Mũ Đỏ Trương văn Út, danh hiệu truyền tin Út Bạch Lan.
LTS: Cựu Đại Úy Trương văn Út, cựu SVSQ Khoá 22/TVBQGVN. Ông là ĐĐT Đại đội 5, Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù/ Lực Lượng Đặc Biệt.
Sau
ÐÐ5 Biệt Cách Nhẩy Dù cải tuyển thành Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù/SĐND,
được các cựu SVSQ/Khoá 22/TVB Quốc Gia VN gọi là “Lão Ngoan Đồng”. Ông vượt thoát khỏi trại tù CS (Long Giao). Mấy năm trời sống lanh quanh thành phố Saigon, trước khi vượt biên (1982) đến trại tị nạn Mã Lai. Ông hiện định cư tại Houston, Texas .
***
Tôi chỉ có một bà chị dâu duy nhất. Chị kết hôn với người anh thứ ba của chúng tôi nên tôi gọi là Chị Ba. Tên của chị là Trần Sâu Lầy. Nghe qua cái tên thì biết ngay Chị là người Việt gốc Hoa. Chị sinh quán ở xã Cây Dừa, Quận Cai Lậy, Mỹ Tho, xuất thân Sư Phạm Sài Gòn, làm cô giáo ngay tại nơi sinh trưởng của mình.
Anh của tôi là Trương văn Nhì (Khoá 15 Võ Bị Đà Lạt (VBĐL) phục vụ tại Trung Đoàn 12/ SĐ 7 Bộ Binh...
Theo
lời kể, gia đình ông sở ông sơ của chị, thuộc dòng dõi Minh Hương bên
Tàu, chạy tỵ nạn nhà Thanh sang lập nghiệp ở Cà Mau cùng thời với Mạc
Thiên Tứ, Mạc Cữu....Cho đến đời Ông Cố, ông Nội vẫn còn ôm giấc mộng
"Phản Thanh Phục Minh"...và đến đời thân phụ thì di chuyển về Cây Dừa,
tỉnh Cai Lậy và chị được sinh ra nơi đây...
-Năm 1975... Anh
của tôi đi tù caỉ tạo CS. Chị bị cho nghĩ việc vì vợ sĩ quan “Ngụy”...
Chị chuyển sang nghề may vá, tần tảo nuôi ba đứa con còn nhỏ dại.
Khi
tôi trốn ra khỏi trại tù CS ở Long Giao (1976), thỉnh thỏang lén lút
ghé thăm Chị. Chị lúc ấy gầy rọp thân thể, lưng còm xuống, già lão trông
giống như người đàn bà năm sáu mươi tuổi, mặc dù lúc ấy chị mới khoảng
26, 27 tuổi.
Ấy,
vậy mà cứ sáu tháng một lần Chị phải gánh hai bao bố thức ăn khô, thuốc
men, từ Sài Gòn ra đến trại Vỉnh Phú (miền Bắc) thăm nuôi Anh tôi trong
tù.
-Năm 1987... Mười hai năm sau, anh được thả ra. Chị đã chuẩn bị sẵn cho Anh để vượt biên bằng đường biển, qua sự trung gian của gia đình người Hoa mà chị thân thích. Không may, Anh lại bị bắt và bị giam ở Mõ Cày (Bến Tre) chịu đựng ba năm khổ sai...
Sau
đó, được tạm tha, trở về gia đình, sống trong bàn tay buôn tần bán tảo
của Chị. Vợ chồng đạm bạc bên nhau, cho đến ngày cả gia đình được sang
Mỹ với diện HO-5...
Ngày nay, gia đình anh chị tôi, đã ổn định. Con cái đã thành thân và thành nhân với một đàn cháu nội ngọai đề huề...Có lần tôi hỏi Chị
-Bí quyết nào giúp cho Chị vượt qua tất cả gian nan để có ngày nay?
