"Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả, cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về sau." President Ronald Reagan
Thursday, January 11, 2018
Xuân ni vắng Mạ - Thanh Ho
Chiếc xe lam đỗ xịch lại trước cái quán bên đường làm cho không khí trong quán bỗng huyên náo hẳn lên. Tiếng trẻ con chào mời khách mua quà bánh, pha lẫn với những tiếng léo nhéo cười đùa của đám lính trẻ đang ngồi hút thuốc chờ xe quân vận đến bốc về trại. Tôi lách người chui ra khỏi chiếc xe lam, nồng nặc mùi mồ hôi xen lẫn thoang thoảng mùi dầu gío xanh Con Ó của bà cụ ngồi cạnh. Cái nắng buổi trưa của Bình Định như phả vào mặt làm tôi hoa mắt không nhìn rõ được những gì trong quán.
“Thằng ni sao chừ còn ở đây?”
Tiếng của bà cụ Giáo vang lên mang theo mùi thuốc lá Cẩm Lệ quen thuộc làm tôi chợt vui vì được gặp lại “Mạ”. Lũ lính tráng chúng tôi, mỗi khi được xuất trại hoặc đi đâu về, thường hay ghé quán của cụ Gíáo để ăn bát bún bò Huế cay toát mồ hôi. Có khi hết tiền thì uống cốc cà phê đen hoặc mua bao thuốc lá trước khi về lại trại. Ghé mãi thành quen rôì cứ xem cụ như người nhà. Không biết trong bọn tôi đứa nào khởi sự gọi cụ bằng Mạ, chẳng bao lâu thì cả bọn tôi cùng gọi cụ Giáo bằng Mạ. Không phải vì Mạ có hai cô con gái đẹp mà làm tôi muốn gọi cụ bằng Mạ, mà thật sự ở cụ tôi tìm thấy những lời hỏi thăm chân thật, những ánh mắt tha thiết như của mẹ tôi vậy.
“Mạ sao cũng còn ở đây à? Còn Lan, Hường đâu sao không vào đưa Mạ chạy tạm vào Qui Nhơn ít hôm?”
Tiếng Mạ lo lắng: “ Con Lan hắn chạy vào Nha Trang với thằng chồng nó sạng nay rồi. Tau chờ con Hường hai hôm ni mà chưa thấy hắn về.”
“Đi mô mà mất biệt làm tau lo quạ!”
Tôi vội trấn an cho Mạ bớt lo: “ Không sao đâu Mạ, Phú Mỹ với đây chỉ đi hai chặng xe thồ là em Hường về đến nhà ngay ấy mà. Thế Hường có nói với Mạ là nó có đi theo trường hay không? Giáo viên quận lỵ lúc loạn lạc thì chắc cũng lu bu với đám học trò. Mạ cứ an tâm, hắn về ngay âý mà.”
Một ngày đầu tháng Tư, 1975…
Từ tờ mờ sáng hôm nay, những đoàn người chạy loạn xuôi về Nam càng lúc càng đông. Những chiếc xe thồ ba bánh được tận dụng tối đa, đàn bà con nít, dồn hết lên chiếc xe đã đầy những gồng gánh và ba lô hành lý. Đằng sau những tiếng súng như càng lúc càng gần, tôi không hiểu đây là súng của Sư Đoàn 22 Bộ Binh VNCH hay là của Trung Đoàn Sao Vàng của địch quân. Những chiếc trực thăng chật ních những người như muốn trĩu xuống vì chở quá tải, bay lè tè dọc theo quốc lộ như để phòng hờ phải đáp khẩn. Cái hỗn loạn mỗi lúc một trầm trọng, tôi bồn chồn chờ ở phi đạo 243 một cách tuyệt vọng. Tiếng ông thượng sỹ Quang chua chát:
“ĐM tụi nó bỏ mình rồi!”
Tôi nuốt nhanh ngụm khói thuốc như để tự trấn an mình cho bớt sợ, cái viễn ảnh bị bắt làm tù binh làm tay tôi bỗng dưng run lên khiến điếu thuốc lá tuột khỏi hai ngón tay đã nâu đi vì khói .
“ Bây giờ anh tính sao anh Quang? Liệu mình có đi đường bộ được không?”
Quang hằn học : “ĐM bây giờ mình chỉ có nước chạy ra khu đổ rác thì may ra thằng Thần Tượng (Phi đội trực thăng) mới dám xuống, chứ ngôì đây cả lũ thế này thì thằng đéo nào dám xuống.”
