹ ở Vùng I, và là người có nhiều thiện cảm và đang bảo vệ tướng Nguyễn Chánh Thi. Khi tướng Viên vừa bước chân xuống phi trường, tướng Thi gọi điện thoại cho ông ngay: “Viên ra đây làm gì vậy. Trở về Sài Gòn đi.” Tướng Viên trả lời ngay, “Anh không thể nói chuyện với một tổng tham mưu trưởng như vậy được.” (Hai ông Viên và Thi là bạn cùng khóa ở Vũng Tàu với nhau. Tướng Thi nói chuyện như vậy chắc đang dùng ngôn từ của bạn bè đồng khóa) Tướng Viên ở lại Ðà Nẵng chỉ huy cho đến khi tình hình miền Trung tạm yên ổn. Tình trạng xáo trộn ở Vùng I được coi là chấm dứt khi Hội Ðồng Tướng Lãnh cho các sĩ quan liên hệ trong vụ biến động về hưu. Tháng 10-1966, thời gian này có nhiều tranh chấp đang xảy giữa các sĩ quan gốc Nam, gốc Bắc trong hội đồng tướng lãnh. Sự tranh chấp không chỉ xảy ra trong giới quân nhân mà còn lan ra giới công chức cao cấp hàng tổng bộ trưởng. Ở hội nghị thượng đỉnh Manila, tháng 10-1966, không biết chuyện gì đã làm cho trung tướng Nguyễn Hữu Có, phó thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng, “nói đùa” trước các ông Thiệu, Kỳ, Viên, và đại sứ kiêm phó tổng trưởng ngoại giao Bùi Diễm, là “trở về nước lần này chúng ta phải lột da Bùi Diễm.” Trong sự yên lặng ngỡ ngàng của những người có mặt, Tướng Viên lên tiếng, “Ai muốn lột da Bùi Diễm thì phải đi qua lữ đoàn Nhảy Dù của tôi.” Theo lời ông Bùi Diễm, áp lực về sự chia rẽ gốc nam bắc nặng nề đến độ làm ông chán nản, phải xin đi làm đại sứ để tránh tình trạng nhức đầu đó một thời gian. Tướng Viên là người sẳn sàng “làm” khi đến lúc thấy phải “làm.” Ông kể cho tôi nghe lý do tại sao ông cố gắng đi học thêm văn bằng văn chương ở đại học. Ông nói trong thời gian còn làm sĩ quan báo chí ở bộ tổng tham mưu, bài viết nào của ông cũng đều bị một sĩ quan cấp trên sửa. Ông rất bực mình … và đến gặp người sĩ quan có văn phòng ở lầu trên, yêu cầu ông ta đừng sửa bài viết nữa. Nhưng chuyện “bỉnh bút” vẫn xảy ra sau đó. Tướng Viên nói, ông gặp người đó một lần cuối, nói rằng ông không chấp nhận chuyện sửa bài như vậy nữa. Tướng Viên kể, “… và bác chỉ chờ cho chuyện sửa bài xảy ra một lần nữa, bác sẽ chờ tên đó bước xuống cầu thăng là bác “đục” nó ngay. … Nhưng may chuyện đó không xảy ra. Sau đó bác muốn đi học thêm để coi mình có học được như người khác hay không.”

Khi trả lời với tướng Nguyễn Hữu Có như vậy, tướng Viên chấp nhận hậu quả, hoặc là tồn tại trong hội đồng tướng lãnh như một thế lực, hoặc là bị lưu đày ra khỏi trung tâm quyền lực — nếu không nói là ra khỏi nước như trường hợp của một số tướng lãnh trong giai đoạn 1965-1967. Năm 1965-67, trung tướng Có là thế lực trong Hội Ðồng Tướng Lãnh. Thế lực của tướng Có đáng sợ đến độ hai ông Thiệu, Kỳ phải tìm cách đưa ông ta ra khỏi Việt Nam: đầu năm 1967, trong khi tướng Có đi kinh lý ở Ðài Loan, khi máy bay đến Hồng Kông, tướng Kỳ thay mặt hội đồng tướng lãnh gởi một điện tín cho tướng Có, không cho phép ông trở lại Việt Nam. Cùng lúc hội đồng tướng lãnh bổ nhiệm tướng Viên giữ luôn chức tổng trưởng quốc phòng. Tướng Viên kiêm nhiệm chức tổng trưởng quốc phòng và tổng tham mưu trưởng cho đến tháng 11-1967, khi tướng Nguyễn Văn Vỹ lên thay.

