Từ chiều 29 cho tới trưa ngày 30-4-1975, súng đủ loại lớn
nhỏ đã bắt đầu nổ vang khắp Sài Gòn. Kinh khiếp hơn hết là các loại bích kích
pháo B40-41, hỏa tiễn 122 ly, cứ bì bỏm liên tục, rót xuống phi trường Tân Sơn
Nhất và các vùng đông dân lân cận.
Rốt cục chỉ có mặt nhựa ở phi đạo bị
đan làm xoáy tung mà thôi. Nơi nơi bôn hướng, cây cối, dây điện, gạch vôi và
thân xác của những người lính quèn lúc đó, vẫn còn ở lại để phòng thủ cái phi
trường trống không, chập choạng, ngả nghiêng thảm thê theo làn đạn địch. Ánh
lửa hồng từ các đám cháy, quyện với mùi khói khét và sơn vôi gạch vụn, theo gió
bốc mùi vào các ô cửa kính bị vỡ vì mãnh đạn bay lạc. Trong Viện Quốc Gia Nghĩa
Tử, nằm cạnh khu nghĩa trang Thánh Tây và phi trường, trên đường Võ Tánh, là nơi
tạm trú của mấy trăm gia đình di tản thuộc các Ty Cựu Chiến Binh từ Miền Trung
chạy vào. Mọi người ai cũng đang co rúm giữa bốn bức tường mỏng manh loang lổ đan,
nằm ngồi trên nền xi măng hay các bàn ghế học trò lạnh lẽo, đói khát. Lũ con
nít thiếu nước, thiếu sữa nên la khóc inh ỏi.
Lúc đó trên đường Võ Tánh từ cổng
chính của Bộ Tổng Tham Mưu gần ngã ba Trương Tấn Bửu chạy tới ngã tư Bảy Hiền,
xa nhìn ngút mắt, có các đám cháy lớn và nhiều quân xa chở lính cũng như thiết
giáp đang dồn dập di chuyển. Khói lửa, điêu linh và chết chóc, đã được chính người
miền Nam , qua cái rổ tự do dân chủ, hòa hợp dân tộc, để rước cọng sản đệ tam
quốc tế Hà Nội, mang từ Liên Xô và Trung Cộng, vào tận đất Sài Gòn thơ mộng
hiền hòa, vô ưu, vô tâm và vô trách nhiệm.
Trong nổi câm nín của những ngày
Việt Nam sắp mất nước, đất trời như cũng cảm thông chia sớt với thân phận của
một dân tộc nhược tiểu, bị chính đồng bào mình, qua nhân danh lãnh tụ, đem bán đứng
cho các thế lực ngoại nhân, trong đó có đế quốc Tàu đỏ, là kẻ thù ngàn đời mãn
kiếp của dân tộc Việt. Bởi vậy bốn bề chỉ thấy cảnh tượng mông mênh sầu thảm,
qua cơn mưa hè đầu mùa sụt sùi lệ mắt. Trong góc phòng, có chiếc máy thu thanh
của ai đó mở suốt từ đêm qua, nhưng âm thanh tuyệt nhiên vắng ngắt , lâu lâu
phát ra những tiếng gió sè sè lãng xẹt.
Giữa giờ thứ 25 chết chóc đang chực
chờ, bổng thấy thèm những giọng ca thương lính thuở nào, của những nam nữ ca sĩ
phong lưu dỏm dáng, trắng trẻo no tròn, với bộ đồ trận rằn ri, luôn còn nguyên
nếp gắp và mùi thơm vải. Tình nhất là trên túi aó có lúc lắc chùm huy chương đủ
loại, cũng như các phù hiệu của những binh chủng dữ dằn như Nhảy Dù, TQLC, BÐQ,
Lôi Hổ.. Cũng thấy nhớ tới những bài diễn văn bốc lửa, đượm tình mến nước yêu
dân của các đấng nguyên thủ, chính khách, lãnh tụ, cha-thầy, kể cả các trí thức
khoa bảng của Sài Gòn. Rồi những cuộc biểu tình chống chính phủ, chống tham
nhũng, chống đàn áp tôn giáo, báo chí đến nỗi hàng trăm ký giả bị khủng bố bốc
lột gần trần truồng chịu đói lạnh không nổi, đành phải đi ăn mày để có được tự
do ngôn luận như các đồng nghiệp đang sống ở Hà Nội, trong thiên đàng xã hôi
chủ nghĩa, cái gì cũng có như ‘ nước đá ‘ xài không hết phải phơi khô để dành..
Nhưng giờ này họ ở đâu ?, vì hôm qua còn thấy
chường mặt đủ trên đài truyền hình hay báo chí, hùng hổ phun bọt mép, khua cả
tay chân quả đấm đòi này nọ, để có thực quyền đối mặt với mấy trăm ngàn bộ đội
miền Bắc, đang lăm lăm súng đạn, mả tấu, để phanh thây xé xác đồng bào. Họ nói
có quyền mới có hòa hợp hoà giải,mang lại hòa bình cho đất nước và trên hết người
Việt không cần phải bỏ nước ra đi, để phải chết vì thèm mấm tôm cà pháo nơi xứ
người.
Tất cả gần như chạy hết rồi, bỏ lại đồng
bào thân yêu , lính tráng đồng đội đang còn tử chiến với giặc khắp chiến trường,
các thương bệnh binh đang rên la trong quân y viện và mảnh đất Sài Gòn ba trăm
năm, trong cơn hấp hối :
+ Sài Gòn, những phút giờ hấp hối :
Hai mươi năm chinh chiến, bao giờ
cũng vậy, tới lúc cuối cùng chờ chết, vẫn là người lính trận và đồng bào nghèo,
không có phương tiện để vượt thoát khỏi cảnh bom đạn. Lính chết thật oan khiên
vì chiến đấu trong đơn độc, không có đồng minh cũng như đồng đội yểm trợ, vì
vào giờ thứ 25, đâu có ai ngu như người lính VNCH, ở lại chết để không có tiền
tử tuất, kể cả chiếc quan tài vùi thây đời lính. Biết nghĩ như vậy, những ai
còn sống sót tơí ngày hôm nay, phải nhỏ một giọt nước mắt, dù muộn màng để cảm ơn
họ. Lính chết oan khiên chẳng những ngoài chiến trường khi phải đối mặt với kẻ
thù hung ác, mà còn chết lãng nhách nơi hậu phương bởi những cái lưỡi tắc kè
xanh xanh đỏ đỏ, giờ này nhìn lại cũng đỏ đỏ xanh xanh, đâu có thấy đổi màu.
Thảm nhất là trên đầu lính, gần hết là bọn lãnh đạo tồi, thứ này giờ đã hết răng
để mà ăn, nhưng lúc nào cũng muốn chường ra giữa bia miệng, chọc cho thuộc hạ
và con cháu khinh nhờn, khi cứ xưng chức, đeo huy chương và trả lời những phỏng
vấn cuội, như mới đây có đám việt gian ở Canada về Sài Gòn phỏng vấn lũ tướng đầu
hàng VC, trong đó có Nguyễn Hữu Hạnh và Triệu Quốc Manh, thuộc hàng tép riu,
không quân, không đơn vị trước khi Dương Văn Minh được làm tổng thống hai ngày,
để bắt QLVNCH buông súng rã ngủ.