Tôi quơ vội cái túi xách và khẩu M16 rồi phóng nhanh ra chiếc Dodge của Không Đoàn Bảo Trì. Quang cũng hấp tấp nhẩy lên, đạp ga mạnh cho chiếc xe lao vụt về hướng bãi đổ rác gần vòng đai phi trường. Bãi đất trống cạnh những đống rác nồng lên mùi rác ẩm. Tôi thầm phục Quang nhanh trí đã nghĩ đến chỗ này, chẳng một ma nào thèm mò đến đây để dành lên maý bay với chúng tôi. Quang bắn liên tiếp hai phát flare đỏ làm hiệu, quả nhiên không bao lâu thì tiếng quạt của trực thăng sập đến mang theo những rác rến đang bị thổi tung lên cùng với những chiếc lá xoài khô chưa kịp ẩm mục.
“ Lẹ lẹ đi mấy cha, ĐM tụi nó bắn rát quá!”
Tiếng phành phạch của chiếc UH1* mang tôi bay bổng vào vùng trời đầy mây xám. Gío phần phật bên tai, tôi tựa cửa con tầu nhìn xuống phi trường Phù Cát đang nhỏ dần, và chìm khuất trong ký ức của một người lính thua trận.
Edmonton, một ngày đầu Đông…
Lâu lắm rồi không còn nghe tiếng cánh quạt của trực thăng, vậy mà hôm nay đang đi bộ dọc theo con lộ Rabbit Hill thì bỗng đâu có tiếng phành phạch quen thuộc của chiếc UH1 đang lượn ngay trên đầu, tôi giật mình ngước lên, rồi vội trấn tĩnh và tự bảo “ trực thăng của Global News”. Tôi lầm lũi đi về phía bờ sông Saskatchewan mà bỗng bồi hôì nhớ lại mùa Xuân 75. Không hiểu giờ đây Mạ của bọn tôi còn ở cái quận lỵ Gò Găng buồn như trấu cắn ấy hay đã trôi dạt về phương Nam mịt mờ xa tít. Tôi bùi ngùi nhớ lại mùi thuốc lá Cẩm Lệ hăng hắc của Mạ. Mạ thường ve thuốc hút, vừa nhóp nhép giọng Huế:
“ Biết chừng mô tụi mi mới thôi đánh nhau. Loạn lạc khổ quạ lấy chi ăn đây?”
Từ ngày ông Giáo chồng bà, chết trong trận đánh đẫm máu ngày đầu Xuân 1968, bà dắt con gạt nước mắt bỏ Huế để tạm lánh về quê đứa cháu ở Bình Định. Yên ổn được vài năm. Cuộc chiến lại tràn về Bình Định làm gia đình bà lại một lần nữa tứ tán. Lần này bà lưỡng lự mãi, không muốn hoà nhập vào dòng người di tản, một phần vì muốn chờ Hường. Cô gái út của bà không hiểu vì sao đi dạy học ở Phú Mỹ, chỉ cách có một giờ xe mà vẫn biền biệt không tăm hơi. Tôi bỗng thấy thương Mạ quá, vẫn mỏi mòn chờ con. Tôi ngậm ngùi thương cho những người đàn bà Việt Nam, miệt mài làm lụng vất vả ,buôn bán lo cho chồng, cho con, chẳng bao giờ có thời giờ để nghĩ đến mình. Cuộc chiến như luôn đeo đuổi những người vợ lính như để vội vã quấn vành khăn tang lên những mái tóc vẫn còn xanh. Chiến tranh như trực chờ để trút lên đầu họ những bất hạnh.
Trong cái tận cùng đau đớn mất chồng lạc con. Mạ vẫn lặng lẽ cam chịu, vẫn gắng sống mong đợi một ngày khi đất nước thanh bình để Mạ có thể về lại Huế. Chỉ có Huế của Mạ, mới có sông Hương thơ mộng, uốn lượn như mái tóc đen bóng, thơm mùi bồ kết của Hường. Những lúc nhớ con, Mạ mắt long lanh thở dài: “ Tau nhợ con Hường quạ! Con ni đi chi mà đi miệt.”
Những lúc Mạ nói như thế, làm tôi bỗng nhớ đến đôi mắt tròn đen láy tinh nghịch của Hường mỗi khi tôi ra quán. Cô có cái cười mim mím như muốn che dấu cái răng hơi hô của mình làm cho hai má cô như bừng lên vì ấp úng. Tôi yêu cái cười mím đó như thể cô muốn nói một điều gì đó, mà vì ngượng nên chưa dám nói. Hình ảnh của Hường trong chiếc áo dài mầu mỡ gà khi cô đứng chờ xe lam dưới bóng cây bàng, cho người ta cái cảm giác cô như một giòng suối mát, mềm mại chảy ngang vùng đất khô, đang nứt ra vì cái nắng nóng thiêu đốt của miền Trung.