Chị cười và nói:
-Có gì đâu! Chị có 9 đồng, chị cố kiếm thêm 1 đồng để đủ 10 đồng, rồi Chị dấu đi để phòng khi hữu sự. Còn tụi Em có 9 đồng, đi vay thêm một đồng để chén thù chén tạc với bạn bè. Tiền vất qua cửa sổ, chẳng bao giờ chạy ngược trở vào....
Đó là triết lý sống của người chị dâu gốc Hoa của tôi..
Năm 1979... Ngược giòng thời gian...
Tôi ghé thăm Chị, khi anh tôi còn đang ở trại tù ngoài Yên Bái. Tôi sống lang thang
không nhà không cửa, ngoài vòng pháp luật, vì đã trốn ra khỏi tù. Nhờ
chị giới thiệu tôi với một gia đình người Hoa trong Chợ Lớn và tôi có
việc làm “chui "...
Mỗi sáng lúc 5 giờ, đạp xe đạp đến chỗ hẹn, nhận 3 cây vải sa-ten đen, chở lên Cầu Tre ( Phú Lâm) giao cho người nhận là một xưởng nhuộm lậu. Sa-ten là một lọai lụa, dùng để may quần cho đàn bà.
Buổi
chiều lúc 3 giờ, trở lại nhận 3 cây sa-ten trắng đem về giao lại cho
Chủ. Cứ mỗi chuyến " giao hàng " như vậy, Chủ trả cho 25 đồng tiền mới
(tiền cụ Hồ - mỗi 500 đồng của VNCH đổi ra 1 đồng tiền Hồ).Thôi, cũng độ
nhật qua ngày...
Ông Chủ trạc 60 tuổi, Tôi gọi là chú Quảnh , người
Em của ông, là chú Xồi...Tôi không biết gia đình này có bao nhiêu
người, nhưng hai anh em họ sống chung với nhau trong căn phố ba tầng ở
đường Triệu Đà, Chợ Lớn. Căn phố cũ kỹ, đơn sơ, không một chút gì sang
trọng như những căn phố gần đó.
Một hôm sau khi giao hàng, như thường lệ Chú Xồi trả công cho tôi 25 đồng. Tôi cám ơn, vội vã đạp xe đạp, giông tuốt rồi ghé quán càphê . Tôi móc tiền đếm lại thì tới 50 đồng, chứ không phải 25 đồng...
Trong
hoàn cảnh khốn cùng này được đồng nào hay đồng nấy. Hớp vài ngụm cà
phê, Tôi chợt giật mình vì chợt nhớ lại lời chị dâu tôi dặn:
- Em
phải nhớ làm ăn với người Tàu, một cắc là một cắc , một đồng là một
đồng, ăn gian nói dối thì không bao giờ làm ăn với Họ được...Họ làm ăn
với nhau chỉ đơn giản với một chữ TÍN "...
Tôi bừng tỉnh, cong lưng đạp xe nước rút trở lại gặp Chú Xồi và trả lại 25 đồng mà Chú đã đưa dư...Chú cười và nhận lại tiền dư.
Tôi không biết chị dâu của tôi có nói gì với Họ về tôi hay không, nhưng một hôm, khi Tôi giao hàng, Chú Quảnh bảo Tôi:
-Nị dào chong dữa mặt , zồi za ăn cơm dới Ngộ há ..
Trong bữa cơm gồm cả hai gia đình...Họ xí xô xí xào. Tôi không hiểu họ nói với nhau điều gì. Khi từ giã ra về, Chú Quảnh đưa tôi ra cửa và Chú hỏi nhỏ:
-Nị có phải là sĩ quan “ngụy” chốn học tập không hả ???.. Đừng sợ... Ngộ biết hết dồi lớ...từ từ mình sẽ tính...
Tôi bàng hoàng rời nhà chú Quảnh với nỗi cực kỳ lo sợ. Ngày mai có nên trở lại nơi này không ???Không !!! chắc chắn là không...
Tôi chuyển hướng, thay vì đi thẳng đến bến xe An Đông tìm chỗ ngủ đêm như thông lệ, Tôi đạp xe qua bến Phạm Thế Hiển gặp chị tôi...