Người lính Miền Nam bi hùng là
thế đó, như vậy làm sao bảo họ phải chiến thắng khối cọng sản đệ tam quốc tế,
trong đó có Liên-Xô và Trung Cộng ? Người lính đã ở lại tới giờ phút cuối cùng
vào trưa ngày 30-4-1975, đã là anh hùng thử hỏi có quân đội nào anh hùng hơn,
kể cả quân Pháp, Ðức, Anh trong Thế chiến 2.
Sau khi Hoa Kỳ cùng Bắc Việt đồng
thuận ngụy tạo cuộc ngưng bắn bịp vào tháng 2-1973, chấm dứt sự hiện hữu của Mỹ
tại chiến trường. Cũng từ đó, QLVNCH bị đem con bỏ chợ, chiến đấu trong thiếu
thốn, thiếu cấp chỉ huy trên thượng tầng, thiếu đạn dược, thuốc men, xăng nhớt,
các quân dụng khiến cho nhiều phi cơ, chiến xa phải nằm ụ vì không có cơ phận
sửa chữa hay thay thế. Tóm lại mọi sự đều do người bạn đồng minh Hoa Kỳ tạo ra,
như cắt quân viện, bội ước lời thề ‘ một đỗi một ‘ được chính siêu cường ký nói
hứa hẹn bằng giấy trắng mực đen. Trong khi đó thì Bắc Việt, từ Hồ Chí Minh tới
Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng.. đã đem mãnh giang sơn gấm vóc của tiền
nhân, cầm bán thế chấp cho đệ tam cọng sản, nên được cả khối như Liên Xô-Trung
Cộng, Ðông Âu, Bắc Hàn, Cu Ba, các đảng cọng sản Ý, Pháp, Mỹ và những thành
phân ăn cơm miền nam lại theo VC miền bắc, giúp đỡ hết lòng, từ cây kim hột
gạo, cho tới bom đạn, tăng, máy bay, tiền bạc và những cái lưỡi tắc kè đỏ đỏ
xanh xanh đảo lộn sự đời. Tệ nhất là lũ hề hữu danh vô thực, trong cái gọi là
Liên Hiệp Quốc, lúc nào cũng bưng bợ Hà Nội, như muốn đổ dầu vào biển lửa thống
hận trùng hằng tại Miền Nam.
Không chịu nổi cái cảnh ứa gan, hiếp
người ngã ngựa, nhà bỉnh bút quân sử thế giới lương thiện và nổi tiếng là Louis
A Fanning, đã phải viết lời chửi Mỹ : ‘ Sau hiệp định Paris 1973, hơn 300.000
bộ đội cọng sản quốc tế, được người Mỹ bỗng dưng tự tác cho ở lại trên lãnh thổ
của nước khác. Ðó là Miền Nam VN, một quốc gia độc lập, có chủ quyền, quốc hội
và không hề là thuộc địa hay các tiểu bang của Hoa Kỳ. Trong lúc đó, VNCH là
một đồng minh với Mỹ từ khuya , lại bị chính Mỹ phản bội, lường gạt, cắt viện
trợ và sỉ nhục mọi điều. Ðúng là thái độ của bọn con buôn chính trị, hèn chi người
Mỹ đã bị thế giới tự do coi thường, vì đã bội tín với nhiều đồng minh của
mình.’
Viết về tình trạng đồng bào VN, sống
giữa cảnh chết chóc của chiến tranh mạt kiếp, đáng lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy ra
nếu không có đảng cọng sản Hà Nội, khiến cho đất nước sau khi Nhật đầu hàng,
thay vì sẽ có hòa bình như nhiều nước trong vùng Á Châu, lúc đó cũng đang là
thuộc địa của bọn thực dân da trắng. Ðể diễn tả sự bất hạnh này, nhà báo người
Tây Ðức Une Siemon Netto, đã viết trong tờ International Herald Tribune : ‘ giờ
thì mọi người đã biết rõ cái thực chất cách mạng cứu nước, mà cọng sản Hà Nội
luôn dùng làm chiêu bài, để có cớ gây nên một cuộc chiến vô luân, nồi da xáo
thịt. Tiếc thay trước tháng 5-1975, nhiều trí thức khoa bảng và nhà báo Tây Phương,
đã biết rõ cọng sản đệ tam quốc tế gây chiến tranh chỉ vì ý thức hệ và trên hết
chúng rất dã man tàn bạo. Nhưng vì họ ích kỷ, hám danh và trên hết nhiều kẻ đã
táng tận lương tâm, nên muối mặt, bẻ cong ngòi bút, viết láo sai sự thật, để đầu
độc môi người, nhất là dân chúng Hoa Kỳ, đang có nhiều người thân tham dự cuộc
chiến thần thánh, bảo vệ tự do cho nhân loại tại Ðông Dương, đang bị Ðệ tam
cọng sản quốc tế tàn sát nhuộm đỏ.’. Hành động vô lương của bọn bồi bút, đã gây
nên nhiều nổi oan khiên tội nghiệp, khiến bao oan hồn lương dân vô tội, đã bị
bộ đội cọng sản miền bắc tàn sát dã man trong tết Mậu Thân, nhất là tại Huế.
Rồi mùa hè đỏ lửa 1972 trên đại lộ kinh hoàng, từ Ðông Hà về Huế, trên quốc lộ
14 Dakto-KomTum, đường 13 An Lộc-Bến Cát và đoạn đường số 1, từ Tam Quan-Hoài
Nhơn-Phù Mỹ về Qui Nhơn, qua những Lai Giang, sông Côn, sông Cả.. Nhưng bi thảm
nhất cũng vẫn là những ngày cuối cùng di tản tại Vùng I, vùng II trên đường số
7, dân chúng lánh nạn gục chết như ra vì đạn kích pháo của giặc, không cần biết
hay thương hại cho mạng người lá rụng, dù những mạng sống đó vốn cùng bộ đội
VC, chung cháu Lạc con Hồng. Tóm lại tất cả đều vô lý, đã khiến cho nhiều nhà
báo ngoại quốc sau này, phải kêu trời không ngớt, vì tự vấn lương tâm khi họ đả
vô tình hay cố ý, câm nín trước những thảm trạng của nam VN. Trong lúc đó vụ Mỹ
Lai (Quảng Ngãi), do chinh Hà Nội giật dây đạo diễn, đẩy dân lành vô tội ra làm
bia đỡ đạn cho lính Mỹ, thì được bao chi Tây phương làm lớn chuyện, tuyên
truyền không công cho Hà Nội, trong suốt cuộc chiến.
Sài Gòn đã bắt đầu xáo trộn từ tháng
3-1975, từ lúc miền Trung bị mất qua quyết định sai lầm rút bỏ quân đoàn I và
II của TT.Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tứớng Trần Thiện Khiêm và Ðại Tướng Cao Văn
Viên, Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH lúc đó. Ngày 21-4-1975, Tổng Thiệu qua áp lực
của Mỹ, muốn thay ngựa theo ý của cọng sản Bắc Việt, để hòa hợp hòa giải, nên
ông phải tuyên bố từ chức tổng thống trong lúc đất nước nguy ngập, ngàn cân
treo chỉ mành và đã cùng Thủ tướng Khiêm, được Tòa Ðại Sứ Mỹ, đưa ra khỏi Sài
Gòn, tới Ðài Bắc trong đêm tối bằng máy bay quân sự.