Có người nói tướng Viên an toàn trong hội đồng tướng lãnh cho đến những ngày cuối cùng vì ông được sự tin tưởng của tướng Thiệu và tướng Khiêm (cũng như chuyện tướng Viên trở về chỉ huy lữ đoàn Nhảy Dù là do tướng Khiêm giúp đỡ bổ nhiệm). Chuyện này người viết không được rõ. Nhưng tướng Viên có nói lúc còn là trung úy, ông và đại úy Thiệu ở chung một nhà khi cả hai đang phục vụ ở tiểu khu Hưng Yên, Bắc Việt. Ông còn nói thêm, “Hai người ở chung một nhà. Phía sau nhà là một cái ao. Tắm rửa, giặt giũ gì cũng đến từ nước trong ao đó … bây giờ nghĩ lại còn rùng mình.” Liên hệ và được sự tin tưởng của tổng thống Thiệu như thế nào thì tôi không tướng Viên nói, nhưng theo những tài liệu Hoa Kỳ đọc được sau này, tướng Viên có công hàn gắn — dù sự hàn gắn không được lâu dài — những rạn nức giữa ông Kỳ và ông Thiệu, khi hai người cùng quyết định ra tranh cữ tổng thống tháng 9-1967. Tướng Viên rất được sự tin tưởng của hai đại tướng Westmoreland và Abrams, và quan trọng hơn, của đại sứ Ellsworth Bunker. Trong hồi ký A Soldier Reports, ngoài chuyện nói về liên hệ chân tình giữa hai người, tướng Westmoreland có kể một câu chuyện vui. Ngày Quân Lực 19 tháng 6-1967, tướng Viên nhảy dù biểu diễn. Nhưng thay vì đáp được vào khán đài trước mặt quan khách, dân chúng ngưỡng mộ … dù của tướng Viên bị gió cuốn và đáp xuống đường phố Sài Gòn. Gặp tướng Viên, tướng Westmoreland nói đùa, “Ông quá quan trọng cho quốc gia để tiếp tục chơi trò chơi nguy hiểm này.” Tướng Viên trả lời, “Nhưng phải tiếp tục nhảy saut để nâng cao tinh thần lính dù.” Sau đó tướng Westmoreland đề nghị tướng Viên đừng nhảy dù giải trí nữa, ông sẽ cho người dạy tướng Viên lái trực thăng. Cũng từ đó MACV có chương trình huấn luyện trực thăng cho các sĩ quan cao cấp VNCH muốn theo học. Nói về chuyện nhảy dù: Ðến năm 1960 tướng Viên mới có bằng Dù. Nhưng dù sao bằng Dù của tướng Viên vẫn “thâm niên” hơn của tướng Thiệu. Năm 1964 tướng Thiệu mới nhảy saut đầu tiên để được chứng chỉ nhảy dù! Qua sự thân mật của liên hệ, tướng Viên đốc thúc tướng Westmoreland cấp tốc cung cấp súng AR-15 (M-16 sau này), đại liên M-60, và phóng lựu M-79 cho quân lực VNCH. Những thử nghiệm đầu tiên về hàng nhu yếu phẩm bán ở quân tiếp vụ, thành hình cũng nhờ sự hợp tác của MACV và BTTM. Sự liên hệ giữa tướng Viên và người thừa nhiệm tướng Westmoreland ở MACV cũng thân, nếu không nói là thân hơn. Tài liệu đến từ quyển The Abrams Tapes cho thấy sự kính trọng của tướng Abrams — và những sĩ quan trong ban tham mưu MACV — đối với tướng Viên. Có một lần tướng Abrams tuyên bố trong một buổi họp về tư cách của tướng Viên, “Tướng Viên chưa bao giờ nói dối với một chuyện gì. Khi không thể nói được thì ông nói không nói được. Nhưng khi ông nói một