Thiếu
Tá Phạm Văn Tư, vì muốn khẩn cấp cứu thương cho một tên thương binh VC
đã không dùng xe mà nhờ trực thăng SĐ chở y về Bệnh Viện 71 Dã Chiến Hoa
Kỳ; và cái kết khi Anh đi tù khổ sai sau ngày mất nước ...
Xin mời quý vị và quý bạn đọc một bài hồi ký của Thiếu Tá Vương Mộng Long:
=====
Thời Thế, Thiện, Ác và Con Người
Một
ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp-
Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám
bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết
thương.
Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng
Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện
Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã
được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn
mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện
về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ vào nhà thương khám lại. Tôi tiếp tục đi hành
quân, cho tới một ngày, thấy mủ màu đen bắt đầu nhỉ ra qua một lỗ rò
dưới nách, tôi mới đi tái khám.
Nào ngờ, kết quả lần khám này cho
thấy cái mảnh đạn súng cối ấy đã di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến
cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện
Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có
nhiều phương tiện chữa trị hơn.
Tôi về đơn vị trình bày việc này
cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn
trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào
Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển
tôi ra Hạm Đội 7.
Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II.
Bệnh
viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên
Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi,
sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay
chuyển ra Hạm Đội 7.
Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh.
Nơi
đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này
chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của
bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm
áp dịu dàng.
Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp
tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài
lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y
sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị
thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang
sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi
cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì
cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ.
Chợt
ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương. Hai điều
dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng
kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ
quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19
Võ Bị, tôi quen biết.
Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng.
Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư
- Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?
- Có phải người của “moa” đâu? Việt-Cộng đó!
- Việt-Cộng à?
-
Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt
được, đem về Camp Enari , giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ).
- Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?
-
“Moa” thấy đùi của anh ta bị quấn “garô” sưng to quá, sợ xảy ra nội
xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh
ta về đây.
Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi.
- Hắn thuộc đơn vị nào vậy?
- Tụi “moa” vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.
- Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?
-
Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng,
phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.
- Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.
- “Toa” biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi “Xuân ơi! Xuân ơi!” Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm?
Tôi gật đầu, tán đồng,
- Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn.
Một
năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh
tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt
vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất.
Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.
Tên tù
binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh
Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay
tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.
Khi tôi và tên tù
binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca
phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên
nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một
anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười
chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân
xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.
Chắc
việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt
khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành,
an ủi anh.
Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp.
Mỗi
khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái
khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã
tẩy trùng.
Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản.
Mỗi
bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới
xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết
thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.
Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau.
Trong
suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác
sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên:
” Ối! Ối! Đau! Đau quá!… Ư!… Ư!… ư… ư…”
Với
ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng,
không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng
lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm
sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành:
“Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”
Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch.
Bốn
viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó
xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh
lính Mỹ.
Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì.
Tôi
bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt
oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu
ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode
vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng
bàn tay.
Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên
thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra
tay.
Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ “X” xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi.
Sau
đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một
cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị
bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay
cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái
thau nhôm do cô y tá hứng.
Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.
Tôi
chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau
một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa
thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.
Khi lưỡi dao đục khoét lớp
da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo
trên xương nghe, “Két! Két! Cột! Cột!” thì điếng người. Ngay cả khi ở
ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế
này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người
lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương
sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của
tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm,
rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ
mặt tôi đã xám xịt như chàm?
Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi
biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm
chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam
Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí
nhớ của họ suốt đời.
Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương
binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay,
chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn
may mắn hơn những người này rất nhiều…
Rồi tôi hồi tưởng lại
truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân
Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà
đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên
vai ông ta ra.
Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan
Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng
phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!
Bỗng
nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào
cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội
oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm.
“Bục!” thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn.
Tôi
có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể? Đau thấu
xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra
quần mà không hay!
“Here it is!”
Ông bác sĩ vừa cười, vừa
giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu
đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái
sương sườn.
Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại
tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả
người, nằm im như cái xác.
Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất
hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều
dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh
tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm
thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ.
Với cái kẹp inox, ông khéo
léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y
tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa,
rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp
băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau.
Ông bác sĩ và
hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà
chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.
Những gì xảy ra
trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao
quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục
đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù
người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay
Quốc-Gia.
Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào.
Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà.
Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu:
“Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby…”
Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt.
Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.
Ra
tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau
bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây.
Bà để gói
thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm
một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người.
Giường tôi nằm
ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh
Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước
biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ
đã được chích Penicillin rồi.
Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ,
- Thank you!
Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói.
Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,
- Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!
- Không thèm! Nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng.
Tôi tỉnh như ruồi,
- Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.
- Thuốc của đế quốc, không thèm hút!
- Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.
Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho.
Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.
Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,
- Take it! It’s good for you!
Tôi chêm thêm,
- Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!
Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,
- May you tell him to take it?
Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm,
- Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy!
Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.
Buổi
tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y
tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho
anh ta nghe.
Tôi mồi một điếu Salem , đưa cho tên Việt-Cộng,
- Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ.
Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.
- Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị “tó” vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.
- Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.
- E mấy?
- Hăm Tám (28)
Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,
- Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó!
- Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.
- Cấp chức gì?
- Trung úy Đặc-Công.
- Quê ở đâu?
- Hải …”Rương”
- Làng nào?
- Hỏi gì mà lắm thế?
- Thôi không hỏi nữa!
Thấy
hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm
ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.
Đêm
vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy,
cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh
vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể
tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với
liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.
Hình như tên
tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì
gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc
hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không
vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài.
Mấy lần y mở miệng gọi tôi:
“Này! Này!”
Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya.
Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.
Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ,
- Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?
Tôi ngạc nhiên,
- Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?
Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà,
- Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn.
Tôi phì cười,
- Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!
Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm:
“Chẳng lẽ chính ủy nói sai?”
Tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi.
- Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi dò.
-
Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có
lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?
Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng.
Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc.
Ngày
kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy
Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện.
Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng,
- Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!
Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm.
Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn.
Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh,
- Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương…
Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái,
- Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra… các anh có độc ác đâu?
Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.
Tới
trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh, rồi rời
bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.
Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch.
“Don’t throw it away! Keep it for memory!” bà dặn dò.
Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng.
“Take care! Good bye! My son!” phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run.
Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: “Her son was a Ranger like you!”
Hai
ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho
tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà
đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.
Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.
Thế
là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với
người con trai của bà; anh ấy cũng là một “Ranger” như tôi. Bà cũng
giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng
thấy thương, như là thương con mình…
***
Cuối tháng Chín
năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho
Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8
B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi
lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư,
- Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?
-
Đạo lý làm người mà Long! “Moa” cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại,
hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta
thôi.
Tôi biểu đồng tình,
- Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu?
Tôi hỏi tiếp,
- Sau này anh có còn gặp lại y không?
- Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?
Tôi nhắc anh Tư,
- Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?
- “Moa” không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.
- Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam .
Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp,
- Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.
Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng,
- Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy!
Anh Tư gật gù,
- Có khi hai người là bà con cũng nên?
Tôi cũng gật gù theo,
-
Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác
còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là “cốt
nhục tương tàn”.
Anh Tư phụ họa,
- Những thằng địch đang
cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương
thôi. Mấy thằng Cộng-Sản “cội” đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội
mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” này. Tụi đó
mới chính là kẻ thù của chúng mình!
***
Đầu năm 1976,
nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy
Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ, thì tôi và anh Tư
đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại
Tam-Hiệp, Biên-Hòa.
Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi
chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở
trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao
động nặng.
Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của
anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban
chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác.
Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ.
Anh
Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời
sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu
đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau.
Chiều chiều, anh Tư và
anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương
Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng
Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn
24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới
tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ
Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng
Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là “Dũng Điếu Cày”.
Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ.
Buổi
trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã
một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp
tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên
con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi
nhau. Chúng vừa lên đạn “lách cách!” vừa gọi nhau ơi ới:
“Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!”
Cổng
chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa
lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác
nhìn nhau ngơ ngác.
Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm
súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào
từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng.
Kiểm
tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái
không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba,
nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng
sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai
biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện
này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là
tiếng người ta.
Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh.
Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố:
“Trưa
nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần
Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn
phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân.”
Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ?
Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19.
Một
anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì
nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương,
nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên
vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra.
Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm,
-
Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh
tay. Người bắn anh Tư là “Thượng Sĩ Buồn” đó! Anh Tư thiệt là số xui.
Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào
lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47
nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó
ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh
Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay
anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết.
Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1
chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng
thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K
54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong
cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy
nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó,
nó đuổi mấy anh ấy về lán.
Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:
- Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!
“Thượng Sĩ Buồn” là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3.
Tên
này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên
thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là “Thượng Sĩ
Buồn”.
Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai.
Tôi
nhớ hồi còn ở bên K 1, ông “Ba Gà Mổ”, tức ông lán trưởng Thiếu Tá
Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng “hiền
hết xẩy” nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại.
Ông “Ba Gà Mổ” có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm,
- Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau “ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy!
Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ “hiền hết xẩy” tôi cũng mừng.
Sáng
sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục
dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng
thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân, ân
cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ
tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu
cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung,
hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.
Có
một vị tù cải tạo nào đó đã “phịa” ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu
thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là
sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở
lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa
chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!
Chiều
hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh
trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng
biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng
viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh
ta.
Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh, núp đàng sau một khuôn mặt điển trai.
Cũng
từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không
còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như
hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?
Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước.
Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng.
Lúc đưa “rê” thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói,
-
Từ mai, “moa” bỏ thuốc! “Toa” cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay
vấn lấy mà hút! “Moa” chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này
rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả!
Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho
tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh
cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố “bỏ thuốc”, chỉ vì anh
phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại!
Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm!
Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do.
Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.
Tôi
cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa
Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp
chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau,
người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ
chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt.
Không có ai làm “garô” cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi,
hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn
anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái
ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị
thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:
“Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”
Ngày
xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch
quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới
chết.
Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.
Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,
- Lẹ lên! Lẹ lên!
Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc.
Cảnh
dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3,
cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có lính canh.
Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng.
Từ
căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống,
rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.
“Ối!…Ối! …Ối!…ôi!…ôi!…ôi!..ư…ư…ư..”
Tiếng
la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh
vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc
trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa
qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp
như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.
Tôi
nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba
lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi
đang gánh chịu giờ phút này.
Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá
Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với
cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến
cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc
tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền.
Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp.
Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, “Hừ!… Hừ!…hừ! …hừ!…”
Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:
“Hừ!… Hừ!…Hừ!..Hường…ơi!…Hư…ường …ơi!…ực!… ực!…ực!…”
Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, “Ư! Ử!…Ư! Ử!…ư! ử!…” nhỏ dần.
Mấy
chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên
và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước
tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.
Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa.
Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam.
Trong
khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám
giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa.
Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi.
Từ
khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư
lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn
tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.
Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng.
Cũng
đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng
như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu
ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17.
Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào… đứng một lúc, nghe ngóng … rồi đi vào.
Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương.
Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.
Tuần
sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong
connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn
trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là
Thiếu Tá Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá
Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào,
tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay
tại hàng rào, còn anh Thịnh thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh
Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi còn là đại
đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Thịnh lại là dân cùng
ngành Tình-Báo với anh Tư và anh Bé.
Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt.
Khoảng
hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của
những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, thì trời
đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp
theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc
thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau,
đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.
Hiện
tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của
Đấng Vô Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt động của con người dưới
trần gian.
Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam
Cộng-Hòa đã động tới lòng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ
hay không?
Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính
là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt dìu linh
hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.
Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện.
Những
anh tù đại diện có mặt trong phiên tòa, khi về trại, đã kể lại, việc
chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một ngày trước khi
có phiên tòa này, thì hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban
chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi.
Vậy là, chỉ trong một
thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả
giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.
Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay.
Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác.
Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.
Vương Mộng Long – K20 VBQGVN
Seattle, tháng 7 năm 2013
"Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả, cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về sau." President Ronald Reagan
Sunday, August 22, 2021
Monday, August 9, 2021
Tượng Đài Việt Mỹ ở Westminster, CA Qua cách nhìn của khoa Phong Thủy.
Thứ năm - 19/04/2012 05:55
Tượng Đài Việt Mỹ ở Westminster, CA Qua cách nhìn của khoa Phong Thủy.
Hải Quân Bắc Việt đã chủ động tấn công trước vào các giang đỉnh của lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ đang tuần tiểu ngoài khơi vịnh Bắc Việt ngày 31 tháng 7 năm 1964 . Đó chính là lý do cần thiết mà chính phủ Hoa Kỳ đã nhiều năm chờ đợi để đưa quân vào tham chiến tại chiến trường Việt nam. Ngày 4 tháng 8 năm 1964, TT Johnson đề nghị Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt, The Gulf of Tokin Resolution, lên án hành động tấn công của Bắc Việt, thì các chiến sĩ của Không Lực Hoa Kỳ cũng đã nhảy vào vòng chiến.
Ngay sau đó, tại chiến trường Bình Giả, các lực lượng Bộ Binh Hoa Kỳ cũng phải đụng độ lần đầu với một lực lượng cộng quân cấp Trung Đoàn, được trang bị đầy đủ các loại vũ khí tối tân nhất của khối cộng sản. Thế nhưng, chiến sử của Quân Đội Hoa Kỳ thì ghi trận Ấp Bắc, cạnh Mỹ Tho, vào những ngày cuối của năm 1963 mới là trận đầu tiên người lính trận của Hoa Kỳ chiến đấu cùng một chiến hào với các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Ngay trận đụng độ đầu tiên, cho dù cộng quân bỏ lại hơn 100 xác tại chiến trường, nhưng 3 chiến binh Hoa Kỳ và 65 chiến sĩ của Quân Lực VNCH cũng đã ngã xuống. Cuối năm 1965 quân đội Hoa Kỳ đã đổ 184.300 quân vào chiến trường Việt Nam. Tháng 12, 1966 chưa kể đến trên 30.000 chiến sĩ của các biệt đội thuộc Lực Lượng Đặc Biệt và Dân Sự Chiến Đấu, số quân tăng vọt lên 385.300 người - Gần bằng với con số ở các thời điểm cao nhất - thuộc đủ cả 3 binh chủng Hải, Lục và Không Quân. Có phải vì Cộng Sản Bắc Việt đã vô cớ tấn công vào lực lượng Hải Quân, cho nên Hoa Kỳ phải ào ạt đổ gần nửa triệu quân, thuộc đủ các binh chủng vào chiến trường Việt Nam tham chiến để trả đũa, hay vì một lý do nào khác? Và, lý do tại sao các chiến sĩ của Quân Lực Việt nam Cộng Hòa đã anh dũng chiến đấu bên cạnh người Mỹ, để sau ngày 27 tháng 1 năm 1973, người Mỹ rút đi rồi mà họ vẫn phải kiên cưòng tiếp tục chiến đấu? Đọc lại “Người Mỹ và Chiến Tranh Việt Nam“, Vietnam Bibliography 2001, trang 92 và trang 202, tác giả Nguyễn Kỳ Phong ghi lại thì rõ biết : “..........John F Kennedy khi còn là Dân Biểu Quốc Hội nhân dịp viếng thăm Việt Nam vào tháng 11 năm 1951 trong một buổi họp tại tòa Đại Sứ Mỹ tại Saigòn đã luôn miệng hỏi tại sao người Việt chiến đấu bên cạnh người Pháp để Pháp giữ quê hương cho họ như là một thuộc địa? Tại sao chúng ta phải hùa theo người Pháp, một quốc gia đang cố gắng nắm giữ một tàn tích đế quốc ở Đông Dương? (Trang 92).
...........Mười năm sau, ở cương vị Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Kennedy đã không ngần ngại tiết lộ rõ cho báo chí biết là ông đã quyết định ngăn chận ảnh hưỡng cộng sản ở ĐNÁ và sau khi được giới quân sự phân tích ưu và khuyết điểm của 2 chiến trường Lào và Việt Nam, Kennedy đã nói với Ngoại Trưởng Rusk là ông chọn VN vì VNCH quyết tâm chống cộng và sẽ chiến đấu. Việt Nam là mặt trận “. Đúng ! Việt Nam là một mặt trận Người chiến binh Hoa Kỳ đã đến Việt Nam không phải để gây chiến mà để nhằm ngăn chận ảnh hưởng cộng sản ở Đông Nam Á. Và, người Chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thì đã sát cánh cùng với các chiến sĩ của quân đội Hoa Kỳ rõ ràng là vì lý tưởng Tự do. Họ đã không chiến đấu bên cạnh người Mỹ để người Mỹ giữ quê hương cho họ như là một thuộc địa. Cũng đã hơn 30 năm rồi. Bao nhiêu người lính trận Hoa Kỳ đã ngã xuống trên đất Việt Nam? 58.156 người ? Trong đó bao nhiêu người đã chết và bao nhiêu người vẫn còn ghi nhận là mất tích ? Cho dù con số vẫn còn chưa dứt khoát. Là vì vẫn còn nhiều hình quả trám chưa được khắc đủ đậm trên 2 bức tường đá cẩm thạch đen Vietnam Veterans Memorial, trên công viên The National Mall tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn , để xác quyết tên người đã vĩnh viễn hy sinh. Nhưng dù sao thì các chiến sĩ của Hoa Kỳ vẫn cũng còn đỡ tủi, vì ít ra họ cũng còn được người dân Hoa Kỳ ưu ái dựng cho họ một Đài Tưởng Niệm ngay tại trung tâm Thủ Đô của đất nước họ. Còn hàng triệu chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sẽ không bao giờ có được một con số thống kê tin cậy là bao nhiêu người đã nằm xuống để bảo vệ cho quê hương và cho chủ nghĩa Dân Chủ -Tự Do. Đọc Nhớ Huế, trang 97, để nghe tác giả Phạm Thành Châu kể lại một trong hàng vạn mảng bi tráng của người lính chiến Quân Lực VNCH vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến “ ...........Sau này tôi mới biết, không phải chỉ riêng tôi, biết bao đơn vị hành chánh, cảnh sát , quân đội... cấp chỉ huy đã chạy đâu mất tiêu mà người chiến sĩ vẫn không rời vị trí chiến đấu cho đến khi gục chết vẫn không hề ân hận điều gì. Họ cảm thấy đất nước lâm nguy , bi đát đến độ chỉ biết đem thân ra chống đỡ một cách vô vọng, quên cả bản thân, cha mẹ, vợ con ..............” , Mồ hôi và Máu của triệu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã đổ xuống. Người Việt yêu chuộng Dân Chủ và Tự Do vẫn chưa quên được hình ảnh những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã không rời vị trí chiến đấu cho đến khi gục chết vẫn không hề ân hận điều gì! Vậy mà ngay trên quê hương của họ, người sống cũng không có đất để sống thì làm sao mà mong cầu cho được một tượng đài để kỷ niệm? Rõ biết như thế, thì mới có thể đồng cảm với những người Việt tha hương trên đất khách, cho dù gặp phải khó khăn đủ mặt, mà họ vẫn quyết tâm xây dựng cho bằng được một Tượng Đài Việt Mỹ tại Westminster, tiểu bang California Hoa Kỳ.
Sáng ngày 27 tháng 4 năm 2003, trên vạn người Việt yêu chuộng Tự Do các nơi đã đổ về để tham dự Lễ Khánh Thành Tượng Đài Việt Mỹ tại công viên Freedom Park, cạnh Tòa thị chính thành phố Westminster. Cờ Vàng Ba Sọc và cờ của Hoa Kỳ tung bay rợp cả khu Little Saigon và hình ảnh các cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, hùng khí vẫn còn cao ngất, vào hàng thẳng tắp, nghiêm chỉnh chào kính, đã làm cho hàng ngàn người không cầm được nước mắt. Craig Mandeville, Phó Chủ Tịch Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ tại Orange County cũng hòa với lòng người Việt, hảnh diện cho rằng cho đến hôm nay, chưa có nơi nào có tượng hai chiến binh Việt Mỹ đứng bên nhau như ở Westminster. Người Việt yêu chuộng Tự Do ở khắp mọi nơi, bằng mọi cách, đã hằng bày tỏ lòng mình với đất nước, với huynh đệ chi binh. Tại vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, khu Eden, trước hành lang Phở Xe lửa, một số cựu chiến binh, vào những ngày cuối tuần, dù thời tiết có khắc nghiệt mấy, họ vẫn kiên nhẫn đứng bán lẻ từng tờ báo. Tiền lời thu được, phần lớn được chuyển về Việt Nam gởi tặng cho những gia đình thương phế binh VNCH. Khách thử ghé qua một lần, đọc vài lá thư từ Việt Nam gởi sang, thì lòng mới thấm nỗi khốn cùng của số cựu chiến binh đang còn tại quê nhà. Ngay cạnh khu thương mại Little Saigon hàng ngày vẫn biết bao người âm thầm chắt chiu gom góp, có được ít nhiều là họ gởi về cho trẻ em mồ côi và các gia đình nghèo khó, chỉ vì cha hoặc chú của các gia đình nghèo này một thời là chiến sĩ chống cộng. Anh Thanh Lê, người bạn 40 năm, gặp lại mới biết pháp danh của anh là Tâm Chơn, lại chính là người đang nỗ lực quyên góp để mua đất xây dựng Trung Tâm Tu Học Viên Giác tại Ấn Độ. Vừa nghe nhắc đến Tượng Đài, anh liền sẳn sàng tạo mọi điều kiện để khách xa mới đến có dịp được đi thăm. Anh cho rằng đó cũng là cách để bày tỏ lòng, là mình vẫn còn mang nặng ơn nghĩa của những chiến sĩ VNCH đã hy sinh xương máu và sự sống còn cho non sông gấm vóc Việt Nam. . . . . . . . . . . . . Tinh thần huynh đệ chi binh của các Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Công Hòa mỗi nơi thể hiện một cách , tùy điều kiện và hoàn cảnh địa phương. Thế nhưng, cho đến bây giờ, quả thật chưa có nơi nào có tượng hai chiến binh Việt Mỹ đứng bên nhau như ở Westminster.
Tượng Đài vĩnh viễn sẽ là biểu tượng cho tinh thần của người Việt Nam yêu chuộng tự do và cũng là hình thức để bày tỏ lòng biết ơn sâu xa nhất đến các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa và các chiến binh Hoa Kỳ đã chiến đấu và đã nằm xuống trên đất nước Việt Nam thân yêu. Nhân kiệt với địa linh: Khách có thể dọc theo Westminster Ave., gặp Monroe thì quẹo trái vào đường All American Way. Hoặc từ Beach Blvd vừa qua khỏi Hazard Av, nhớ quẹo phải vào con đường 13. Vừa mới quẹo vào, khách sẽ thấy ngay Tượng Đài là hai pho tượng bằng đồng cao 11 feet sừng sững dưới cờ Vàng Ba Sọc và lá cờ Hoa Kỳ luôn phất tung bay trong gió. Nếu tính từ tâm công viên Freedom Park , nhìn về hướng Tây thì hai pho tượng ở bên góc trái sát kề bãi đậu xe. Khách có thể nhìn thấy rõ tượng đài là 2 chiến binh một Mỹ, một Việt, đứng kề bên nhau. Người lính Mỹ có vẻ như ngóng trông, như đang dùng dằng lưỡng lự, tay súng buông lỏng và nón sắt trên tay. Người chiến binh Việt Nam đứng lùi sau một bước, trang bị chuẩn bị vẫn trong thế sẳn sàng, nón sắt trên đầu và súng vẫn ở trên vai, ngón trỏ của tay trái chỉ xuống, biểu lộ thái độ cương quyết. Tiếng súng tạm ngưng, tương đối an toàn để có thể thảnh thơi đôi chút. Vũ khí trang bị còn đủ. Lựu đạn vẫn còn bên hông và lưỡi lê chưa cài trên đầu súng thì trận này chưa hẳn phải là trận cuối. Họ vẫn còn cơ hội mặt đối mặt để cận chiến với quân thù, thì cớ sao người lính Mỹ đã lộ vẻ hoang mang? Có phải vì người lính Mỹ đang phải đối đầu vơí đằng trước là hỏa lực khủng khiếp của cả khối cộng sản, mà sau lưng là những áp lực nặng nề của quá nhiều mưu toan chính trị?
Ngay sau Tượng Đài là một khoảng trống, không gì che chắn để bảo vệ, ôm ấp cho Tượng Đài đủ ấm. Giòng Westminster Channel từ phía Đông ngỡ như bươn bả chảy dồn sinh lực, vừa về tới gần công viên Freedom Park thì đột ngột đổi hướng, quả thiệt hết sức là vô tình. Có khác chi năm 1973, chính phủ Hoa kỳ đã đột ngột rút quân, để lại một mình cho Quân Lực VNCH gánh vác cuộc chiến đang thời kỳ sôi động nhất? Khách đến tham quan Tượng Đài sao khỏi ngậm ngùi khi mắt rõ thấy hình ảnh của người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa xông pha đầu tuyến mà không được trang bị áo giáp an toàn để che thân như người lính Mỹ. Tượng Đài không đủ ấm là vì giòng Westminster channel đột ngột chuyển hướng xoay lưng vô tình và người lính trận lại không được trang bị bảo vệ an toàn. Nếu đem so lại với thực cảnh của cuộc chiến tranh Việt Nam thì cả hai đều như bị những móc xích vô hình ràng buộc không rời được nhau. Tất cả hoàn toàn như đang bị vây phủ bởi vòng tương quan nhân quả, thì rõ ràng Đất Trời cũng đã cảm ứng được với lòng người. Lòng người đã được Đất Trời cảm ứng. Âm với Dương nhất định đã hòa hợp và sinh khí phải được tạo thành thì chắc chắn Phong Thủy nơi này phải có xảo diệu chi đây. Có phải giòng Westminster channel thoạt mới nhìn, tưởng như đang dồn hết sinh lực bươn bã chảy về. Nhìn kỷ mới thấy giòng Channel đã gần cạn, nước đã bị ố dơ. Thủy cạn và bị ố dơ là phạm phải vào Ngũ Hung của Thủy. Vậy nên Westminster channel đột ngột trở mình, không chịu ôm Tượng Đài Việt Mỹ vào lòng, mới thoạt nhìn thì ai cũng nghĩ là Hung, nhưng đâu ngờ lại trở thành Cát . Từ ngàn xưa người ta đã biết nguồn nước có sâu hay nông, mà đoán được khí thế của Long mạch mạnh hay yếu. Nhìn nước đục hay trong mà đoán biết huyệt chân hay giả. Phía đằng sau Freedom Park còn có giòng Santa Anna nước tràn đầy sinh lực, lượn ôm toàn cục vào lòng, da diết hữu tình. Long mạch mạnh mẽ đầy khí thế như thế thì không lẻ khu vực Tượng Đài lại không đủ Ấm? Biết bỏ gần mà lấy xa, bỏ cái xấu mà lấy cái tốt, bỏ cái nhỏ mà lấy cái lớn, thì sao không là Xảo Diệu? Đất trời đã cảm ứng với lòng người. Đạo người đã hòa hợp với Đạo Trời. Địa mạch đã được tốt lành. Tượng Đài chắc hẳn phải linh thiêng. Lại còn biết bỏ gần mà lấy xa, bỏ ngắn mà lấy dài, thì ngày 30 tháng 4 năm 1975 chắc gì là ngày cuối cùng của cuộc chiến?
Nếu cho rằng kết luận như vậy là vội vã, thì thử toán thêm quẻ Mai Hoa. Có phải dưới chân Tượng Đài là bệ đá cẩm thạch, màu đen tuyền, bao tròn nửa vòng ôm kín Lư hương Hỏa khí. Khoa Địa Lý Phong Thủy xưa nay đều cho rằng Đá hành Kim - Vòng tròn cũng hành Kim - Lưỡng Kim tương ngộ - tương sinh với Thủy thì Thủy phải Tướng. Trong lòng của Thủy Khí là Lư hương khí Hỏa thì đúng là Thủy ngoại Hỏa nội, Thủy thượng Hỏa hạ, Thủy Hỏa Ký Tế là tượng nước ở trên lửa, nước lửa giao nhau. Trong 64 quẻ Dịch, chỉ Kỷ Tế mới có đủ 6 hào cư đúng vị. Nghĩa của Kỷ tế là đã qua sông, là chuyện đã xong rồi, hay chuyện đã nên, đã cùng, thì coi như cuộc chiến Việt Nam đã tàn, đã xong. Nhưng nếu không vội vã, mà phải nhìn kỷ toàn cục thì có phải Lư hương Hỏa khí lại được đặt để ngay trên một hồ nước đầy tràn: Lửa trên nước là Hỏa thượng Thủy hạ, tượng của quẻ Hỏa Thủy Vị Tế? Sau Kỷ Tế đến Vị Tế, trời đất cũng đã sắp bày như vậy. Kinh Dịch cũng xếp thứ tự như thế. Kỷ Tế là việc đã xong mà Vị Tế là quẻ của sự việc Chưa Cùng. Theo dự án thiết kế ban đầu, Lư Hương cao 4 thước Tây để tỷ lệ hài hòa với chiều cao của tổng thể Tượng Đài. Nhưng vì điều kiện an toàn quy định, để công trình xây dựng được phép tiến hành, buộc phải nâng chiều cao của Lư Hương lên 6 thước Tây. Hai khí Thủy Hỏa đang giao nhau mà Lư hương khí Hỏa thấp yếu, thì sẽ bị Thủy đương Vượng dập tắt tức thời. Hỏa mà bị dập thì coi như mọi chuyện đã an bài. Lư Hương may nhờ phải tăng chiều cao lên 6 thước Tây, chỉ vì quy định an toàn trong thiết kế, mà Khí Hỏa hữu lực để thành tựu được Hỏa Thủy Vị Tế. Vị Tế là quẻ của chuyện Chưa Cùng, là chuyện vẫn còn sinh sinh, tiếp diễn, thì cuộc chiến chắc gì đã dứt? Mặt khác, vì an toàn của hệ thống dẫn Gaz, Lư Hương phải đặt xoay hai chân ra đằng trước, một chân phía sau. Xưa nay tất cả Lư Hương trước chùa, đình hay miễu thường được đặt một chân đằng trước, hai chân đằng sau. Lâu ngày quen mắt, trở thành cái Lệ trong luật tục, cái Nghi trong Lễ Đạo. Lư Hương trước Tượng Đài hai chân phía trước như vậy là ngược khác với lệ thường. Hướng của Tượng Đài xê dịch trong khoảng 260 độ Tây - Tây Nam. Khoa Phong Thủy gọi là chung là hướng Dậu. Nhưng theo phái Phong Thủy Cổ Dịch Huyền Không, phía sau Tượng Đài gọi là Sơn và trước gọi là Hướng thì 260 độ, phải gọi chính xác là Địa Nguyên Long, Sơn Giáp Hướng Canh. Tượng Đài hoàn thành năm 2003 thuộc cuối vận 7, thì Ngũ sẽ đáo Sơn và Cữu sẽ đáo Hướng. Sơn tinh Ngũ và Hướng tinh Cữu nhập giữa đều bay thuận. Tượng Đài đang bị Phạm thượng Sơn hạ Thủy, quẻ Hướng bị sinh xuất: Hung. Lại theo Hiệp Kỷ Biện Phương Thư, năm Quý Mùi 2003, thuộc vận 7 Hạ Nguyên thì Lục Bạch nhập Trung Cung. Bát Bạch tại Đoài và Tứ Bích tại Chấn. Tam Sát: Thân Dậu Tuất thì hướng Dậu của Tượng Đài đang phạm vào Tam Sát. Tang môn cũng lại đang lãng vãng hướng này. Vậy cái Lư hương đặt ngược khác với lệ thường, mà lại tránh được Họa của Tang Môn và Tam Sát, đồng thời tránh được Hung của hướng Tây vận 7. May mắn lạ thường như vậy, làm sao mà Tượng Đài không linh cho được ? Ấn sâu sau Tượng Đài Việt Mỹ là những trang chiến sử oai hùng. Trên đường dây điện thoại, vẫn còn nghe Nam Lộc nhắc là Khách đến có thể lật lại từng trang chiến sử, để có dịp gặp lại những người bạn cùng chiến đấu năm xưa. Đôi lúc khách cũng có thể gặp lại chính mình hoặc người thân, ruột thịt của gia đình mình trong đó. Có quá nhiều kỷ niệm buồn vui để nhớ, nhưng chắc chắn tự trong tim, khách không khỏi thấy dấy lên niềm tự hào. Khách nhớ đừng có quá bận tâm tại sao Lư Hương để ngược, chỉ vì Tượng Đài vẫn còn đang đặt tạm tại xứ người. Khách cũng đừng hỏi tại sao những thành viên người Việt trong Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài, phải chịu nhiều sóng gió bão bùng trong suốt quá trình thực hiện, chỉ vì họ là những Chiến Sĩ tuyến đầu của cuộc chiến. Chiến hữu Hải Quân: Hồ Ngọc Minh Đức vừa mới được các đồng đội Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vinh danh là tin vui mới nhất có thể vay mượn được để làm quà tặng tiễn khách ra về.
Tác giả bài viết: Quảng Đức
Subscribe to:
Posts (Atom)