Việc bỏ nước ra đi của TT. Thiệu,
khác với trường hợp của Thủ Tứơng Khiêm hay Ðại Tứớng Viên, vì hai người này
chẳng hề bị đe dọa hay bắt buộc. Trái lại Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ
thứ 25 của VNCH trong tháng 4-1975, giống như cái chết của Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm ngày 2-11-1963, được quyết định bởi bàn tay của người Mỹ. Tổng Thống Diệm
không cho người Mỹ đem quân vào VN nên bị giết trong danh dự. TT Thiệu khôn
ngoan từ chức ra đi, nên được sống những ngày thừa nơi quê người, chịu bia
miệng nguyền rủa, vì ham sống sợ chết, dù rằng con kiến cũng muốn sống. Ðó là
sự thật của lịch sử, của thân phận nhược tiều VN, mà các tài liệu Mỹ đã hé mở
cho mọi người cùng đọc, trong vài năm trước đây và còn được lưu trữ phổ biến
khắp mọi văn khố, kể cả VC. Ngoài ra, cũng theo sử liệu, chính Tổng Thống Trần
Văn Hương, muốn người Mỹ đem Tổng Thống Thiệu ra khỏi nước tức tốc, mà theo TT
Hương, đó là kỳ đà cản mũi, nên ông ta không thể trị nước hay chống Cộng được.
Thương nhất là Cụ Trần văn Hương lúc
đó, đã gần đất xa trời, thêm mắt mũi kém, lại bị Mỹ bắt làm Tổng Thống VNCH,
theo điều kiện của Bắc Việt. Nguyên thủ như vậy, nên miền Nam bị mất là
cái chắc, dù sớm hay muộn cũng thế thôi. Sau đó lại màn thay ngựa cuối cùng, để
Dương Văn Minh danh chánh ngôn thuận, kết thúc cuộc chiến từ đầu cũng do VC sắp
đặt và cuối cùng cũng do VC quyết định, qua miệng kẻ cầm quyền của miền Nam, dù
chỉ có hai ngày làm vua ngắn ngủi.
VNCH đang lúc lâm nguy vì thù trong
giặc ngoài. Cả triệu quân, công, cán cảnh.. lúc đó đang xã thân, dùng xác người
thay súng đạn Mỹ, làm công sự cản xe tăng hứng đạn pháo của cọng sản khắp mọi
nẻo đường dẫn vào thủ đô, thì cũng lúc đó những sâu bọ nơi hậu trường chính
trị, hăng say toắc mồm, áo thụng vái lạy ông, bày ra những trò hề tác tệ, để tự
phong quan gắn chức, làm nản chí những người lính đang xả thân nơi chiến trường,
bắt QLVNCH phải tan hàng rã ngũ trong tức tủi oan khiên và cuối cùng làm cho cả
nước phải sống đọa đày thương đau, trong cùm gông xã nghĩa từ ấy cho tới bây
giờ, qua 33 năm đoạn trường máu lệ,vẫn không hề thay đổi, vẫn không có tự do dù
chút tự do để nói lời chân thật trong đáy hồn mình.
Nhưng dù gặp khó khăn nguy hiểm, các
lộ quân còn lại của VNCH vẫn cản nổi quân xâm lăng Bắc Việt, trên khắp các
tuyến đường dẫn vào Sài Gòn. Chính hành động phi thường này, nên dù VNCH không
còn nửa, vẫn được thế giới ngợi khen và kính phục, như Peter Kohn đã viết trên
tờ the Wall Street Journal :’Quân đội VNCH là một quân đội can đảm và chiến đấu
lão luyện. Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi trên nhiều địa danh, mà người Mỹ hoặc
thế giới biết hay chưa biết tới. Quân đội ấy đã hào hùng ngạo nghễ với địch ,
qua hàng ngàn chiến trận, tiền đồn hẻo lánh hiu hắt. Quân đội ấy không được
trang bị như quân Mỹ hay bộ đội cọng sản Hà Nội. Thế nhưng từ khi Hoa Kỳ rút
quân về nước hay lúc đầu quân Mỹ chưa vào VN, vẫn hiên ngang chiến đấu trong
suốt 20 năm khói lửa, gần như bảo toàn trọn lãnh thổ của cha ông, từ phía bên
này vỹ tuyến 17 cho tới Cà Mâu, đến khi bị Việt gian đâm sau lưng, VC bắn trước
mặt, mới đành để mất non sông vào tay đệ tam cọng sản quốc tế’.
Cũng vì phải chiến đấu khắp các mặt
trận, nên đã có hằng trăm ngàn người lính phải chết, hằng triệu thương phế
binh, cô nhi quả phụ. Tới giờ phút cuối cùng, đã biết nước sắp mất, chết chỉ
thêm uổng mạng nhưng họ vẫn hiên ngang chiến đấu tại Khánh Dương, Phan Rang,
Phan Thiết, Xuân Lộc, Long An, Tây Ninh, Củ Chi , Biên Hòa và Sài Gòn. Tất cả đều
là những chiến tích để đời và lưu danh thiên cổ trong dòng sử Việt
Cuối cùng trong giờ thứ 25, QLVNCH đã
xử sự một cách mã thượng anh hùng. Thay vì dùng vũ lực bắt trọn Toà Ðại Sứ và Cơ
Quan Dao làm con tin, như Iran đã từng làm, để gây áp lực, bắt Hoa Kỳ phải giữ
lời hứa, dùng B52 đuổi bộ đội cọng sản rúr về phía bên kia vỹ tuyến 17 như Hiệp
định Geneve năm 1954 và 1973 qui định. Nhưng họ vẫn không làm như vậy, vẫn tôn
trọng kỷ luật quân đội, biểu lộ nét hào hùng văn hiến ngàn đời của một dân tộc
có văn minh, văn hóa VN, khi cố gắng phòng thủ và tiếp tục chiến đấu khắp nơi,
giúp cho Mỹ và những đồng đội, cấp chỉ huy hèn nhát, bỏ chạy khỏi nước một cách
an toàn, trước khi giặc Hồ vào Sài Gòn trưa 30-4-1975. Họ đáng được ca tụng và
kính phục ‘.
Chính hành động phi thường và thái độ
mã thượng này mà sau tháng 5-1975, chính phủ và quốc hội Hoa Kỳ mới cho phép người
Việt vào đất Mỹ, để phần nào trả lại chút Ân Tình cho QLVNCH. Chúng ta đừng
quên điều này dù muốn hay không muốn chấp nhận sự thật .
+ QLVNCH tử chiến trong giờ thứ 25 :
Sau khi được 400.000 quân Trung Cộng
phòng thủ đất Bắc, cọng sản Hà Nội xua toàn bộ quân đội xâm lăng miền Nam. Mai mỉa
nhất là lúc mà Dương Văn Minh cùng nội các mới, hy vọng được hòa hợp hòa giải
với VC, để chúng chia chức nhín cho một chút quyền trong cái chính phủ liên hiệp,
nếu có cũng chỉ là thứ bù nhìn, như MTGPMN được dựng lên, từ 12-1960 tới tháng
5-1975. Ðây chính là thời điểm , mà Bắc Bộ Phủ gọi là giờ G, ngày N, để tổng
tấn công chiếm Sài Gòn. Ðó là lúc nửa đêm 29-4-1975, thời gian Hà Nội qui định cho tất
cả các cánh quân, từ năm hướng tiến vào thủ đô. Ðây cũng là thời gian qui định
cho bọn đặc công, biệt động nằm vùng, chui ra khỏi các hang ổ để gây hỗn loạn
trong thành phố, chỉ đường, bắt tay cho bộ đội miền Bắc.
Tại Mặt Trận Miền Ðông Nam Phần, từ
sau ngày SÐ18BB và Lữ Ðoàn 1 Dù, rút lui an toàn về Bà Rịa, Quân Ðoàn III đã
tái phối trí lại các phòng tuyến mới vào những ngày cuối tháng 4-1975.