chuyện gì rồi, thì tôi tin đó là sự thật.” Cũng trong quyển sách về hồ sơ mật của MACV nói trên, một đôi khi ta thấy được tình cảm chân thật giữa hai người sĩ quan cao cấp, kính trọng nhau, khi một tình trạng khó xử xảy ra. Chuyện xảy ra trong giai đoạn Việt Nam Hóa cuộc chiến. Hình như trong nguyên thủy của kế hoạch rút quân, Hoa Kỳ dự định sẽ để lại một số quân tác chiến để phòng thủ ở Việt Nam như trường hợp ở Ðại Hàn và Tây Ðức. Nhưng không hiểu tại sao kế hoạch bị thay đổi, và người Mỹ quyết định rút tất cả quân ra khỏi chiến trường. Có lẽ vì tin theo kế hoạch nguyên thủy của tổng trưởng quốc phòng Melvin Lair … tướng Abrams đã hứa với tướng Viên tương tự. Nhưng khi kế hoạch thay đổi từ trên, Abrams không biết phải ăn nói ra sao, giải thích làm sao cho tướng Viên hiểu. Không biết sau đó tướng Abrams có nói gì với tướng Viên, hay giải quyết như thế nào. Nhưng trong một buổi họp đầy đũ các tướng lãnh tham mưu MACV, tướng Abrams nói: “Tôi vẫn thường nói, ngày vui nhất của tôi là ngày đại tướng Cao Văn Viên gọi điện thoại và xài xể tôi. Ngày đó là ngày tôi vui nhất. Nhưng tướng Viên sẽ không làm chuyện đó; ông ta quá lịch sự. Nhưng tôi muốn ông ta làm như vậy.” Lời nói chân tình của một đại tướng thâm niên đối với tướng Viên như vậy, đã nói lên tất cả sự kính trọng của tướng Abrams về tướng Viên. Ðại tướng Abrams mang lon thiếu úy năm 1936, và là đại tướng năm đại tá Viên được thăng cấp tướng.

Trong The Bunker Papers — một tường trình hàng tuần về tình hình quân sự chính trị VNCH của đại sứ Bunker, gởi thẳng cho tổng thống Lyndon Johnson (và tiếp tục gởi cho đến nhiệm kỳ thứ hai của tổng thống Richard Nixon) — tên của tướng Viên được đại sứ Bunker nhắc đến nhiều trong năm 1967. Nhất là trong hai, ba tháng trước ngày bầu cử tổng thống. Trong thời gian này tướng Viên là một conduit giữa các tướng lãnh và tòa đại sứ, thông báo cho chánh phủ Mỹ biết ý định của nhóm, hay giải quyết những khó khăn trong vấn đề chỉ huy và điều khiển giữa hai bộ tư lệnh Việt-Mỹ. Nhưng quan trọng hơn, khi hai ông Thiệu, Kỳ không nhường nhau và quyết định ra ứng cử tổng thống ở hai liên danh khác nhau, vai trò của tướng Viên trở nên quan trọng. Tướng Viên có nói với người viết một vài chi tiết về chuyện này. Ông nói vì tướng Thiệu thay đổi quyết định liên tục: Ban đầu ông Thiệu đồng ý đề nghị của hội đồng tướng lãnh là ông Kỳ sẽ tranh cử tổng thống với lá phiếu của quân đội. Sau khi ông Kỳ đắc cữ ông Thiệu sẽ trở là tổng tham mưu trưởng kiêm tổng trưởng quốc phòng. Nhưng hôm sau ông Thiệu đổi ý, tuyên bố ông sẽ từ chức và tranh cữ như một thường dân! Tướng Viên, đang là tổng trưởng quốc phòng và tổng tham mưu trưởng, phải quyết định. Trước đó tướng Viên (cùng với các tư lệnh quân