-Chị Ba! Chị có nói gì mà Họ biết Em là sĩ quan ngụy trốn trại cải tạo?
Với nụ cười hiền hậu Chị trả lời:
-Không có sao đâu, họ đang giúp Em đó...
Hai tuần sau, tôi có cái giấy Khai sinh giả mang tên Trần Chỉnh, sanh năm 1942...người Việt gốc Hoa ...
Tôi
(chỉ một mình tôi) cùng gia đình Họ , hơn 60 người gồm đàn ông, đàn bà
và trẻ con, rời bến ở kinh Miệt Thứ, Rạch Giá ra khơi trên chiếc ghe
đánh cá, ba block đầu bạc, đi tìm tự do.
***
Tàu ra khơi, nhưng không may, xế trưa ngày hôm sau bị gảy bánh lái cách đảo Phú Quốc chừng 10 cây số về hướng Đông. Tàu bỏ neo để thay bánh lái phụ. Một chiếc tàu đánh cá quốc doanh Phú Quốc xáp lại gần. Tất cả chúng tôi vội vàng chui xuống dưới khoang ghe, phía trên chỉ năm ba người giả bộ như đang đi đánh cá.
Tàu đánh cá VC không xáp lại gần, mà chỉ chạy chậm lại. Ngang ghe chúng tôi vài chục mét, chúngvẩy vẩy tay chào rồi tiếp tục hành trình về hướng Phú Quốc.
Tôi và Chú Quảnh bò lên phiá sau lái hỏi anh Lợi, người tài công có mười năm kinh nghiệm đánh cá. Anh nói với chút lo âu:
-Mình phải đi ngay, càng nhanh càng tốt, tôi đoán thế nào bọn chó đẻ đó cũng gọi Công an Biên Phòng...
15 phút sau ghe nhổ neo, vội vã lái về hướng Nam ... Nhưng quá trễ. Hai chiếc PCF duyên tốc đỉnh phất phới ngọn cờ máu phiá sau chúng tôi với hằng tràng đại liên chỉ thiên đe dọa. Thế là chúng tôi bị bắt. Ghe được kéo về đồn Công An Biên Phòng ở Cây Gáo, sau đó bị tống vào trại giam của Ty CA Hình Sự Cà Mau, nằm phía bên kia cầu sắt. Bên này là chợ Cà Mau .
Thời gian này là lúc phong trào vượt biên bán chính thức đang nở rộ công khai. Người Hoa từ thành phố xuống Cà Mau được ưu đãi như khách du lịch có passport (thông hành) chờ xuất ngọai. Ghe của gia đình Chú Quảnh là ghe vượt biên lậu, nhưng nhờ "thời điểm" này, mà cả gia đình trên ghe của Chú Quảnh được đối xử không đến nổi tệ. Bọn CA chỉ lo vơ vét vàng... 5 cây, 10 cây... tùy số lượng để giải quyết vấn đề.
Tôi không biết gia đình Chú Quảnh hay Chú Xồi “làm việc” với bọn chúng bằng cách nào, vì mỗi lần Chú Quảnh được gọi lên văn phòng của chúng, khi trở về phòng giam, anh em họ chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tàu.
Hai ngày sau đàn bà con nít được CA đưa ra bến xe đò cho xe chở về SàiGòn... Đàn ông bị giữ lại chờ xét xử sau ..
Trong thời gian chờ đợi, Chú Quảnh dặn Tôi:
-Nị
nhớ khai đúng tên tuổi trong khai sinh mà Ngộ đã đưa cho Nị ... Nị là
Em dợ của Ngộ, là Em duột của dợ Ngộ...Nhớ nói giọng lơ lớ...đừng nói
nhiều hớ ...."
Sau một tuần thẩm vấn từng cá nhân một 18 anh em "người Hoa chúng tôi" được ra ngòai lao động: vác lúa mang vào nhà máy xay, sau đó khiêng gạo xuống mấy ghe bầu đậu sẵn dưới sông bên cạnh Cầu Sắt.