Vì SD18BB của Thiếu Tướng Lê Minh
Ðảo bị thiệt hại nặng nề sau 12 ngày ác chiến với cọng sản Bắc Việt. Ngoài
Trung Ðoàn 48/18 của Trung Tá Công, tương đối quân số còn nguyên vẹn, các Trung
Ðoàn 52/18 của Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng, tại Mặt Trận Ngã Ba Dầu Giây-Túc Trưng,
thiệt hại hơn 80% quân số và Trung Ðoàn 43/18 của Ðại Tá Lê Xuân Hiếu, tử thủ
trong thị xã Xuân Lộc, thiệt hại trên 30% nhất là Tiểu Ðoàn 2/43/18 của Thiếu
Tá Nguyễn Hữu Chế, là đơn vị cuối cùng rời Long Khánh. Do đó sau khi chỉnh đốn
lại đơn vi, SD18BB được giao trách nhiệm phòng thủ tuyến phía đông Sài Gòn, từ
kho đan thành Tuy Hạ chạy dài tới Tổng Kho Long Bình. Riêng BCH Hành quân của
SD18BB đặt tại căn cứ Hải Quân Cát Lái. Phòng tuyến của SD 18BB tiếp giáp với
vị trí phòng thủ của Lực lượng Nhảy Dù, Trường Thiết Giáp và Bộ Binh Thủ Ðức.
Tỉnh Phước Tuy và Ðặc Khu Vũng Tàu,
trong đó có quốc lộ 15 được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, SD3BB phối họp với các lực lượng
DPQ + NQ của Phước Tuy và Bình Thuận di tản từ miền Trung vào. Thiếu Tướng Bùi
Thế Lân, tư lệnh SDTQLC kiêm Tổng trấn đặc khu Vũng Tàu. Riêng SD3BB từ vùng1CT
di tản vào, quân số kể luôn SD1BB cộng được hơn 1000 người, lập thành 2 tiểu đoàn
thuộc Trung Ðoàn 2/3 và 56/3 vẫn do Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh.
SD3BB được tăng cường thêm Chi đoàn 2/15 Thiết Kỵ và Lữ Ðoàn 1 Dù, bảo vệ QL15,
thị xã Bà Rịa-Vũng Tàu.
Tỉnh Biên Hòa và phi trường do Lực lượng
III xung kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng phái thêm 2 Lữ đoàn
147 và 258 TQLC phòng thủ. Từ ngày 28-4-1975, để bảo vệ thành phố Biên Hòa,
Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù bố trí trong phi trường giữ mặt bắc Bộ tư Lệnh QDIII.
Một TD/TQLC thuộc Lữ Ðoàn 2 bảo vệ BTL.QDIII, các thành phần còn lại của Lữ
Ðoàn, phòng thủ mặt nam BTL. Quân Ðoàn. Lữ Ðoàn Nhảy Dù giữ hai Cầu Mới và Sắt
cùng các nút chận vào thị xã. Riêng Lực Lượng III Xung kích gồm Chiến Ðoàn
315phòng thủ từ Ngã ba Hố Nai đến Ngã tư Lò Than. Chiến đoàn 322 giữ từ Ngã tư
Lò Than tới cổng phi trường Biên Hòa và Chiến đoàn 318 từ phi trường tới Cầu
Mới.
Về phía bắc Sài Gòn có SD25BB của
Chuẩn tướng Lý Tòng Bá được tăng phái thêm hai Liên Ðoàn 8 và 9 Biệt Ðộng Quân,
trách nhiệm Tây Ninh và Củ Chi-Hậu Nghĩa. Mặt trận phiá bắc tỉnh Bình Dương là
trách nhiệm của SD5BB của Chuẩn Tướng Lê NguyênVỹ, kể cả Trung Ðoàn 8/5 của Ðại
Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng phái cho Lực Lượng III Xung kích của Tướng Khôi ở Hưng
Lộc, vừa được trả về. Phòng tuyến phía nam Sài Gòn là Long An, có SD22BB ở Bình
Ðịnh di tản tới, phối hợp với Lực Lượng 99 Tuần Thám Ngăn Chận của Hải Quân và
DPQ+NQ.Long An, từ lâu nổi tiếng là kiêu dũng thiện chiến, không kém gì quân
chủ lực. Như vậy trừ ba SD7,9 và 21BB của QDIV phải bảo vệ lãnh thổ của các
tỉnh thuộc Vùng 4/CT. Phía VNCH chỉ còn lại : sáu Sư Ðoàn gồm SD5,18,22,25 bô
binh + Hai Lữ Ðoàn 1 và 4 Nhảy Dù + Sư đoàn TQLC + Lực Lượng III Xung Kích
+Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù +4 LiênÐoàn BDQ + DPQ và NQ + 625 chiến xa đủ
loại và 400 pháo, tất cả chừng 240.000 người, để bảo vệ Sài Gòn. Trong khi đó
VC tung vào 5 lộ quân với quân số trên 280.000, gồm 15 Sư đoàn BB + 5 Lữ đoàn
biệt lập + 4 Lữ đoàn thiết giáp + 6 Trung Ðoàn Ðặc công.Tất cả được trang bị đầy
đủ với các vũ khí bom đạn hiện đại, không thua gì quân đội Mỹ.
Từ chiều ngày 29-4-1975, hai Bộ Tư
Lệnh Không quân và Hải quân VNCH đã di tản chiến thuật, kể cả Tướng Nguyễn Văn
Toàn (Tư lệnh QDIII) và Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT từ chức. Do đó, tổng
thống mới nhậm chức là Dương Văn Minh, cử Tướng Vĩnh Lộc lên thế chức Tổng Tham
Mưu Trưởng. Ðến tối cùng ngày, Tướng Lộc ra lệnh cho SD18BB về bố trí từ Nghĩa
Trang Quân Ðội Biên Hoà, tới Thủ Ðức.
Từ đầu tháng 4-1975, trường Bộ Binh
Thủ Ðức đã dời về Long Thành-Biên Hòa, đông nghẹt sinh viên các khóa, trong đó
có hai quân trường từ Ðà Lạt di chuyển về là Trường Võ Bị và Chiến Tranh Chính
Trị. Lúc 8 giờ tối ngày 27-4-1975, trường Bộ Binh lại có lệnh di chuyển trở về
trường củ ở Thủ Ðức. Tới 8 giờ sáng ngày 30-4-1975, có bốn T54 của cọng sản Bắc
Việt từ Xa Lộ Biên Hòa, tấn công trường, bị Pháo Binh 105 bán trực xạ cháy 3
chiếc tại chỗ. Nhưng chiếc còn lại đã nhập dược vào trung tâm, sau khi thoát được
các tầm đạn M72 của sinh viên, bắn tử thượng Trung Tá Ông văn Tuyên, Trung sĩ I
Nhân và 5 sinh viên, cùng 10 người bị thương, trong số này có Trung Tá Vương Bá
Thuần. Cuối cùng chiếc tăng trên bò ra khỏi trường và bi M72 bắn đứt xích, nằm
tại Niệm Phật Ðường cạnh Chợ Nhỏ, nhưng vẫn tác xạ dữ dội vào trường. Giờ chót,
có hai sinh viên Thủ Ðức, chưa được gắn Alpha, tình nguyện mang lựu đạn lân
tinh loại xuyên phá, mới tiêu diệt được chiếc T54 này.
Cũng tại Long Bình vào sáng ngày 29-4-1975, Tiểu đoàn 43
thuộc Liên Ðoàn 4 BDQ, do Thiếu Tá Xẻn làm TDT, được lệnh của Biệt Khu Thủ Ðô,tăng
phái phòng thủ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Từ 2 giờ 30 chiều cùng ngày,
VC đã về tới Trung Chánh-Hóc Môn, sau khi chiếm được Căn cứ Ðồng Dù của SD25BB,
căn cứ Pháo binh Lòng Tảo và đánh tan Trung Ðoàn 46/25BB trên QL số 1 từ Củ Chi
về Tân Phú Trung. Lúc đó Trường Quân Vận đối diện với TTHL Quang Trung cũng đã
mất, nên Chiến xa của VC bắt đầu tấn công trung tâm, nhưng không ngờ trong đó
không phải chỉ có tân binh quân dịch, mà còn sự hiện diện của một tiểu đoàn BDQ
vơí hơn 500 tay súng, suốt cuộc chiến, đã cùng với các TD41,42,44 là những cọp
ba đầu rằn tung hoành như chỗ không người trong mật khu sình lầy của Vùng 4
Chiến thuật. Tối 29-4-1975, qua hệ thống truyền tin của TD43BDQ, mới biệt BTL
Biệt Khu Thủ Ðô đã bỏ chạy, chỉ còn các sĩ quan cấp uý ở lại nhưng BCH.Biệt
Ðộng Quân và Tướng Ðổ Kế Giai vẫn còn nguyên vẹn tại Trại Tô Hiến Thành. Bên
trong chiến hào của TTHL Quang Trung, cũng như suốt đoạn đường từ ngã ba Trung
Chánh- Hóc Môn, về tới Ngã tư Bảy Hiền, các đơn vị kiệt hiệt nhất của QLVNCH như
BDQ, Biệt Cách Dù và Nhảy Dù đang đợi chờ một trận đánh cuối cùng dũng liệt như
SD18BB, LD1ND,TD82BDQ và DPQ Long Khánh, tại Xuân Lộc, thì trưa 30-4-1975 bị Dương
Văn Minh ban lệnh buông súng rã ngũ, một cách tức tủi đoạn trường.
5 giờ chiều ngày 29-4-1975, các mặt trận, lính vẫn
chiến đấu không ngừng nghĩ. Tại Biên Hòa, các đơn vị TQLC, Biệt Cách Dù và các
Chiến Ðoàn thuộc Lực Lượng III Xung Kích, đã ngăn chống VC tại các phòng tuyến
vô cùng đẫm máu kinh hoàng.
Tại BCH.Thiết Giáp trong trại Phù
Ðổng, cũng là nơi đặt tạm BTL.QDIII từ Biên Hòa di tản về, cũng như Trung Tâm
Hành Quân /BTTM/QLVNCH gần như không còn đại bàng để nhận tin chiến trường và
quyết định lệnh lạc. Cho tới 22 giờ 30 đêm 29-4-1975, Phế tướng Nguyễn Hữu Có,
người vào năm 1965 bị Nguyễn Cao Kỳ lột chức và bắt ở lại Hồng Kông không cho
về nước, cách đó vài giờ, vừa được TT.Dương Văn Minh gắn cho cái lon Trung Tướng,
lên máy ra lệnh cho SD18BB của Thiếu Tướng Ðảo và LL3XK của Tướng Khôi, cố gắng
giữ yên phòng tuyến trong đêm 29-4-1975, để rạng sáng ngày 30-4-1975 sẽ có hòa
bình vì cọng sản Bắc Việt đã chịu hòa họp hoà giải hòa chung máu lệ với TT.
Minh và lực lượng thứ ba đối lập.
Nhưng 23 giờ 45 đêm 29-4-1975, Bắc
Việt đã không hòa hợp mà lại tấn công dữ dội bằng bộ binh và chiến xa khắp các
phòng tuyến tại Biên Hòa. Hai bên gần như cận chiến với khoảng cách chừng
10-15m, nhất là tại phòng tuyến do quân Dù, TQLC và Chiến Ðoàn 315 của Trung Tá
Ðổ Ðức Thảo có chiếnxa M48 tham chiến.
2 giờ sáng ngày 30-4-1975, phòng
tuyến SD18BB của Tướng Ðảo tại Long Bình bị VC tràn ngập, quân ta từ Nghĩa
Trang Quân Ðội Biên Hòa phải rút về Thủ Ðức.
Riêng Chiến Ðoàn 3, thuộc Liên Ðoàn
81 Biệt Cách Nhảy Dù của Thiếu Tá Phạm Châu Tài, quân số hơn 1000 người, từ
Biên Hòa được điều động về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu từ 5 giờ 30 ngày 26-4-1975.
Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn đóng tại
Building số 1, đối diện
vối Trại Võ Tánh. Các Biệt đội 811 của Ðại Uý Lâm đóng trong Lục Quân Công Xưởng.
Biệt đội 812 của Ðại Uý Ánh đóng ở giữa cổng sau TTM và Tổng Y Viện Cộng Hòa.
Biệt đội 813 ủa Ðại Uý Thạch rải quân từ Ngã Tư Bảy Hiền tới Trại Phi Long của
Nhảy Dù và Biệt Ðội 815 của Ðại Uý Lợi là lực lượng trừ bị của Chiến Ðoàn, đóng
trước cổng Bộ TTM.
Từ ngày 28-4-1975, các đại bàng ở Bộ TTM, Bộ Tư Lệnh
QD3, Quân Khu Thủ Ðô.. từ Ðại Tướng trở xuống đã di tản chiến thuật, nên coi như
không còn ai ra lệnh cho thuộc cấp dưới quyền. Về việc tên phi công nội tuyến
Nguyễn Thành Trung, dẫn đoàn máy bay của KQ.VNCH bỏ lại ở Phù Cát, Phan Rang
vào oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, không bị Chiến Ðoàn 3 Biệt Cách Dù bắn
hạ, vì đã tưởng là phe ta làm đảo chánh.
Chiều ngày 29-4-1975, tướng Vĩnh Lộc
được TT.Minh cử làm Tổng Tham mưu trưởng thay Cao Văn Viên, còn Nguyễn Hữu Có
thì gắn ba sao, xưng là Tổng Tham Mưu Phó. Ngoài ra còn có VC nằm vùng Nguyễn
Hữu Hạnh, cũng được Dương Văn Minh gắn sao tướng, dù Có và Hạnh đã bị giải ngũ
từ lâu. Mới đây VC lại cho các tên hề Có, Hạnh và Triệu Quốc Mạnh làm cuộc
phỏng vấn cuội tại Sài Gòn, do bọn Việt gian hải ngoại từ Canada về thực hiện,
rồi đem phát trên đài để lừa bịp người Việt trong và ngoài nước, một cách trơ
trẽn vì câu chuyện lãng xẹt của đám sâu bọ, từng làm xấu hổ danh dự và thể
thống của người lính VNCH năm nào.
Từ 6 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, VC pháo kích bừa
bãi hỏa tiễn 122 ly vào khu dân cư đông đúc, có mấy trái rớt xuống đường Võ Di
Nguy, làm nhiều đồng bào thương vong. Các trái khác rơi vào vòng thành Bộ TTM.
Trên các đường phố dẫn tới Ðại Lộ Chí Lăng, chiến xa Bắc Việt đã xuất hiện, bắn
vào Bệnh Viện Vì Dân tại Ngã Tư Bảy Hiền nhưng bị Biệt Cách Dù, dùng súng đại
bác M90 ly không giựt, chỉ trong vòng 15 phút, bắn cháy 6 chiếc T54, PT76 cùng
với một khẩu pháo phòng không có bánh xe kéo, với nhiều đặc công bị chết, nằm
rải rác từ Bảy Hiền tới Bộ TTM.
9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, TT Dương
Văn Minh ra lệnh cho Chiến Ðoàn 3 Biệt Cách Dù, lúc đó còn đang tử chiến với
VC, phải ngưng đánh nhau, để chờ đầu hàng. Tuy nhiên nhiều toán không tuân
lệnh, vẫn tiếp tục bắn vào các đoàn xe của VC, sau đó tự tử tập thể bằng lựu đạn
vào giờ thứ 25. Riêng 2 Chiến Ðoàn Biệt Cách Dù do Ðại Tá Phan Văn Huấn chỉ
huy, sáng ngày 30-4-1975, từ Suối Máu rút về Nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa, khi
nghe lệnh Dương Văn Minh bắt đầu hàng, nên cũng rã ngũ tại đây.
Khôi hài nhất là lúc mà người lính đang
nối tiếp nhau ngã gục khắp các chiến trường, để bảo vệ cho thủ đô Sài Gòn và
cuộc di tản bằng máy bay trực thăng của Mỹ, trên các mái nhà tại Cơ quan Dao và
Tòa Ðại Sứ, thì gần hết tướng lãnh bỏ chạy trước. Còn Chính phủ Dương Văn Minh
vừa mới nhậm chức, thì đã sai Nguyễn Văn Huyền vào Trại David, để thương thuyết
với giặc xin đầu hàng, nhưng bị Võ Ðông Giang làm nhục và bắt giam luôn bọn
Việt Gian Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng, từ chiều ngày 29-4-1975,
khi vào làm sứ giả hòa bình.
Trong cuộc di tản ra khỏi nước,
ngoài người Mỹ còn có đủ mọi thành phần lúc đó, từ quan tướng, trí thức, thầy
cha, nhà báo, ca sĩ, mẹ mìn, đĩ điếm, gian thương Ba Tàu.. Nhiều tên vô
liêm sỉ còn đem cả vợ con mình dâng cho
Mỹ đen lẫn trắng, để đổi lấy chổ chạy trên máy bay ra khỏi nước. Loại người
này, giờ cũng chính là những tên đầu tiên, trở về nguồn khi đi hết biển, để làm
ăn hợp tác với VC. Tất cả đạp lên đầu lẫn nhau để kiếm một chỗ chạy ra khỏi nước
trốn cọng sản. Lúc đó không còn ai thèm nghỉ tới tư cách, thể diện, trinh tiết
hay gì gì nửa. Kỳ cục nhất là những chuyên viên đối lâp, phản chiến, phá hoại
và nói xấu chính phủ VNCH, giờ phút cuối lại là những thành phần hăng hái chạy
trốn nhiều và trước hết. Ba mươi năm sau mới chợt hiểu, thì ra họ chỉ có thể
chũi người quốc gia mà thôi. Với cọng sản, dù chỉ mới léng phéng mồm miệng,
không bị roi đòn thoi đấm, hay ăn mã tấu, vào tù, bị cột đá neo sông, mới là
chuyện lạ. Bởi vậy phải nhanh chân chạy trước ra ngoại quốc, để được tiếp tục đối
lập với người Việt tị nạn, lần nữa làm tôi mọi cho cọng sản, dù rằng đã vì
chúng mà phải một lần chuốc lấy sự nhục nhã năm nào.
Sài Gòn náo loạn khắp nơi, dân chúng
ùn ùn kéo tới các ngân hàng rút tiền ký thác. Các Tòa Ðại Sứ lần lượt đóng cửa,
cũng như nhiều Hãng Máy bay ngưng hoạt động vì sợ họa lây. Hòn Ngọc Viễn Ðông
như đã chết vào những ngày gần cuối tháng 4-1975
Thế rồi 9 giờ 30 sáng ngày
30-4-1975, trong lúc mọi người đang mê tỉnh trong cơn hấp hối của đất nước, thì
Dương Văn Minh vì nghe lời xúi dại của bọn thân Cộng như Lý Quý Chung, Nguyễn
Hữu Thái, Nguyễn Hữu Hạnh, nên lợi dụng chức vụ tổng thống tổng tư lệnh quân đội,
ép QLVNCH buông súng rã ngủ, trong khi tất cả còn đang tử chiến với giặc ngoài
biên đình.
Hỡi ơi VN chỉ vì một tên hám danh
lừng khừng, mà cả một dân tộc chịu cảnh lầm than nô lệ từ ba mươi ba năm qua và
không biết tới bao giờ mới thoát khỏi xích xiềng tù ngục. Tất cả đều là ý trời,
là số mệnh, là hậu quả tất yếu của một hậu phương miền Nam vô tình bạc nghĩa,
chỉ biết hưởng thụ cá nhân, nên chẳng bao giờ chịu chia xẻ nỗi đau cùng cực của
người lính, đã vì họ mà vong thân hay tàn phế nữa đời.
Nhưng rồi giặc chiếm được nước, tất
cả dân lính cùng chịu cảnh tan tác phân ly không chừa hay bỏ sót một thành phần
nào, kể cả những người một thời theo giặc. Lính bỏ súng vào tù, dân không còn được
lính bảo vệ, nên bị đe dọa mạng sống và mất hết tự do kể cả quyền sống làm người
dân thường bên vệ đường.
Trưa 30-4-1975, bộ đội Bắc Việt hồ hởi tiến vào Sài
Gòn. Người người cùng cười dù đang thúi ruột, vì lần đầu tiên được chạm mặt với
rợ Hồ, lù khù, ngô nghê. Nhiều chàng nàng cục mịch trong bộ đồ trận, với nón
cối, dép râu, y chang những con dã nhân trong sở thú. Vậy mà suốt ba mươi ba năm
qua, tháng tư nào cũng khoe là mùa xuân đại thắng, hay huênh hoang nhận đại là
quân đội nhân dân anh hùng.
Phút cuối vẫn còn một số đơn vị Dù,
TQLC, BDQ, Biệt Cách Dù.. không thèm nghe lệnh của Dương Văn Minh. Họ chận đánh
cọng sản Bắc Việt, trên các đường phố Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Tại Ðại lộ Thống
Nhất, lính Dù và BDQ bắn M72 vào xe tâng VC khi chúng tiến vào chiếm Dinh Ðộc
Lập.
Ðúng 12 giờ 30 trưa ngày 30-4-1975,
lá cờ vàng ba sọc đỏ của quốc dân VN treo trên nóc Dinh Tổng Thống VNCH bị giặc
tước bỏ. Dương văn Minh và toàn bộ nội các có mặt tại dinh, bị bộ đội miền bắc,
nhốt giữ tại chỗ, dù từ lớn tới nhỏ, đã sùi bọt mép nịnh bợ ca tụng chúng. Nhục
nhã muôn đời là cả đám bị thu hình trước ống kính của hằng trăm nhà báo ngoại
quốc. Cũng vào giờ phút mà Dương văn Minh bị còng tay gục đầu, thì tại Bộ Quốc
Phòng, Trung Tá Nguyễn văn Cung, thuộc SD18BB khi nghe tin đầu hàng đã tự sát.
Nhiều lính Dù cũng dùng súng M16 kết liễu đời trai trước Tổng Cục Chiến Tranh
Chính trị. Trong trại Hoàng Hoa Thám, một toán lính Nhảy Dù, nắm tay làm thành
vòng tròn, rồi mở chốt lựu đạn để cùng chết tập thể. Một Ðại Úy Cảnh Sát tự bắn
vào đầu chết trước Quốc Hội. Trong khi đó các tướng lãnh Phạm văn Phú, Nguyễn
Khoa Nam,
Lê văn Hưng, Lê nguyên Vỷ, Phạm Văn Hai.. cũng quyên sinh khi thành mất. Ðó là
những hình ảnh tuyệt vời, ngàn đời khắc sâu trong tâm khảm của người Việt và
những trang sử bất diệt của dân tộc.
Sài Gòn đã chết từ đó, dân chúng
thành đô dửng dưng trước chủ mới. Cùng lúc, có nhiều con khỉ trong sở thú, vừa được
sổ chuồng, cổ quàng khăn đỏ, tay phất cờ máu, trang bị súng đạn lượm được của
lính bõ bên vệ đường, chễm chệ trên các xe quân đội, tung tăng múa rối khắp đường
phố, cổ võ, làm oai, hoan hô, đã đảo một cách lố bịch.
Trưa đó, 125 nhà báo ngoại quốc còn
nán lại, đổ xô tới chiêm ngưỡng những anh hùng cách mạng, mà từ năm 1960-1975,
họ đã không ngớt xưng tụng và tô son đánh phấn khắp thế giới không tiếc lời. Nhưng
sự thật đã làm té ngửa các trái tim thú vật, khi biết được tất cả chỉ là sự
tuyên truyền lừa bịp của miệng lưỡi cọng sản, mục đích để cho thế giới có thành
kiến không tốt và ghét bỏ VNCH. Có như vậy họ mới bỉ ổi ca tụng một chiều cuộc
xâm lăng miền Nam
của Bắc Việt, mà không cần phải tìm hiểu sự thật.
Từ đó, thế giới mới bắt đầu tỉnh ngộ
và chịu viết về một sự thật mà họ đã cố tình dấu diếm : ‘ Không có ai là người
miền nam, tất cả đều là bộ đội miền bắc, trong tập đoàn đệ tam cọng sản quốc
tế, do Liên Xô-Trung Cộng cầm đầu ‘.Riêng Norman Podhreta, khi về nước đã viết
trên tờ Los Angeles times :’ Nam VN bị mất, không phải vì cấu xé nội bộ, cũng
không do nhiệt thành quốc gia hay vì chính phủ không tranh thủ được lòng dân.
Sự thật tất cả do sự xâm lăng của Bắc Việt, qua hậu thuận của khối cọng sản đệ
tam quốc tế, trong đó có đảng cọng sản Hoa Kỳ .’ Còn nữ ký giả Ý từng ca tụng
Hồ Chí Minh, tên Tiziano Tersani thì viết ‘ Binh sĩ tấn công vào Sài Gòn đều là
bộ đội Bắc Việt. Sự phân biệt rất dễ dàng nhờ hình vóc và tiếng nói, người miền
bắc hoàn toàn khác lạ với VC miền nam. ‘.Một nữ ký giả Pháp, Brigitte Friang
thì mai mỉa hơn ‘ Trưa 30-4-1975,
bộ đội Bắc Việt vào Sai Gòn. Ðây là một thành phố chết, chỉ có 125 nhà báo
ngoại quốc và hơn một chục đứa con nít nam nữ, trương cờ máu đế chào đón chúng.
Ba triệu dân miền Nam
nhìn chúng bằng thái độ lãnh đạm. Vậy mà Trần văn Trà, Nguyễn Thị Bình đi đâu
cũng tuyên bố rằng, chính nhân dân miền nam đã tổng nổi dậy, để lật đổ chính
phủ VNCH’.
Nhưng cay cú nhất, phải là lời viết
của Jean Larteguy, một nhà báo Pháp từng cuồng nhiệt ca tụng Hồ Chí Minh và VC
như thần thánh trong nhiều năm qua . Ông viết ‘Sài Gòn mất bởi đạo quân Bắc
Việt. Nhìn đoàn quân chiến thắng đang hồ hởi trên những chiếc tăng T54 hay
PT46, treo cờ máu , đâu có khác gì cảnh quân Sô Viết đàn áp, xâm lăng Hung Gia
Lợi, Tiệp Khắc, Ba Lan tai Ðông Âu năm nào .’
Ba mươi ba năm qua, hầu hết đồng bào
VN trong cũng như ngoài nước tan nát cửa nhà sau cuộc đổi đời không bao giờ dám
nghĩ là sẽ có. Nên cứ mỗi lần tháng tư quốc hận tới, cho dù ai chăng nửa, đại đa
số người dân sống thầm lặng bên vê đường thời gian hay thiểu số dấn thân trên
con đường đấu tranh quang phục đất nước, đều mang chung tâm trang bi thương,
tức tưởi, ngậm ngùi.
Tất cả đều là sự thật vì mọi bí mật
của cuộc chiến đã được các phe phái, chính người trong cuộc hay các sử gia tìm
hiểu, như giáo sư Morris ‘ Cọng sản Hà Nội đã thắng cuộc xâm lăng miền nam, nhờ
tuyên truyền, đẻ và thổi phồng bịa đặt các huyền thoại chính trị mà hầu hết, đều
là chuyện trên trời dưới biển. Có như vậy, VC mới dụ dỗ và phỉnh gạt được,
nhiều trí thức khoa bảng nhà báo trong và ngoài nước. Nhờ thế suốt cuộc, chính
thành phần này đã góp phần chiến thắng cho Hà Nội, không phải ở chiến trường,
mà là tại Paris, Luân Ðôn và Hoa Thịnh Ðốn. ‘
Ba mươi ba năm rồi, xin hãy trả lại
cho người lính trận miền nam những gì họ đã mất từ lâu, do những kẽ cứ hay tự xưng
mình là trí thức, đã cướp đoạt. Người lính VNCH không cần bất cứ ai phải vinh
danh, vì chính cái phẩm cách tuyệt luân phi thường của lính, đã có một vị trí
xứng đáng trong lòng dân tộc
Bổng ao ước sao cho đất nước sớm có
tự do cuộc đời trở lại như thuở nào, để dân-lính lại thỏa tình cá nước, lính từ
dân mà có và dân sống được nhờ sự bảo vệ thần thánh và chân thành của lính, điển
hình như các cuộc di tản khỏi vùng chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968, mùa hè đỏ lửa
1972, cuộc di tản tại Bình Thuận, Xuân Lộc và những ngày Sài Gòn hấp hối, cuối
tháng 4-1975.
‘ Ta về cúi mặt đầu
sương điểm
nghe nặng từ tâm
lượng đất trời
cám ơn hoa đã vì
ta nở
thế giới vui vì
mọi lẻ loi ‘
(Thơ Tô Thùy
Yên)
Ba mươi ba năm trước hay bây giờ, người
Mỹ cũng chỉ nghỉ đến quyền lợi của quốc gia mình mà thôi. Bởi vậy muốn đem quân
vào VN, người Mỹ phải giết một tổng thống dân cử của bản xứ. Rồi để rút quân an
toàn về nước, khi đã đạt xong mục đích chiến lược kinh tế của mình, Mỹ lại dùng
áp lực quân viện, để bắt buộc đồng minh của mình, ký vào một hiệp ước giả mạo
phi luân. Cuối cùng dùng nó để bán đứng quốc gia VN, chôn vùi tương lai của dân
tộc anh hùng trong vòng nô lệ của cọng sản đệ tam quốc tế., suốt thời gian từ đó
tới bây giờ. Tất cả đúng như lời Sir R.Thompson đã viết năm 1989 trong tác phẩm
‘ Make for the hill ‘, đại ý ông nói rằng, sự sống của miền nam VN đã bị bán đứng
, vì cảnh cấu xé của nước Mỹ. Riêng Nixon, nhân vật chính đã cùng Kissiger đạo
diễn tấn thảm kịch VN hôm nay, cũng đã viết những lời sám hối trong ‘ No More
VietNam ‘.Ông viết rằng, tôi đã nhìn thấy những vấn đề nan giãi của hiệp định
Ba Lê, nhất là sự thỏa hiệp, cho phép bộ đội Bắc Việt công khai ở lại và xâm lăng
miền Nam . Nhưng đau đớn nhất, có lẽ là lời phát biểu của M. Gauvin, nguyên Ủy
Viên Giám Sát Quốc Tế (ISCC) tại VN. Ngay khi thấy CS Hà Nội ngang nhiên xé bỏ
hiệp định ngưng bắn mà chúng vừa ký kết chưa ráo mực, tấn công xâm lăng VNCH,
bất chấp cả Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. Vì vậy ông đã viết bài đăng trên tờ The
Times số 59362 ngày 5-4-1975 rằng, sự thất bại của VNCH đã bắt nguồn từ hiệp định
Ba Lê, vì nó chẳng bao giờ phản ảnh được ý muốn và nguyện vọng của dân-nước
VNCH.
Một thập niên sau ngày Mỹ bỏ chạy
khỏi Sài Gòn trong đêm tối trên mái nhà, do những biến chuyển chính trị thế
giới, quan trọng nhất là sự hòa hoãn giữa Nga-Hoa cũng như sự liên hệ của Mỹ và
Trung Cộng có chiều hướng thay đổi. Ðể chiếm phần ưu tiên, người Mỹ lại tìm
cách mon men trở lại Ðông Dương lần thứ 4 vào tháng 4-1985. Bởi vậy một phái đoàn
cao cấp của Mỹ , do Richard Armitage cầm đầu, cùng với phụ tá ngoại trưởng Mỹ
là Paul Wolfon Witz (đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương ), lần đầu tới Hà Nội,
với chiêu bài ‘ tìm lính Mỹ mất tích và hài cốt quân Hoa Kỳ còn tại VN’. Sự
kiện giằng co úp mở giữa hai nước, cho tới khi phái đoàn nghiên cứu Mỹ do cưu
bộ trưởng quốc phòng Mc.Namara, sau khi thăm viếng Hoa Lục về, đã tiết lộ âm mưu
Trung Cộng đang có dã tâm muốn trở thành Á Châu và Thái Bình Dương. Vì thế Hoa
Kỳ mới mở phòng liên lạc giữa hai nước vào ngày 3-2-1995 và nối lại bang giao năm
1996. Một Ðại Sứ Mỹ tại Hà Nội được Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận sau 22 năm
chiến tranh chấm dứt, đã chính thức xác nhận sự bình thường hoá ngoại giao với
VC.
Ngày nay, lịch sử đã ngừng lại và
quay tròn đúng vào thời điểm củ trên đất nước tội nghiệp VN. Cả hai : Tài phiệt
Hoa Kỳ và cọng sản đệ tam quốc tế cũng đều vì quyền lợi riêng tư của mình, nên
muối mặt đổi thù thành bạn. Lần này không còn có chiêu bài VN là tiền đồn chống
cộng, nên người Mỹ đã công khai tới VN qua danh phận lái buôn lái súng. Hiện
trong cộng đảng cầm quyền đã manh nha hai phe theo Tàu, theo Mỹ. Nhưng dù VN có
theo phe nào chăng nửa, thì chắc chắn đất nước chúng ta cũng sẽ bị cuốn hút
theo vết xe lịch sử, khi Trung Cộng công khai gây nên thế chiến lần thứ 4 tại Á
Châu-Thái Bình Dương.
Ðọc và viết lịch sử, không phải để
khóc hận than thân, mà là lấy đó làm một kinh nghiệm để hành động cứu nước
trong thực tại và tương lai. Năm 1954, khi cọng sản đệ tam chiếm được miền bắc,
một số ít trí thức khoa bảng chạy vào làm trùm tại VNCH, nên họ chẳng hề biết
gì về kinh nghiệm sống chung với VC. Ngày 30-4-1975, khi VC chưa vào Sài Gòn, số trí
thức khoa bảng trên lại ù trốn chạy sang Mỹ hay ngoại quốc. Họ không hề biết
thế nào là sự đổi đời của phận người xuống hàng súc vật. Ở ngoại quốc, vì quá
tự do, nên vẫn chứng nào tật đó, coi sự hiểu biết của mình ngang hàng với lãnh
tụ, muốn ai cũng phải theo ý và đứng sau lưng mình. Họ vì không sống thật với
lịch sử nên chẳng bao giờ có kinh nghiệm lịch sử, vẫn ảo tưởng xây lâu đài và
chức phận trên cát biển, vẫn ngây thơ muốn hòa hợp hòa giải, với một đảng cướp
tàn bạo bất lương, qua bảy mươi năm chỉ lừa bịp lường giết đồng bào và ban nước
mình mà thôi. Tệ nhất là mình và gia đình lúc nào cũng thích sang giàu hạnh
phúc nơi thiên đường Âu Mỹ, mà mồm thì luôn xuí người khác, nếu đi hết biển,
thì phải trở về để làm nô lệ cho cọng sản .
Cũng may bọn người này không nhiều
và ngày nay hầu hết đều giống như những bình vội gìa nua, mà Phan Khôi từng ví
với bọn cán ngố miền bắc trong tác phẩm ‘ Trăm Hoa đua nở ‘, chỉ nổ trên giấy
hay nằm trơ trọi trong góc đời hiu quạnh về chiều..
Thảm thê cho thân phận nhược tiểu VN
, hết bị Tàu đô hộ tới Pháp, Nhật, Mỹ, Liên Xô.. rồi nay lại làm đầy tớ cho cả
thế giới, mà điển hình nhất là hình ảnh của những công nhân lao động và phụ nữ
bị bán ra nước ngoài. Không biết bao giờ đất nước và đồng bào mới thoát được
nổi thống hận trên, để cho con cháu có cơ hội ngẩn mặt nhìn trời, người Việt tị
nạn tha phương, trở về cố quốc, một cõi lòng mà ai cũng hoài vọng ao ước, khi
quê hương không còn bóng dáng lá cờ máu và đảng CSQT .
Ba mươi bảy năm trước, đầu tháng
4-1975 Cộng Sản Bắc Việt chiếm Phước Long, mở đầu cuộc xâm lăng VNCH, đưa cả nước
và dân tộc Việt vào tận cùng của địa ngục trần gian. Ðầu tháng 4-2012, cả nước đang
đắm chìm trong sự khủng hoảng kinh tế , chính trị.. đưa đồng bào cả
nước vào tận cùng cảnh nghèo đói thảm tuyệt, chưa từng thấy trong dòng Việt Sử.
Có điều chỉ có người dân nghèo mới nhận chịu nổi đau cùng khốn này, còn đảng và
cán bộ nhà nước thì làm gì bị ảnh hưởng tới thời cuộc đổi thay, vì vàng đô la vơ
vét mấy chục qua, xài phí biết bao giờ mới cạn ?
Xóm Cồn
Mùa Quốc Hận
2012
Mường Giang
No comments:
Post a Comment