đoàn) không những đệ đơn lên ủy ban kiểm soát bầu cử ở quốc hội không đồng ý cho ông Dương Văn Minh ra ứng cữ, ông còn bay qua Thái Lan gặp mặt tướng Minh (đang bị lưu đày ở Bangkok) để chuyển đạt ý kiến của hội đồng tướng lãnh — một nhóm 50-60 sĩ quan cao cấp QLVNCH đang đại diện quân đội. Trước sự đổi ý liên tục của ông Thiệu, thứ Bảy, 1 tháng 7-1967, ông Viên đưa cho ông Thiệu một tối hậu thư của hội đồng tướng lãnh: Ông Thiệu và ông Kỳ sẽ ứng cữ chung liên danh quân đội, ông Thiệu tổng thống; ông Kỳ phó tổng thống; ông Kỳ sẽ có toàn quyền bổ nhiệm thủ tướng, hội đồng tổng bộ trưởng, và các tư lệnh cao cấp của quân đội. Ðó là sự nhân nhượng cuối cùng của ông Kỳ. Theo lời của tướng Viên thuật lại, trung tướng Nguyễn Ðức Thắng là người viết những cam kết đó trên một tờ giấy, và tướng Viên là người đưa tướng Thiệu tờ cam kết đó. Theo tường trình của đại sứ Bunker gởi về cho tổng thống Johnson, hội đồng tướng lãnh đi đến quyết định này sau “48 tiếng đồng hồ, trong một căn phòng đầy khói thuốc.” Và ông Thiệu chấp nhận quyết định của hội đồng tướng lãnh.

Về liên hệ của tướng Viên và tổng thống Thiệu. Tướng Viên giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, và là đại tướng lâu nhất trong QLVNCH. Tướng Viên — qua những gì đã viết và nói ra — đệ đơn xin từ chức năm lần từ năm 1969 nhưng tổng thống Thiệu không chấp nhận. Theo tài liệu giải mật sau này, tổng thống Thiệu muốn thay ông Viên từ năm 1969, nhưng tại sao không thực hiện ý định đó thì không hiểu được. Sau vụ bắn lầm vào trường trung tiểu học Phước Ðức ở Chợ Lớn ngày 3 tháng 6-1968, gây tử thương một số sĩ quan thân cận với tướng Kỳ, tổng thống Thiệu nhân dịp đó thay đổi toàn bộ những chức vụ trong quân đội. Ông Thiệu giữ tướng Viên lại chức tổng tham mưu trưởng chỉ vì ông Viên không có tham vọng chính trị và không phải loại tướng hay làm “làm hoảng.” Hai tác giả, thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh và chuẩn tướng Trần Ðình Thọ, trong The South Vietnamese Society (viết cho Center of Military, The United States Army), cũng suy luận theo chiều hướng đó. Ðiều này cũng phù hợp với một số tài liệu giải mật về sau. Một tài liệu cho thấy trung tướng Hoàng Xuân Lãm là một nhân chứng một lần tướng Viên muốn từ chức: Trong một buổi họp quân sự ngày 9 tháng 3-1971 để quyết định về tình hình mặt trận Lam Sơn 719, tướng Lãm xin tổng thống Thiệu cho từ chức vì sự quản trị và điều khiển hành quân của ông đối với hai tướng Lê Nguyên Khang (tư lệnh TQLC) và Dư Quốc Ðống (tư lệnh Nhảy Dù) không có hiệu nghiệm … ông xin được từ chức trở về dân sự. Khi nghe, tướng Viên đề nghị với tổng thống Thiệu cho tướng Lãm về thay ông ở bộ tổng tham mưu, để chính ông được trở về … dân sự! Dĩ nhiên tướng Lãm không chịu; ông Thiệu thì không muốn thay cả hai! Kết quả buổi họp: Tướng Lãm trở lại chỉ huy hành quân Lam Sơn 719; tướng Viên bay ra Khe Sanh để “nhắc” tướng Ðống là phải tuân theo hệ thống chỉ huy. Trong tác phẩm The Abrams Tapes của tác giả Lewis Sorley, có một đoạn nói từ đầu năm 1969 tướng Abrams đã nghe chuyện tổng thống Thiệu sẽ thay thế tướng Viên nhiều đến độ ông nói với các sĩ quan tham mưu MACV, “… khi thì nghe tướng Lãm sẽ thay, khi thì tướng Trí sẽ thay … chừng nào xảy ra thì tôi mới tin …” Và đó là vào những tháng đầu của năm 1969. Tướng Viên bị giữ lại bộ tổng tham mưu, người viết nghĩ, vì ông Thiệu không còn tin ai hơn tướng Viên. Tin ở đây không có nghĩa là tin tướng Viên là người trung thành với mình: ông Thiệu tin tướng Viên là người sẽ không dùng lính để làm ẩu. Ngoài chức vụ TTMT, tướng Viên không được mời tham dự một hội đồng nào khác của chính phủ. Một dẫn chứng: Trong Ủy Ban Ðiều Hợp Tình Báo Quốc Gia do trung tướng Ðặng Văn Quang làm chủ tịch (đồng thời là Phụ Tá Ðặc Biệt Quân Sự và An Ninh cho tổng thống), với những ủy viên là đặc ủy trưởng Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo; Cục trưởng An Ninh Quân Ðội; hai Trưởng Phòng 7 và Phòng 2, BTTM; và, giám đốc Nha Kỹ Thuật. Chúng ta không thấy ông tổng tham mưu trưởng có tên trong danh sách ủy viên. Như tướng Viên đã viết và trả lời một vài phỏng vấn, ông đệ đơn xin từ chức từ khi biết tổng thống Thiệu muốn tìm một người khác thay ông từ cuối năm 1969. Khoảng cách giữa người tổng tham mưu trưởng và vị tổng tư lệnh quân đội càng xa hơn khi tổng thống Thiệu không còn để ý đến hệ thống quân giai, hay quân phong của quân đội, khi ông ra lệnh hay có liên hệ cá nhân với các sĩ quan dưới quyền của tướng Viên. Hành động của tổng thống Thiệu đã làm chính tướng Abrams để ý. Hai lần, cuối năm 1968 và đầu năm 1969, tướng Abrams nói trong buổi họp … là tướng Lãm liên lạc trực tiếp với tổng thống về vấn đề hành quân … tướng Ðỗ Cao Trí thì vào dinh Ðộc lập ăn cơm với tổng thống một tuần hai, ba lần. Liên hệ như vậy đặt tướng Viên vào tình trạng khó xử. Ðầu tháng 5-1972, khi tình hình ở Quảng Trị nguy ngập. … tổng thống Thiệu là người trực tiếp viết quân lệnh cho bộ quốc phòng và BTTM, ra lệnh bắt chuẩn tướng Vũ Văn Giai lập tức; và, ra lệnh tướng Lãm xử bắn những quân nhân có hành vi vô kỷ luật ở Huế. Dĩ nhiên trên cương vị tổng tư lệnh quân đội, tổng thống Thiệu có toàn quyền ra lệnh như vậy. Nhưng tại sao không ra lệnh cho BTTM/ tổng tham mưu trưởng thi hành lệnh của ông? Hành động của tổng thống Thiệu không phải là một thí dụ tốt để duy trì kỷ luật hệ thống quân giai. Ở đây người viết không có ý định đào sâu khoảng cách giữa tướng Viên và tổng thống Thiệu. Nhưng đó là những gì đã xảy ra.