Mỗi khi nghe tôi ho khúc khắc, Hường hay nhỏ nhẹ bảo tôi: “ Anh đừng hút thuốc nhiều quá hị! ra đây em pha nước mát uống cho bớt ho.” Tôi cảm động bởi những cử chỉ săn sóc nho nhỏ của Hường, tôi muốn nói với Hường nhiều lắm nhung không hiểu vì sao vẫn chưa nói được. Thế rồi những ngày loạn lạc, bom đạn vang rền trên các quận lỵ của miền Trung, và tôi không còn bao giờ có dịp để nói với Hường cái ước mơ của tôi được đưa nàng về lại Huế, dạo phố chợ Đông Ba hoặc đi lên Thiên Mụ hái hoa đại nữa. Tôi vẫn không tin là chiến tranh đã cướp mất của tôi người bạn gái Huế năm nào. Tôi vẫn hy vọng được gặp lại nàng, một ngày nào đó khi quê hương không còn ly loạn. Hình ảnh cô giáo tiểu học trong một quận lỵ nhỏ, với nụ cười mím của Hường như vẫn đeo đuổi theo cái ký ức mỗi lúc một mờ nhạt của tôi.
Năm ngoái Bình, một người bạn của tôi, có dịp về thăm lại quê ở Bình Định. Anh có tìm và hỏi thăm tin tức của Mạ thì được hàng xóm cho biết “bà già Huế” đã chết sau mấy năm lặn lội đi tìm con. Cũng may có đứa cháu họ xa nó lo cho phần chôn cất chứ hai đứa con gái vẫn biệt vô âm tín.
Reng reng…reng reng…
Tiếng điện thoại di động rung lên lôi tôi về thực tại: “Bố đang ở đâu đó? Có về ăn cơm không hay còn đang lang thang đi đâu vậy?” Tiếng đứa con gái của tôi đang cằn nhằn cái gì đó làm tôi chợt nhận ra là trời đã tối hẳn, gió lạnh từ bờ sông Saskatchewan thổi tốc lên xô tôi nhanh về phía bãi parking. Lên được xe, tôi đánh diêm châm một điếu thuốc lá: “Cái xứ gì mà lạnh quá không biết!”
Quành đầu xe ra xa lộ Whitemud được khoảng hai phút. Tôi bỗng đổi ý bẻ ngoặc tay lái rẽ vào đường Fox Drive định đi về lại phố Tầu. Bỗng dưng ngay bên con đường vắng, cạnh cái thành cầu, tôi thâý một cô gái tóc đen láy trong chiếc áo dài trắng. Kééét!
Đạp mạnh thắng! Hai mắt tôi mở căng ra, tôi chợt ú ớ “Ủa? Hường!”. Tôi ngừng xe tạt vào bên con đường vắng. Vẫn không tin những gì mình vừa nhìn thấy, cúi đầu xuống vô lăng, hít mạnh một hơi ngửng lên, thì không còn thâý bóng Hường đâu nữa. Tôi bước hẳn ra khỏi xe quan sát, Hường đứng đó xa xa, tái xanh trong chiếc áo dài trắng, nhìn tôi như muốn nói điều gì đó. Tôi tiến lại gần hơn để định thần nhìn cho kỹ thì hình như bóng cô cứ lùi dần; và đột nhiên như chìm hẳn vào màn đêm dầy đặc sương lạnh. Một cảm giác lành lạnh sau gáy làm tôi vội kéo lại cái cổ áo khoác ngoài. Lắc mạnh đầu, tôi tự nói: “ Chắc mình phải đi khám mắt lại, trông gà hoá quốc rôì!”. Tôi phóng nhanh về lại nhà trong cơn bão tuyết của muà đông Edmonton.
Không biết tại sao tay tôi run quá, cầm nén hương trong tay, tôi run run bật lửa, tôi nói thầm: “Đêm nay là đêm giao thừa, con thắp nén hương này cho Mạ để Mạ biết là con đã tìm được Hường cho Mạ rồi, Mạ linh thiêng thì về đón em con Mạ hỉ!”
Bên ngoài, gió Bắc đang thổi rít lên làm cho những bông tuyết trắng xoá đập mạnh vào cửa sổ như có tiếng ai đó đang gõ cửa gọi “ Mạ ơi!”.
Edmonton, một đêm Đông gía lạnh.
Thanh Ho
*UH1 : Tên một loại trực thăng dùng trong chiến tranh Việt Nam
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment