Sunday, December 6, 2020

TÔ PHẠM LIỆU: NGƯỜI TRỞ LẠI CHARLIE Phạm Anh Dũng

  

           Lật qua tờ nhật báo Người Việt ngày 5 tháng 10 năm 1997, một tin cáo phó làm tôi giật mình chú ý đọc ngay: “... Tô Phạm Liệu (1941-1997) Y Sĩ Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù…đã không còn với chúng ta kể từ 29 tháng 9 năm 1997...”

          Vậy là anh Liệu đã từ giã cõi đời này! Hình ảnh của Tô Phạm Liệu trở về từ dĩ vãng xa xưa.
          Lần đầu tiên tôi gặp Tô Phạm Liệu đã lâu lắm rồi, gần 28 năm trước đây. Ngày đó, vừa học xong lớp Y Khoa Năm Thứ Nhất ở trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn, tôi và một số khá đông bạn bè cùng lớp rủ nhau nộp đơn, đi thi và đỗ vào trường Quân Y.

         Tháng 1, 1970, vào ngày nhập ngũ, chúng tôi rủ nhau nao nức đi trình diện ở trường Quân Y. Một đám sinh viên Y Dược Nha đến và được tập trung ở cổng trường, chỗ gần trạm kiểm soát ra vào. Chúng tôi đều là tân sinh viên quân y. Người đầu tiên ra gặp chúng tôi mặc quân phục xanh bộ binh. Ở cầu vai, anh đeo lon trung úy, hai bông mai vàng trên một nền nhung đỏ thẫm. Ở ngực áo, có dấu hiệu con rắn vàng của ngành quân y, và dấu hiệu một cánh dù màu xám, bằng nhảy dù. Thoáng gặp anh, chúng tôi phải để ý ngay, vì anh là một người có tầm vóc đáng kể, vừa to vừa cao trông như  một “ông hộ pháp.”
          Không cười đón niềm nở chút nào và với giọng nói to, vang vang trong buổi chiều nắng gió, anh tự giới thiệu. Rất ngắn và gọn, anh cho biết anh tên là Tô Phạm Liệu, sinh viên sĩ quan quân y năm thứ sáu, được cấp trên đề cử làm Sinh Viên Sĩ Quan Đại Đội Trưởng Đại Đội Tân Sinh Viên.
          Anh Liệu dẫn khoảng bốn năm chục người chúng tôi vào một sân rộng lớn có một cột cờ với lá cờ vàng ba sọc đỏ khá cao, Vũ Đình Trường của Trường Quân Y. Và ở đó đã có thêm  hai sinh viên sĩ quan quân y khác đứng chờ sẵn. Chúng tôi được lệnh xếp hàng. Rồi ba ông đàn anh dẫn chúng tôi chạy vòng quanh sân cờ, cho đến khi tất cả hầu như hết sức lực, khi một người trong hàng đã phải ngất xỉu.
          Đó là kinh nghiệm đầu tiên của đa số chúng tôi đối với quân đội. Lần hành xác này để mở đầu cho Tám Tuần Lễ Huấn Nhục của Đại Đội Tân Sinh Viên Sĩ Quan Quân Y. Đối với những “thư sinh trói gà không chặt” mà còn “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”, chỉ biết việc sách đèn, đây quả là một thử thách khá lớn lao. Đó cũng là lần đầu tiên tôi gặp Tô Phạm Liệu.
          Trong tám tuần lễ của “mồ hôi, nước mắt” chúng tôi được các đàn anh của các khóa trước “chỉ dậy” một cách rất tận tình bằng mọi cách. Chúng tôi  học qua căn bản quân sự, căn bản thao diễn. Và mọi người được thay nhau tập hít đất, tập thở, tập chạy, tập cười... theo lệnh các huynh trưởng.
          Các đàn anh chia ra làm từng toán ba người. Anh Tô Phạm Liệu đích thân làm trưởng một toán. Mỗi toán có nhiệm vụ hướng dẫn các tân sinh viên một ngày. Riêng anh Liệu, hình như ngày nào cũng có mặt để quan sát các hoạt động, tiến triển trong việc huấn luyện các tân sinh viên Quân Y. Anh Tô Phạm Liệu rất tận tâm bỏ khá nhiều thì giờ vào việc dẫn dắt đàn em mới nhập ngũ. Những người nào có vẻ lười biếng công việc tập tành thật khó qua khỏi mắt của đàn anh. Ai đau thật hay chỉ ốm giả anh cũng biết. Hình như anh biết rõ về bản chất, tính tình của từng người một. Anh là người gần gũi với chúng tôi nhất trong những ngày đầu tiên khi mới gia nhập quân ngũ.
          Sinh hoạt với anh một thời gian ngắn, chúng tôi nhận thấy ngay ngoài “cái vỏ” lạnh lùng nghiêm nghị của anh còn có một bề trong khác hẳn với một tâm hồn đầy tình cảm và hiểu biết. Anh Liệu thường là người thấu hiểu gần như mọi chuyện xẩy ra trong đại đội tân sinh viên quân y và thường giải thích hay giải quyết, thường là bằng tình cảm, những vấn đề khó khăn hay khó nói nhất. Nhiệm vụ chỉ huy hướng dẫn đôi khi làm anh có vẻ khó khăn và khô khan. Nhưng những lúc nói chuyện với anh Liệu trong khi rảnh rang đã làm chúng tôi thấy anh là một người rất nhiều tình cảm, rộng lượng và rất thương mến những anh em trong gia đình Y Dược Nha trong ngành Quân Y. Một điều đặc biệt nhất là Tô Phạm Liệu nói chuyện rất hay, rất lôi cuốn người nghe, nhất là những khi anh đứng trước hàng quân. Tôi được biết anh đã  là một huynh trưởng trong ngành Hướng Đạo Việt Nam. Việc anh giỏi về diễn thuyết hay chỉ huy là do đã có kinh nghiệm từ lâu.
          Nhiệm vụ khó khăn của anh trong sự hướng dẫn chúng tôi có được những khái niệm ban đầu về Quân Đội rồi cũng thành công. Tất cả đám tân sinh viên Y Nha Dược đều qua khỏi tám tuần lễ huấn nhục gian lao. Chúng tôi sau lễ gắn alpha, trở thành những sinh viên Quân Y hiện dịch thực thụ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đêm hôm gắn alpha, anh có nói chuyện riêng khá cảm động với một vài người chúng tôi. Anh cho biết anh rất hài lòng với kết quả, đồng thời cũng nhắn nhủ công chuyện tương lai. Tô Phạm Liệu có nói, ngày nào đó chúng tôi sẽ hiểu rõ đàn anh hơn khi đứng ra hướng dẫn những đàn em sau này. Riêng tôi, về sau này tôi rất thông cảm anh vì chính bản thân lại “được” cử ra làm nhiệm vụ của anh, dẫn dắt các tân sinh viên quân y, khi khóa sinh viên sĩ quan của chúng tôi trở thành khóa đàn anh lớn nhất trong trường Quân Y.
          Năm 1970, chúng tôi gia nhập Quân Y, cũng là năm khóa 17 Sinh Viên Sĩ Quan Hiện Dịch Quân Y của anh Liệu sắp ra trường. Năm 1971, khi chọn đơn vị, anh Liệu chọn binh chủng Nhảy Dù và nhiệm sở đầu tiên là một tiểu đoàn nhảy dù. Tô Phạm Liệu đã chính thức trở thành y sĩ của một tiểu đoàn tác chiến binh chủng nhảy dù, đúng như ý định của anh.
          Những ngày tháng ngay sau đó, tôi rất ít gặp anh Liệu. Chúng tôi ở lại hậu phương hoàn tất công chuyện học hành ở những trường Y Nha Dược. Anh Liệu và các anh khác tản mác trong những đơn vị của quân đội khắp bốn vùng chiến thuật. Tôi chỉ gặp lại anh Liệu một hai lần trong một khoảng thời gian độ một năm trời khi anh về ghé thăm trường Quân Y trong những dịp nghỉ phép. Những ngày đó anh vẫn cao lớn và đội mũ đỏ, mặc quần áo rằn ri nhảy dù trông rất oai hùng. Chúng tôi chỉ có dịp nói chuyện chào hỏi chút ít và tôi được biết là anh đã trải qua khá nhiều thử thách ngoài mặt trận.
        Rồi... đến một ngày tháng, vào một nơi... của định mệnh: 
        Thời điểm năm 1972, mùa Hè nắng cháy.
        Địa điểm là Charlie,  Cao Nguyên Nam Việt Nam.
        Tôi được nghe đến, được biết và được hiểu Tô Phạm Liệu nhiều hơn.
        Bốn năm trước đó, năm 1968, vào dịp bầu cử tổng thống ở Hoa Kỳ cũng là khi Bắc Việt cho tổng tấn công và thất bại trên các chiến địa Tết Mậu Thân. Tuy Cộng Sản thất bại nặng nề trên bình diện quân sự, nhưng phải công nhận họ đã gây ảnh hưởng khá mạnh trong việc tuyên truyền chính trị. Hình ảnh chiến tranh tại Việt Nam, một nơi xa xôi ở bên kia nửa quả địa cầu, được người dân Mỹ chứng kiến mỗi ngày, ngay tại nhà riêng, qua hệ thống vô tuyến truyền hình. Dân chúng Hoa Kỳ đã bắt đầu chán sợ cuộc chiến tranh đẫm máu và dai dẳng. Đầu óc thực tế của họ nghe nhiều đến số tiền đã và phải trang trải thêm cho cuộc chiến. Hình ảnh quan tài những quân nhân Hoa Kỳ chết ở Việt Nam đem về Mỹ được chiếu rõ trên truyền hình, làm nao núng cả quốc gia. Các phong trào phản chiến Hoa Kỳ hoạt động mạnh hơn. Các ứng cử viên Tổng Thống Mỹ đều biết rõ tầm quan trọng của việc cần phải chấm dứt cuộc chiến tại Việt Nam.
          Năm 1972, cũng lại là năm bầu cử Tổng Thống Mỹ . Do đó, thêm một lần nữa, Bắc Việt muốn có tiếng vang vọng với bất cứ giá nào. Đại Tướng Bắc Việt Võ Nguyên Giáp còn nghĩ là có thể chiếm đoạt miền Nam vào lúc này.
          Cũng như Trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân năm 1968, Tướng Giáp đã “thí quân”, quyết định tấn công với ba mặt trận lớn đã bùng nổ vào mùa Hè 1972.
          Thứ nhất: Mặt Trận Giới Tuyến tại vùng Phi Quân Sự. Việt Cộng đã bất chấp tất cả mọi ký kết của chính họ ở Hiệp Định Genève 1954. Họ cho hai Sư Đoàn 304 và 308, tăng phái bởi bốn Trung Đoàn Đặc Công với hơn 200 chiến xa của Trung Đoàn 203 và 204 cộng thêm ba Trung Đoàn Pháo Binh, vượt khu Phi Quân Sự đánh chiếm Quảng Trị. Cùng lúc đó, Sư Đoàn 324B và hai Trung Đoàn đặc biệt 5 và 6 đến xâm nhập Huế. Còn Sư Đoàn 711 Cộng Quân thì quấy phá Đà Nẵng.
          Thứ hai: Mặt Trận Biên Giới chiếm đánh Lộc Ninh, An Lộc do các Sư Đoàn Cộng Sản 5, 7 và 9 cùng với hơn 200 xe thiết giáp. Trong khi đó, Sư Đoàn 1 Bắc Việt quấy rối vùng Đồng Bằng Cửu Long để cầm bớt quân đội Việt Nam lại vùng IV chiến thuật.
          Thứ ba: Mặt Trận Cao Nguyên thì có hai Sư Đoàn 2 và 320 với một trung đoàn chiến xa đánh chiếm vùng Kontum, Pleiku. Đồng thời, Sư Đoàn 3 Cộng Sản đánh vùng Bình Định. Tại Cao Nguyên, Tướng Võ Nguyên Giáp mưu định cắt miền Nam thành hai mảnh.
          Thời điểm là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
          Địa điểm là Charlie của Chiến Trường Cao Nguyên.
          Trong quyển sách viết về chiến tranh Việt Nam “Mùa Hè Đỏ Lửa,” Phan Nhật Nam đã viết trong đoạn đầu tiên “Charlie, tên nghe quá lạ:”
          “Quả tình nếu không có trận chiến mùa hè 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. Charlie hay Cải Cách hay [C] đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Poko và đường 14, Đông Bắc là Tân Cảnh, với 12 cây số đường chim bay, Đông Nam là Kontum thị trấn cực Bắc của vùng Tây Nguyên... Charlie lọt giữa bị bao vây bởi căn cứ 5, căn cứ 6, ở phía Bắc, những mục tiêu quân sự nổi tiếng, những vị trí then chốt giữ cửa ngỏ vào Tân Cảnh mà bao nhiêu năm qua, bao nhiêu mùa hè, mùa “mưa rào”, báo chí hàng ngày trong và ngoài nước phải nhắc tới khi những hạt mưa đầu mùa rơi xuống miền núi non xương sườn cực Tây của quê hương Việt Nam...
          Năm nay, sau bao nhiêu lần thử thách từ mùa mưa của 1971 qua đầu xuân của 1972, Bắc quân vẫn không vượt qua hai cửa ngỏ. Căn cứ 5, Căn cứ 6... Cộng quân đổi hướng tiến lòn sâu xuống phía nam của 2 căn cứ trên để tiếp tục sự nghiệp “giải phóng” với mục tiêu cố định: Tân Cảnh, cắt đường 14...”
          Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù được cử đến lập một vòng đai để giữ những yếu điểm trong vùng quanh Quốc Lộ 14 và Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù có nhiệm vụ đóng giữ Charlie. Vào ngày 2 tháng 4, Tô Phạm Liệu, người y sĩ  của tiểu đoàn và cũng là một sĩ quan nhảy dù, đã được thả đến Charlie cùng với Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù. Đây là tiểu đoàn nhảy dù mới nhất của Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam.
          Sau đó, tại Charlie, một trận đánh oai hùng và bi thương của người lính nhảy dù Việt Nam Cộng Hòa đã xẩy ra.
           Lúc bấy giờ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù là Trung Tá Nguyễn Đình Bảo tốt nghiệp khóa 14 Trường Sinh Viên Sĩ Quan Hiện Dịch Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Trung Tá Bảo là một sĩ quan chỉ huy rất giỏi và có nhiều kinh nghiệm chiến trường. Ông gia nhập Nhảy Dù ngay sau khi ra trường võ bị, đã tham dự nhiều trận chiến khốc liệt, đã chiến thắng nhiều và đã bị thương hai lần ở mặt trận.
          Tuy vậy, lần này Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù bị hơn một sư đoàn Bắc Việt bao vây. Đó là Sư Đoàn 320  có mang danh là Sư Đoàn Điện Biên và cũng được gọi là Sư Đoàn Thép tăng phái thêm Trung Đoàn 64 của  Sư Đoàn Sao Vàng Cộng Sản. Trước chiến lược thí quân của Bắc Việt, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù và Trung Tá Nguyễn Đình Bảo trở nên “hổ trong lồng.”
          Ngày 11 tháng 4, Cộng Sản sửa soạn tấn công. Hàng trăm quả pháo rót vào Charlie kể cả đại pháo 130 ly với đạn xuyên phá ”delay.” Đây là loại đạn đặc biệt nguy hiểm, không nổ ngay khi chạm đất, mà sẽ nổ sau khi đã xuống dưới mặt đất khoảng hơn một thước, để tàn phá những hầm trú ẩn.
           Ngày 12 tháng 4, Cộng Quân tiến đánh. Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù kể cả Bác Sĩ Quân Y Tô Phạm Liệu đã quần thảo với lính Cộng của Sư Đoàn Điện Biên. Họ đã đổ máu để tranh thủ từng thước đất.
          Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, nhiều sĩ quan và binh sĩ nhảy dù đã hy sinh tại mặt trận.
          Ngày 15 tháng 4, 1972 Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù tan rã. Chính bản thân Tô Phạm Liệu cũng bị thương ở chân. Tô Phạm Liệu và Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó đã dẫn một nhóm nhỏ còn lại và các thương binh rút khỏi Charlie. Và nhóm này cuối cùng được trực thăng “bốc” đi thoát. Một số khác chạy bộ băng rừng về.
          Xác chết của nhiều quân nhân và của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo đã không đem được về và đành để lại Charlie.
         Nhiều chiến sĩ  nhảy dù đã anh dũng “ở lại” Charlie.
        Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sau đó cảm xúc sự hy sinh của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo và những chiến sĩ nhảy dù khác tại mặt trận Charlie đã sáng tác “Người Ở Lại Charlie”, một bản nhạc khá hay và cảm động:
          “Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie.
          Anh! Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí.
          Vâng, chính anh là ngôi sao mới, một lần này chợt sáng trưng, là cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng.
          Này anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie.
          Anh! Vâng, chính anh là loài chim quí.
          Ôi, cánh chim trùng khơi vạn lý, một lần dậy cánh bay, người để cho người nước mắt trên tay...”
          Sự kiện Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù tan rã ở Charlie, khi bị hơn một Sư Đoàn Bộ Đội Bắc Việt tấn công với đại pháo và chiến xa, là chuyện dĩ nhiên phải xẩy ra. Nhưng điều quan trọng hơn là sự hy sinh dũng cảm của những người lính Việt Nam Cộng Hòa. Những chiến sĩ nhảy dù đã gây tổn thất nặng cho đối phương và làm ảnh hưởng nhiều đến tinh thần của Cán Binh Bắc Việt.
                Tuy là ngay sau đó, Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù phải bỏ cả Tân Cảnh về Kontum. Tuy là các Sư Đoàn Bắc Việt kiểm soát được  Quốc Lộ 14. Tuy là họ đã bao vây thành phố Cao Nguyên Kontom. Tuy là họ dốc toàn lực đánh Kontum  hai lần ngày 14 tháng 5 và ngày 25 tháng 5. Nhưng họ vẫn thất bại. Cuối cùng Cộng Sản Việt Nam vẫn không đạt được mục tiêu vào năm 1972 và phải rút lui tại mặt trận miền Cao Nguyên.
             Mặt Trận Biên Giới nổ lớn tại An Lộc-Bình Long. Bộ Đội Cộng Sản hàng hàng, lớp lớp, “biển người”, được yểm trợ bởi hàng trăm chiến xa tối tân và đại bác hỏa tiễn hùng hậu, tràn ngập mặt trận. Nhưng họ đã phải đứng khựng lại ở quận An Lộc, cứ điểm quan trọng ngăn cản đường tiến của Bắc Quân đến Quốc Lộ 13 để về “giải phóng” Sài Gòn. Trong khoảng 100 ngày, gần 60 ngàn quả đại bác đã bắn vào độ một cây số vuông của quận lỵ nhỏ bé An Lộc. Năm lần Việt Cộng đã mở những cuộc tấn công. Cả năm lần Bắc Quân phải chùn bước. Người hùng Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng và các lực lượng phòng thủ, với sự phụ lực của Đại Tá Lê Quang Lưỡng và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, cùng với sự yểm trợ hữu hiệu của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa và Không Quân Hoa Kỳ, đã cho Bắc Việt một bài học cay đắng: họ cho tướng Võ Nguyên Giáp biết thế nào là “tử thủ”. Ngày 8 tháng 6, 1972 Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù tiến vào thành phố, đã “bắt tay” được với  tiểu đoàn nhảy dù”bạn”, Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù là đơn vị đã được trực thăng vận đến An Lộc mấy ngày trước.
              An Lộc hoang tàn. Nhưng An Lộc vẫn đứng vững...
          An Lộc đẫm máu. An Lộc đầy lửa khói. Nhưng An Lộc vẫn còn...
          Cuối cùng Bắc Quân phải rút lui.
         
          Mặt Trận Vùng Hỏa Tuyến: ngay những ngày đầu tiên Việt Cộng đã tràn ngập Quảng Trị và Sư Đoàn 3 Bộ Binh Việt Nam sau đó phải tan rã chạy về phía Nam. Dân chúng Quảng Trị ghét sợ Cộng Sản chạy theo quân. Hỗn loạn! Kinh hoàng! Nơi nơi máu đổ nhiều! Quân dân chạy giặc dưới làn đạn làm hàng ngàn người chết ở Đại Lộ Kinh Hoàng.
               Bắc Quân tràn lan, đánh chiếm khắp nơi, tiến sâu thêm phía Nam.
          Nhưng họ đã bị chận đứng lại ở sông Mỹ Chánh. Nơi đây ngày 2 tháng 5, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến đã bắn hạ 17 chiến xa Bắc Việt. Cùng một lúc Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng được cử ra giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I. Thế cờ được lật ngược.
                Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù tan rã ở Tân Cảnh nhưng không biến mất mà đã phối trí lại. Chẳng những vậy, chỉ độ một tháng sau ngày tan rã ở Charlie, Tô Phạm Liệu và Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù đã là có mặt chiến đấu lại ngay ở miền Hỏa Tuyến.
          Tháng 6, 1972 Sư Đoàn Nhảy Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến và Sư Đoàn 1 Bộ Binh cùng với sự yểm trợ của Không Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Không Quân Hoa Kỳ đã mở chiến dịch tổng phản công tại vùng giới tuyến. Họ đã anh dũng chiến đấu, quần thảo  với tổng cộng sáu Sư Đoàn Bộ Đội Bắc Việt. Hai sư đoàn Cộng Sản 304 và 308 lúc này đã thêm bốn Sư Đoàn 312, 320B, 324B và 325.
          Cuộc chiến đẫm máu kéo dài đến tháng 9, 1972 khi lá cờ vàng ba sọc đỏ được những người lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa dựng lại tại Cổ Thành Quảng Trị và khi tàn quân Bắc Việt chạy ngược trở về bên phía Bắc dòng sông Thạch Hãn.
          Giấc mơ chiếm đoạt miến Nam vào mùa Hè 1972 của tướng Võ Nguyên Giáp hóa ra “chỉ là  một giấc mơ thôi.”
          Có lẽ hàng nhiều ngàn hay có thể đến hàng chục ngàn người  “sinh Bắc” đã “tử Nam” trong mùa Hè này.
          Y Sĩ Đại Úy Tô Phạm Liệu được Sư Đoàn Nhảy Dù trao tặng danh hiệu “Quân Nhân Xuất Sắc Nhất Của Sư Đoàn Nhẩy Dù.”
          Tô Phạm Liệu, tên tuổi hào hùng của ngành Quân Y “con rắn” chúng tôi, đã lừng danh trong những đơn vị Nhảy Dù “mũ đỏ” của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thời đó.
          Chiến dịch mùa Hè 1972 đã làm Bắc Việt tổn thất nặng. Phải một thời gian khá lâu họ mới hồi phục lại được sức mạnh. Những ngày tháng ngay sau đó họ đã không tạo thêm được tiếng vang gì đáng kể. Ngoại trừ một cố gắng khác, nhưng vẫn thất bại, ở Sa Huỳnh ở vùng Quảng Ngãi-Bình Định vào đầu năm 1973.
          Năm 1973 cũng là năm Henry Kissinger và Lê Đức Thọ ký kết Hiệp Định Paris, là năm của Việt Nam Hóa Chiến Tranh Việt Nam. Hiệp Định Paris đã đẩy Việt Nam Cộng Hòa vào con đường cùng. Hoa Kỳ rút dần dần ra khỏi Việt Nam. Viện trợ quân sự Mỹ cho quân đội Việt Nam cũng giảm dần theo. Đạn dược, súng ống của quân Việt Nam trở thành thiếu thốn. Xe tăng lỗi thời. Máy bay cũng ít dần và cũ kỹ dần. Bắc Quân ngày càng nhiều khí giới tối tân. vì Nga Sô và Trung Cộng cùng các nước Cộng Sản trên thế giới vẫn tiếp tục ủng hộ tiếp tế Hà Nội một cách tích cực. Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu hầu như một mình với Cộng Sản Bắc Việt và cả một thế giới Cộng Sản đứng ở đằng sau. Đó là kết quả của Việt Nam Hóa Chiến Tranh Việt Nam, chính sách của Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon.
          Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973, rồi giải Nobel được trao tặng cho Kissinger và Thọ chỉ là những trò hề. Bắc Quân tiếp tục xâm phạm những gì họ ký kết. Đường mòn Hồ Chí Minh “đông người như đi chợ” chuyển quân và vũ khí thiết giáp vào miền Nam.
          Tô Phạm Liệu tốt nghiệp khóa 17 Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch gia nhập Nhảy Dù năm 1971.
          Khóa 21 Sĩ Quan Hiện Dịch Quân Y, khóa cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, khóa của chúng tôi ra đơn vị năm 1975.
          Chỉ có bốn năm mà tình hình đã đổi khác hoàn toàn. Những tân Trung Úy Y Nha Dược ra đơn vị đúng lúc ngày tàn của cuộc chiến. Tỉnh Phước Long rơi vào tay Cộng Sản tháng 2, 1975.
           Chuyện gì phải xẩy ra đã xẩy ra. Chuyện mất miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản ngày 30 tháng 4, 1975 đã đến. Có điều chuyện xẩy ra quá bất ngờ, một cách rất ngạc nhiên, ngoài sự dự liệu của tất cả mọi người trong và ngoài cuộc. Lịch sử sẽ cho dần những câu trả lời. Nhưng làm sao có ai, có những lý do nào... mà có cho đủ được những câu trả lời cho chuyện bỏ chạy một cách nhanh chóng như vậy?
          Đa số chúng tôi của khóa 21 Quân Y chỉ đến đơn vị được một, hai tháng thì cuộc đời nhà binh cũng chấm dứt.
          Để sửa soạn dư luận cho cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ năm 1976. Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng đã bắt đầu Chiến Dịch Mùa Xuân năm 1975. Nhưng chính những người cầm đầu đảng Cộng Sản Việt Nam cũng không thể ngờ có kết quả nhanh, ngoài dự liệu như vậy.
          Miền Nam Việt Nam xụp đổ, đổ dần như một căn nhà không có nền móng, chỉ trong vòng khoảng 55 ngày.
          Ngày 10 tháng 3, 1975 Bắc Quân bắt đầu tiến đánh Ban Mê Thuột.
          Ban Mê Thuột mất ngày 17 tháng 3, 1975.
          Theo đó là Quảng Trị mất 20 tháng 3.
          Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bỏ Huế 23, tháng 3.
          Rồi Đà Nẵng di tản ngày 29 tháng 3...
          Bắc Việt tiến chiếm dễ dàng dần dần từ Bắc xuống Nam. Bắc Quân vào nhiều thành phố bỏ trống như chỗ không người. Tình hình thật là hỗn loạn.
        Những câu chuyện cười ra nước mắt được kể lại. Như: một thành phố ở miền Trung được di tản đến cả ba, bốn ngày sau một đơn vị quân đội nhỏ của Việt Nam Cộng Hòa quay lại cũng vẫn còn y nguyên vì Cộng Sản cũng không đến kịp vào để tiếp thu! Hoặc: có thành phố được phát ngôn viên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho biết đã di tản nhưng sự thật dân quân vẫn còn nguyên tại chỗ!
          Hầu như tất cả mọi người đều không làm được gì cả.
          Chúng tôi bất lực. Chúng tôi không làm được gì ngoài việc chỉ cố tránh né để mái nhà sụp hay bức tường vỡ khỏi rơi vào người.
          Ngày 20 tháng 4, 1975  tiền đồn cuối cùng ở Xuân Lộc bị phá vỡ. Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và Sư Đoàn 18 phải rút quân. Sài Gòn hầu như rối loạn hoàn toàn. Nhìn trước ngó sau chỉ thấy nhiều người tìm cách đi khỏi nước Việt Nam hơn là tìm cách chống trả giữ Sài Gòn.
          Sài Gòn coi như đã mất. Một thành phố đang dẫy chết ! Chỉ còn vấn đề thời gian, một thời gian rất ngắn thôi.
          Trong những ngày cuối cùng ở Sài Gòn, hàng ngày, có khi hàng giờ tôi nghe được những tin tức mới của những người nào đã ra đi và của những người nào sắp ra đi.
          Ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tân Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng.
          Tôi may mắn thoát được lên chiến hạm Hải Quân Việt Nam HQ 1. Chỉ độ mười phút sau đó tầu rời bến Bạch Đằng,  cùng tất cả những chiến hạm còn lại ở bến của Hạm Đội Hải Quân Việt Nam, sau khi binh sĩ Hải Quân chặt cầu vì không đủ chỗ cho hàng ngàn người đang đứng đợi lên tầu.
         Thế là hết! Vĩnh biệt Sài Gòn! Vĩnh Biệt Việt Nam!
          Lênh đênh vài ngày trên Thái Bình Dương, chiếc tầu Việt Nam của chúng tôi đến Subic Bay ở Phi Luật Tân. Ngay sau đó tất cả chúng tôi được chuyển ngay sang một tầu Hoa Kỳ rộng lớn hơn để đi đến đảo Guam.
          Trên tầu Hoa Kỳ đầy người. Đủ loại người. Dân sự có, quân sự có. Người nằm, kẻ đứng ngồi. Hỗn loạn. Tôi tìm đến một  góc nhỏ để tránh né phiền phức. Ở đây tôi thấy một người khá to lớn nằm trên một chiếc võng mắc vào những cái cột của tầu. Lại gần nhận ra đó là huynh trưởng Tô Phạm Liệu. Tôi không ngờ gặp nhau trong hoàn cảnh này.
         Tôi buồn nhớ lại những ngày xưa người anh từ chiến trường về thăm trường Quân Y, với binh phục nhảy dù oai hùng. Bây giờ, Tô Phạm Liệu vẫn mặc binh phục nhảy dù Việt Nam nhưng bẩn và nhầu nát. Chiếc mũ đỏ cũng không thấy đâu nữa. Anh Liệu không giống anh Liệu những ngày trước khi anh trở về từ những chiến thắng nữa. Tô Phạm Liệu nằm trên võng, anh vẫn tỉnh giấc nhưng mắt nhắm như để quên đi những hình ảnh nào đó. Anh Liệu hình như muốn ngủ triền miên. Nhưng làm sao mà ngủ được? Rồi cũng có lúc Tô Phạm Liệu mở mắt ra. Anh kể lại những lúc cuối cùng, những giây phút cay đắng nhất trong cuộc đời khi đơn vị tan hàng. Mắt của anh long lanh khi nói đến gia đình, chị và các cháu, anh không kịp đón đi.
          Tô Phạm Liệu nói rất ít. Tôi cũng chẳng nói nhiều. Đau khổ đã làm tê liệt cả con người.
          Nhưng thật ra còn có gì khác để đáng nói đến nữa đâu?
          Anh em nhìn nhau thẫn thờ! Bàng hoàng! Sững sờ! Giọt lệ nào đó hình như vòng quanh khóe mắt làm mờ mắt của cả hai chúng tôi!
            Ngày hôm sau, tôi trở lại chỗ cũ không thấy anh đâu cả. Chiếc võng cũng biến mất. Tôi để ý tìm mà không gặp. Tô Phạm Liệu chắc cũng chả muốn gặp lại ai nữa. Chính bản thân tôi cũng không muốn thấy người quen nào nữa.
          Những ngày đầu tiên đến đất Mỹ là những lúc vật lộn với cuộc đời mới cũng như các bạn bè khác trong giới Y Khoa để tìm đường trở về nghề cũ. Và cũng như đa số bạn bè Y khoa, cuối cùng tôi cũng trở lại được với nghiệp Y.
          Thỉnh thoảng tôi được nghe bạn bè nhắc nhở đến anh Tô Phạm Liệu. Tôi biết anh đã quay lại hành nghề ở một nhà thương điên (state hospital) nào đó ở Kansas. Tôi được biết, cũng qua bạn bè kể lại, anh uống rượu nhiều, rất nhiều. Tôi muốn nhưng chưa có dịp liên lạc.
          Năm 1989, tôi đi dự cuộc họp Hội Y Sĩ Quốc Tế Việt Nam Tự Do ở  một khách sạn lớn ở Little Saigon, California. Đang đi vớ vẩn trong khách sạn thì có tiếng gọi tên. Tôi nhìn ra thấy huynh trưởng Tô Phạm Liệu. Anh em gặp nhau mừng ứa nước mắt.
          Anh dẫn tôi vào ngồi ở một quầy rượu. Anh Liệu uống rượu mạnh liên miên. Tô Phạm Liệu lần này nói chuyện nhiều hơn, nói khá nhiều. Có khi là người nói, có khi là “rượu nói”. Anh nhìn tôi và nhắc nhớ đến Đoàn Trung Bửu (Biệt Động Quân, chết trên đường ra đơn vị 1975), Vũ Đức Giang (Thủy Quân Lục Chiến, tự tử chết trong trại học tập 1976)... Đó là những bạn cùng lớp khóa 21 Quân Y của tôi, những đàn em của Đại Đội Tân Sinh Viên Quân Y 19 năm trước của anh, đã hy sinh trong những ngày vừa qua.
          Anh Tô Phạm Liệu bây giờ ốm hơn trước. Anh Liệu cho biết là anh đang bị bệnh Tiểu Đường (Diabetes Mellitus). Nhưng anh vẫn uống rượu liên miên. Anh cho biết “có lẽ” đã bị chứng Đau Thần Kinh Ngoại Biên Tiểu Đường (Diabetic Peripheral Neuropathy). Tô Phạm Liệu bảo những cơn đau rất gần nhau và khá nặng. Nhưng anh vẫn không uống thuốc giảm đau. Tôi hiểu anh muốn có một nỗi đau thể xác  để quên cái niềm đau tinh thần.
          Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người “mặc quần mới áo đẹp” và “ăn to nói lớn”, thích “nhảy đầm” và “xếp hàng để lên hát”... Trong cơn say,  anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được “ở lại Charlie” với Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, với các bạn nhảy dù thì “sướng hơn nhiều.”
          Tô Phạm Liệu nói “chỉ thích uống rượu” và “không muốn làm gì nữa cả.”
          Tôi không uống được nhiều rượu nhưng cũng uống  hai ba ly rượu để làm vừa lòng anh. Tôi chú ý nghe  anh nói. Anh nói chuyện vẫn hay, vẫn hấp dẫn. Mười chín năm trước đó, khi anh đang huấn luyện tân sinh viên quân y, mỗi lần nghe anh nói chuyện tôi hầu như thấy anh nói đều có lý cả. Lúc này thì khác. Có nhiều chỗ tôi thấy anh nói đúng. Có nhiều lúc tôi nghĩ là anh nghĩ sai. Nhiều lúc là “rượu nói” chứ không phải anh nói nữa. Nhưng tôi hiểu Tô Phạm Liệu nhiều.
          Giữa bữa tiệc rượu của hai anh em, sau 14 năm mới gặp gỡ, Tô Phạm Liệu làm tôi ngạc nhiên khi nói là muốn đọc thơ cho tôi nghe. Anh nói là anh chả có thích thơ và cũng chả nhớ bài thơ nào, nhưng chỉ thích và nhớ  một đoạn trong bài thơ “Nhớ Rừng” của Thế Lữ:
           “...Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
           Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
          Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
          Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hát núi
          Với khi thét khúc trường ca dữ dội
          Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
          Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
          Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
          Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
          Là khiến mọi vật đều im hơi
          Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
          Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi
           Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
           Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
           Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
           Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới...”
          Tôi hiểu Tô Phạm Liệu nhiều hơn. Tôi vẫn kính trọng anh. Tôi vẫn thương mến anh như những ngày xưa, và có thể là hơn những ngày xưa nữa.
          Nhưng vẫn có những điểm tôi không đồng ý với anh Liệu.
          Lần gặp gỡ đó là lần sau cùng tôi gặp người anh lớn của khóa tân sinh viên sĩ quan quân y ngày nào của chúng tôi.
          Sau này tôi được biết anh đã dọn về ở tiểu bang Lousiana và làm việc ở một nhà thương nào đó.
          Và đến bây giờ huynh trưởng Tô Phạm Liệu đã vĩnh viễn ra đi.
          Tờ cáo phó của tờ báo Người Việt trên tay tôi trở thành mờ nhạt:
          “ Vô cùng thương tiếc bạn chúng ta, Tô Phạm Liệu (1941-1997) Y Sĩ Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù... đã không còn với chúng ta kể từ 29 tháng 9 năm 1997...một lòng binh chủng Nhảy Dù. Cầu Anh Linh bạn quên phiền hà, coi như trở lại Charlie...”.
          Tôi nhìn qua khung cửa sổ.
          Xa xa trên bầu trời trong xanh, gần những đám mây trắng ở trên thật cao, hình như mờ ảo có một cánh dù nhỏ bé...

          Anh Liệu đang trở lại Charlie...
          Anh trở lại! Anh đi tìm lại Nguyễn Đình Bảo và những anh em nhảy dù khác, những đồng đội đã “ở lại Charlie”.
         
          Tô Phạm Liệu: Người Trở Lại Charlie.

QYHD Phạm Anh Dũng
Santa Maria, California, USA

No comments:

Post a Comment