Bác Viên hiền và ít nói; ít phê phán lời nói hay hành động người khác. Có thể trong thời gian biến động của những năm 1964-1967, tánh yên lặng và “ít có ý kiến” của bác Viên đưa đến sự kính trọng của những tướng lãnh trong hội đồng lãnh đạo. Tôi có dịp nghe chuyện từ tác giả viết từ điển Nguyễn Văn Tạo (đã quá cố; tác giả từ điển Việt-Anh/ Anh-Việt; Việt-Pháp/ Pháp Việt), một người hàng xóm quen biết của bác Viên ở Vạn Tượng. Bác Tạo gái nói lúc còn trẻ bác Viên nhìn hiền, hiền như kiểu một thầy giáo … khó tưởng tượng sau này ông ta trở thành một quân nhân chỉ huy lính …

Tôi và anh Lý Thanh Tâm, một sĩ quan trung thành, gặp bác Viên lần cuối vào ngày thứ Bảy, 8 tháng 12-2007. Bác Viên ngồi trên giường nói chuyện huyên thuyên … giọng nói vẫn mạnh. Tôi hẹn anh Tâm và bác sẽ trở lại thứ Tư, 12 tháng 12, 2007. … Thứ Ba 11 Bác gọi sớm và nói không thể gặp ngày thứ Tư. Hình như thứ Bảy, 15 tháng 12, 2007, nhà làm sinh nhật trể cho bác. Sáng thứ Ba, 22 tháng Giêng, 2008, tám giờ sáng, tôi nhận một mass e-mail của anh Bùi Mạnh Hùng thông báo bác đã đi. Hơn chín giờ sáng tôi gọi đến nhà cao niên nơi bác ở để hỏi thăm. … Ðầu giây, bác Nguyễn Hữu Bầu nói … “Bác đang đứng trước xác bác Viên đây …” Tôi nói cảm ơn, rồi gọi cho bác Ðoàn Văn Nu ở Galveston, bác Nguyễn Thu Lương ở Montreal … hai bác đã đi hành quân với bác Viên từ thời còn ở tiểu đoàn 1 Nhảy Dù.

Ngày Chủ Nhật cuối cùng của đám tang bác Viên, đại diện đông đủ quân binh chủng của quân lực VNCH đến tiễn bác lần cuối. Trung tướng Lữ Lan và đại tá Hoàng Ngọc Lung có đọc điếu văn. Trong bài điếu văn của bác Lung, ông nói ra một sự thật mà ông đã giữ kín cho đến ngày hôm đó: Khi ông Dương Văn Minh lên làm tổng thống, dưới áp lực chính trị mới — giả định là áp lực của cộng sản Bắc Việt — ông Minh đã có kế hoạch bắt giữ năm (5) nhân vật đầu não của BTTM. Ðứng đầu danh sách năm người đó là đại tướng Cao Văn Viên.

Một đôi khi tôi nhớ lại những bữa ăn trưa vào mùa Hè 2002. Nhớ khi bác Viên hỏi tôi, “Hmmm, hôm nay ai trả tiền ta?” Lúc nào tôi cũng nói đến lượt tôi trả; và lúc nào ông cũng nói tôi nhớ lầm. Và nếu may mắn, người chủ quán sẽ nói, “Hôm nay nhà hàng đãi.” Hình như người chủ quán là cháu họ của bác Viên.

Nguyễn Kỳ Phong@yahoo.com Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó

Cao Văn Viên. Ðại tướng, tổng tham tham mưu trưởng QLVNCH (1967-1975). Sanh ngày 11 tháng 12-1921 tại Vạn Tượng, Lào. Tốt nghiệp trường trung học Pavie, làm huấn luyện thể thao tại một trường trung học sau khi tốt nghiệp trung học. Bị quân đội Nhật bắt giữ khi chính quyền Pháp ở Ðông Dương thất thủ. Trốn về Việt Nam, theo học trường sĩ quan Vũng Tàu và ra trường năm 1949. Lần lượt giữ những chức vụ như sĩ quan phòng tuyển mộ nhập ngũ, phòng báo chí bộ quốc phòng, trước khi đi thụ huấn khóa chiến thuật để về làm tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 10, năm 1952, ở Bắc Việt. Năm 1954 làm sĩ quan Ban 2, rồi Ban 4 ở tiểu khu Hưng Yên. Sau Hiệp Ðịnh Geneve 1954, rút về miền Nam, ông được chỉ định coi Tiểu Ðoàn 56 để tiếp thu tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1955-56, về làm sĩ quan ở Phòng 4 BTTM, trước khi được theo học trường Command and General Staff College ở Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ, năm 1956-57. Trở lại Việt Nam, với cấp bực trung tá, ông được vào làm ban tham mưu biệt bộ phủ tổng thống năm 1959. Tháng 11-1960, sau cuộc đảo chánh thất bại của nhóm trung tá Vương Văn Ðông và đại tá Nguyễn Chánh Thi, ông được chỉ định thay đại tá Thi làm tư lệnh lữ đoàn Nhảy Dù. Trong cuộc đảo chánh tổng thống Ngô Ðình Diệm của các tướng lãnh vào tháng 11-1963, ông bị tạm giam tại bộ tổng tham mưu vì không ủng hộ trung tướng Dương Văn Minh, người lãnh đạo cuộc đảo chánh. Bị mất chức tư lệnh Nhảy Dù tạm thời, nhưng ngay sau đó được phục hồi. Ðầu tháng 1-1964, với cương vị tư lệnh Nhảy Dù, tướng Viên là thế lực chính phía sau cuộc chỉnh lý hạ bệ tướng Dương Văn Minh. Tháng 3-1964 được thăng chức thiếu tướng sau khi bị thương khi đích thân chỉ huy cuộc hành quân nhảy dù vào căn cứ cộng sản ở Giồng Bầu, Hồng Ngự. Tháng 10-1965 được Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia bổ nhiệm làm tổng tham mưu trưởng QLVNCH với chức trung tướng. Trong thời gian biến động của bốn năm 1966-67, tướng Viên tham dự vào nhiều quyết định quân sự và chính trị trong nội bộ của Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia. Tháng 3-1967 tại Hội Nghị Thượng Ðỉnh Ðảo Guam, tướng Viên đã đề nghị với tổng thống Lyndon Johnson về một chiến lược cô lập CSBV, bằng cách lập một hàng rào phòng thủ dọc theo vĩ tuyến 17; hoặc là đánh thẳng qua các cơ sở hậu cần của CSBV ở Hạ Lào và Quảng Bình-Vĩnh Linh. Phía Hoa Kỳ không chánh thức trả lời, nhưng tài liệu cho thấy trong năm 1967 đại tướng William Westmoreland đã ra lệnh cho MACV soạn thảo dự trù một kế hoạch tấn công qua Lào có tên là Hành Quân El Paso. Năm 1967 một lần nữa ông được sự tin tưởng của hội đồng các tướng lãnh là một sĩ quan không chánh trị khi được thăng chức đại tướng. Vào năm bầu cữ 1967 ông là sĩ quan đại diện cho Hội Ðồng Quân Lực giải quyết sự bế tắt giữa giữa trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, khi cả hai đều muốn tranh cữ chức tổng thống trong và dưới sự ủng hộ của liên danh quân đội. Từ năm 1969 trở đi, vai trò của tướng Viên như một tổng tham mưu trưởng bị lu mờ đi khi tổng thống Thiệu bắt đầu trực tiếp điều khiển quân đội thẳng qua lệnh tổng thống thay vì qua hệ thống quân giai của BTTM. Theo những gì do đại tướng Viên viết, là ông đã đệ đơn từ chức năm lần nhưng đều bị tổng thống Thiệu bác đơn. Trong những năm cuối của VNCH, vai trò tổng tham mưu trưởng của đại tướng Viên chỉ còn là một hư vị. Ngày 28 tháng 4-1975 tổng thống Trần Văn Hương chấp thuận đơn từ chức của tướng Viên. Ông rời chức vụ và Việt Nam một ngày sau đó.

Tài Liệu: Cao Văn Viên, The Final Collapse (1985); Những Ngày Cuối Của VNCH (2003); Vietnam: What’s Next? The Strategy for Isolation (1972); Lewis Sorley, Vietnam Chronicles: The Abrams Tapes, 1968-1972 (2004).

[Trích trong Từ Ðiển Chiến Tranh Việt Nam của Nguyễn Kỳ Phong]