Bao
nhiêu nỗi lo âu sợ hãi ban đầu dần dần vơi đi, Tôi bỏ hẳn ý định trốn
thoát, vì rằng trong trạng huống này Tôi nghĩ sớm hay muộn, không bao
lâu, chúng nó cũng thả chúng tôi ra.
Thêm vào đó tình cảm với anh em Chú Quảnh càng ngày càng khắn khít qua những liên hệ của những người tù cùng chung một trại giam "ngọt cùng chia, bùi cùng xẻ”. Họ đối với Tôi như chính anh em của họ.
Sau
hơn ba tháng lao động chúng tôi được cấp giấy "tạm tha trở về nguyên
quán "...Điều này đối với tôi, tôi nghĩ như đang nằm mơ, vì mang tội
vượt biên thì ít nhất ba năm lao động ở các trại tù cải tạo của miền
Tây. Tôi tò mò hỏi Chú Xồi, Chú chỉ trả lời, bằng gịong người Tàu nói tiếng Việt.
-Mấy Bả dề trước, mấy Bả lo cho tụi mình...
Về đến xa cảng miền Tây, chúng tôi chia tay, Chú Quảnh lại dặn dò:
-Nị nghỉ ngơi vài ngày rồi trở lại gặp chúng tôi ..
Chú nhét vào túi quần tôi 50 đồng. Tôi quay lưng, niềm suy nghĩ bay cao..
Trở về nguyên quán? Nguyên quán của tôi ở đâu? Mấy năm nay, nhà của tôi là đầu đường xó chợ, là ga xe lửa,
bến xe đò! Nhớ vợ con lắm thì nhắn chị Ánh (vợ Hùng Móm), chị Hồng Tố
Yến (vợ TTC), chị Thu (vợ NTN) rồi kiếm cách lén lút gặp vợ con vài ba
tiếng đồng hồ, khi những người thân yêu này giả vờ đi chơi lang thang
trong Sở Thú...
Một tuần sau, tôi mon men
trở ra Chợ Lớn tìm Chú Quảnh. Đứa con gái Chú Xồi chỉ ra quán cà phê
góc đường Triệu Đà - Hùng Vương. Nơi đây tôi gặp lại họ.
Chú Quảnh vừa thấy tôi, Chú mừng lắm. Chú chạy ra, nắm tay tôi kéo đi một khoảng khá xa và nói:
-Nị đi ngay đi ... đừng vào trong đó... Ngày mai lúc 6 giờ chiều gặp ngộ ở nhà hàng Soái Kinh Lâm..Nị biết chớ?
Tôi im lặng gật đầu, trở lại lấy xe đạp, cứ đạp miết. Vô ngã hẻm này, ra ngã hẻm khác, len lỏi vào giòng xe đạp trên các lộ chính, rồi bất ngờ quẹo vào một con hẻm nào đó, mục đích “cắt đuôi” nếu bị theo dõi.
Tôi tin tưởng nơi gia đình chú Quảnh. Tôi
chỉ còn một nơi bám víu chỉ với chút hy vọng mong manh là chỉ có gia
đình Chú mới có thể giúp tôi thoát khỏi nơi này để đến bến bờ Tự Do.
Nhưng nay, qua sự gặp gỡ vừa rồi, Tôi hiểu gia đình của Chú cũng đang bị theo dõi gắt gao.
* * *
Sau bốn năm “giải phóng”, nhà hàng Soái Kinh Lâm vẫn sang trọng huy hoàng rực rỡ như ngày nào.Tôi bước vào, lòng mang bao nhiêu nỗi ngậm ngùi, nhớ lại những tháng ngày của một thời oanh liệt. Tôi ngồi vào chiếc ghế bên cạnh Chú Xồi, đảo mắt qua một vòng. Tôi yên tâm vì không có người lạ. Hầu hết là những người cùng Tôi vác lúa khổ cực ở Cà Mau khi bị giam về tội vượt biên...
Chú Xồi hỏi Tôi:
-Nị còn nhớ Chú Xường ngồi bên kia bàn hay không?
-Dạ nhớ.
-Ai ngồi kế bên?.
-Dạ, chú Chảnh...
-Nị ráng nhớ cho kỹ, một chút nữa qua đó ngồi nói chuyện với tụi nó và tụi nó nói cái gì thì nị cứ làm theo cái đó. Mấy thằng chó chết VC đang đánh
tư sản mại bản. Tụi nó đóng cửa ba cái hãng nhuộm vải ở Cầu Tre, tịch
biên tất cả vải vóc chúng tôi đang có, và có thể sẽ tịch biên nhà cửa và
đưa chúng tôi lên vùng kinh tế mới, không biết ở đâu...Cho nên chúng tôi không còn giúp cho Nị được gì nữa ...Đây làHộp trà Sâm, anh Chảnh biếu cho nị, có vậy thôi... Nhớ giữ hộp trà này bên mình.. Bây giờ qua nói chuyện với Xường và Chảnh.
Chú Quảnh từ một bàn khác liếc nhìn tôi mỉm cười. Buổi tiệc hôm nay là ngày sinh nhật thứ 16 congái Út của Chú Quảnh. Tôi nắm lấy bàn tay chú Xồi siết thật chặt và thật lâu, trước khi chỉ biết nói hai chữ cám ơn rồì bước sang bàn chú Xường....
Xường và Chảnh chỉ lớn hơn tôi năm hoặc bảy tuổi, nhưng tôi vẫn gọi bằng Chú. Thời gian ở tù Cà Mau, trong cái láng dơ bẩn, ba chúng tôi cùng nằm một chiếc chiếu rách tả tơi .. Khi
ngã lưng xuống chiếu Tôi thường hay kể chuyện Thủy Hử cho Họ nghe trước
khi thiếp ngủ mỏi mệt sau một ngày vác lúa, vác gạo nhừ người.
Một cái ghế đã sắp sẵn cho tôi giữa Xường và Chảnh...Xường đi ngay vào đề:
-Anh có biết nhà hàng Thanh Thế ở chợ Bến Thành không ? ...
-Dạ biết..
-Nhớ kỹ lời tôi dặn đây. Hôm nay là ngày Thứ Bảy. Sáng ngày Thứ Hai tới, anh gặp Tôi và Chảnh ở Thanh Thế. Cứ đến đó vào lúc khỏang 10 giờ nhởn nha uống cà phê, nhớ ăn mặc xuề xòa, râu tóc để nguyên đừng cạo đừng hớt... Đêm nay nhớ mở Hộp trà Sâm, mà anh Quảnh biếu cho Anh nhâm nhicho đỡ buồn.
Tôi đứng dậy, nhìn một lượt chung quanh nhẹ cuối đầu như một sự từ giã không lời, lặng lẽ ra về với bao nỗi bâng khuâng trong lòng. Vui buồn lẫn lộn...cùng với nhiêu thắc mắc. Họ là Ai? Tài phiệt Chợ Lớn cỡ như Mã Tuyên hay Mã Sái chăng, hay thành viên của Triều Châu Phúc Kiến, hay thuộc xã hội Đen của Tàu Cộng, Đài Loan, Hồng Kông? Mặc kệ! Nghĩ chi cho mệt óc miễn sao mình còn thong dong đạp xe đạp tự do ngày nào hay ngày đó, dưới đường phố mưa sa mà không cần nhìn đến cờ đỏ sao vàng..
Đêm đó tôi mở Hộp trà Sâm...10 lượng Vàng Kim Thành thứ thiệt nằm trong đó, tôi chợt nhớ lời Chú Xường dặn "Thứ hai gặp Tôi ở nhà hàng Thanh Thế..."
Tôi ngủ một giấc ngủ chập chờn trên một căn gác cho thuê đầy chuột và dán ở bến xe An Đông.
***
Lúc
còn tại ngũ, khi đơn vị dưỡng quân ở hậu cứ Tôi thường cùng bạn bè la
cà....sáng thì đi uống cà phê có pha chút bơ Bretain ở nhà hàng Thanh
Thế cách phía Tây chợ Bến Thành độ trăm thước, buổi trưa đi ăn Chateau
Brillant ở tiệm Thanh Bạch, rồi Brodard. Ban đêm, đi vũ trường Văn Cảnh,
hoặc Thanh Thanh ở xa lộ. Trong nhóm thường có Mỹ Hôi, Hùng Móm, Hùng
Mập, Dũng Tây Lai , Cao-P-Minh, Xuân Đờn Cò, Ninh mắt Trừu...một hoặc
hai thằng chia nhau một chầu. Chỉ một ngày rong chơi cũng vơi đi gần nửa
tháng lương, để khi trở về nhà ngồi vào bàn ăn với vợ con, chỉ có một đĩa rau muống luộc và hộp thịt ba-lác!
Theo lời dặn của chú Xường, Tôi đến nhà hành Thanh Thế khỏang 10 giờ. Giờ
này, chỉ lác đác năm ba khách đến uống cà phê ...Tôi tìm cái bàn trong
góc có thể nhìn xuyên qua cửa kính để quan sát cả trong lẫn ngoài. Nhâm nhi ly cà phê với mùi vị bơ Bretain, hút hết điếu Samit thứ hai thì Xường và Chảnh cũng vừa đến. Họ vẫn tíu ta tíu tít xí xô xí xào như mọi khi. Tôi đứng dậy chào, Xường vội vàng ấn vai tôi...
-Ngồi xuống! Ngồi xuống...
Câu chuyện thật ra rất dài, Tôi tóm gọn những gì đã xảy ra trong phạm vi bài viết này...
Chú Xường mở lời :
-Đêm qua Anh uống trà Sâm có ngon không? .
Tôi gật đầu .
-Anh có mang hộp trà theo không
-Dạ có ...
-Anh đưa cho Tôi ...
Tôi chỉ lẳng lặng làm theo và chỉ im lặng ngồi nghe .
Tôi lần mở cái túi vải ăn mày
móc 10 cây được gói cẩn thận đêm qua trong cái quần xì-líp dơ bẩn vàng
úa, giao cho chú Chảnh. Chú Xường đưa cho Tôi một túi giấy trong đó có
bốn cái bánh tiêu còn nóng hổi...
-Thời giá hiện nay, một cây là 2,850 đồng (tiền già Hồ)...Chúng tôi lấy lại 10 cây này, trả lại Anh bốn cái bánh tiêu Anh có puồn không ?...
Nghe
Chú Xường phát âm cái tiếng "puồng” không. Tôi không “Puồng” chút nào,
nhưng cố nén nỗi kinh ngạc để không hiện lên ánh mắt của mình
-Dạ không...
Chú cười và nói tiếp:
-Ở dưới bốn cái bánh tiêu, là cái đai vải (nguời Bắc gọi là cái ruột tượng) có 30.000 ngàn tiền mặt trong đó. Anh nhớ ...lúc nào cũng cột thật chặt vào bên hông của Anh, chờ chút nữa sẽ có một người nữa đến gặp Anh. Anh ấy là anh em chú bác với tụi tui . Anh
Xế Phò sẽ cho Anh biết anh sẽ phải làm gì... Còn phần tôi (Chú Xường)
Anh phải nhớ kỹ những điều dặn dò của tôi sau đây: anh Quảnh bảo chúng
tôi gặp Anh để cho anh biết những gì anh Quảnh đã sắp đặt cho Anh . Anh có biết tại sao không?..
-Dạ không!
-Vì Anh đã trả lại 25 đồng cho anh Xồi, anh Xồi thử Anh đó, và đó cũng là lý do Anh Quảnh quyết định mang Anh theo trong chuyến vượt biên kỳ vừa rồi.
Anh Quảnh chỉ lo ...nếu Anh bị lộ tông tích thì chỉ có chết... Anh có biết Thương xá Tam Đa cũ hay không?
-Dạ biết.
-Bây giờ là cửa Hàng IMEX , bán những mặt hàng ngoại quốc mà chúng nó tịch thu của người Tàu chúng tôi ở Chợ Lớn...Thôi, uống cà phê đi...
Vừa lúc Chú Xế Phò bước vào. Chú
Xế Phò, người dong dỏng cao, dáng dấp không có vẽ Tàu chút nào. Chú nói
tiếng Quan Thoại, tiếng Pháp, tiếng Việt rất sành sõi rõ ràng.
Khi Chú Xường và Chảnh ra về, Xế Phò bắt đầu chất vấn:
-Anh tên Trần Chỉnh hả?
-Dạ vâng ...
Chú mỉm cười...cái mỉm cười gọi là cái mỉm cười biết hết chi tiết.
-Anh có nói và đọc viết tiếng Anh được không ?..
-Dạ chút chút...
-Được
tốt lắm ...Tôi đang là Trưởng phòng Quản Trị Công Ty Imex thương xá Tam
Đa cũ, theo lời yêu cầu của anh Quảnh, Thứ Hai tuần sau Anh bắt đầu làm
việc dưới quyền của Tôi làm chức Thủ kho.Chỉ có nhiệm mở và khóa cửa kho khi có lệnh xuất nhập hàng của Tôi. Anh phải ghi lại mặt hàng nào được xuất trong ngày. Khỏang
10 giờ, giả bộ ra bên ngoài uống cà phê và giao danh sách đó cho Chú
Chảnh. Ban đêm Anh ngủ lại cơ quan cùng với ba nhân viên khác, họ là
những công nhân viên từ ngoài Bắc vào. Cứ như vậy đi, dần dần quen và
biết hết mọi việc Anh sẽ có nhiều việc quan trọng hơn... .
Trước
khi chia tay, Chú Phò đưa cho Tôi một Giấy Chứng Nhận: "Trần Chỉnh"
nhân viên Cửa Hàng Imex, phía dưới đóng dấu ký tên Trưởng Phòng Thương
Nghiệp Quận Nhất TP HCM , cùng một giấy nhỏ có ghi "Lý Kim Anh "Trưởng
phòng Công An Chợ Bến Thành”.
***
Tôi đạp xe đạp loanh quanh với một tâm trạng lộn xộn xà ngầu ...Hung hay Kiết?...Ngạc
nhiên, lo âu lẫn lộn....nhưng không có nỗi lo sợ như khi Chú Quảnh hỏi
“Có phải Anh là sĩ quan ngụy trốn học tập hay không”.
Tôi như người đang chới với giữa dòng sông, vớ được gì cứ vớ, không cần biết cái đó lành hay dữ.Đã leo lên lưng cọp, đã phóng lao thì phải theo lao ... không còn sự chọn lựa nào khác .
Giám đốc Imex là một tên "Cán Ngố". Cả ban Quản Trị của hắn ngơ ngơ ngáo ngáo, cộng trừ nhân chia sổ sách cứ lộn tùng phèo, lại thêm lòng tham lam ăn được
cái gì là ăn cái đó. Tôi làm việc với họ chỉ có nhiệm vụ khóa và mở
khóa kho chứa hàng hóa theo lệnh Chú Phò, sau đó ra ngoài gặp Chú Chảnh.
Lúc này Tôi chỉ có một niềm vui sướng vô ngần là có một việc làm và một
chỗ ở an toàn, không lo sợ bị phát hiện và bị bắt bất cứ lúc nào. Cũng
trong lúc này Tôi đã áp dụng "Nghệ thuật Lãnh Đạo Chỉ Huy" của trường Võ
Bị để chinh phục những nhân viên từ ngoài Bắc vào, một cách dễ dàng. Chú Phò hài lòng và mừng lắm.
Một hôm Chú rũ tôi đi ăn tối. Trên chiếc Volwagen màu vàng củ kỹ Chú chở tôi một vòng chợ Bến Thành và trực chỉ bến Bạch Đằng. Một buổi cơm tối vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị trong đời tôi.
Trong nhà hàng nỗi Mỹ Cảnh...ba người đã ngồi sẵn. Tên Giám Đốc Imex Nguyễn Tạo, với cái mặt chành bạnh nhưng không che dấu được vẽ ngu si đần độn tham lam trên gương mặt của hắn. Tên Trung Úy Lý Kim Anh Trưởng Phòng Công An Chợ Bến Thành, Đặng Tư,Trưởng Phòng Tài Chánh Imex.
Trên bàn, chai Remy Martell vơi hơn phân nữa. Tôi khúm núm bước theo sau Chú Phò , chấp tay cuối đầu chào họ. Ngồi vào bàn Tôi cố giữ thái độ bình tỉnh, chỉ lắng
nghe họ bàn luận việc của họ cùng với những suy nghĩ mông lung. Quả
thật chú Quảnh và gia đình của Chú đã giúp Tôi quá nhiều, ơn sâu nghĩa
nặng này bao nhiêu kiếp người tôi có thể báo đáp được .
Sau buổi cơm gọi là thân mật đó, tôi có thêm vài việc phải làm theo chỉ thị của Chú Phò.
Một
buổi sáng khi Tôi giao danh sách hàng xuất kho cho chú Chảnh, hôm nay
lại có mặt Chú Xường, Chú Xường bảo Tôi giao lại số tiền mặt tôi đang
giữ. Chú Xường giao lại cho tôi một danh sách giá cả mua vô bán ra trong
ngày ở thị trường Chợ Lớn. Tôi chỉ biết làm theo Có thắc mắc thì cũng chẳng ích lợi gì, vì tin rằng họ đang giúp mình qua cơn hoạn nạn.
Thời gian năm 1979, 1980, 1981... Thân nhân nước ngoài gửi tiền về giúp gia đình không gửi được trực tiếp như bây giờ mà dưới hình thức là "Phiếu Imex”.
Hàng Imex là hàng thứ thiệt, được tịch thu sau chiến dịch đánh Tư Sản Mại Bản ...Nào là thuốc tây, radio, cassette, căm, sên, phụ tùng xe đạp...
Cả trăm mặt hàng khác, đều là hàng ngoại. Giới tiêu thụ hầu hết là con buôn từ Hà Nội, giá nào họ cũng mua, họ mua theo cái NGU của họ. Còn những người buôn bán phiếu Imex cò con thì đều qua taymã thầu dậu là Chú Xường...Làm giá thì Chú Quảnh trong Chợ Lớn Khi Chú Quảnh cho biết giá cả sáng trưa chiều tối , thì
Chú Phò cho lệnh xuất kho, bên cạnh có Tôi và Chú Chảnh đang chờ bên
ngoài. Có gì trục trặc thì có Giám Đốc và tên Trung Úy Công An Lý Kim Anh.
Dù rằng tình hình an ninh có vẻ khả quan, nhưng nỗi lo âu vẫn canh cánh trong tôi. Không biết bị phát hiện giờ nào và nếu bị chúng bắt thì sẽ ra sao. Cứ vài hôm chú Xường gặp tôi nhét vào túi Tôi một hai ngàn (tương đương 1 cây vàng).Chú nói đó là tiền lời từ 30.000 đồng "hùn vốn" của Tôi. Tôi
nhờ Niên Trưởng Huỳnh Bá Long Khóa 21 Võ Bị Đà Lạt, gửi về giúp vợ con
và Cha Mẹ Chị Em Tôi. ...Thôi cứ thế rồi thời gian cũng qua, dù chưa
được trở lại đời sống bình thường như mọi người dân khác và không gần gũi được vợ con.
***
Một ngày đẹp trời tháng Ba năm 1982... Tôi đang ngồi uống cà phê dọc vĩa hè trước cửa hàng Imex, một chiếc Honda hai người trờ tới. Một người xuống xe, vội vả nắm lấy tay và bảo Tôi:
-Niên Trưởng theo Tôi qua Chợ Cũ làm vài chai Henneckein.
Tôi
có một cảm giác lạnh băng chạy từ đốt xương sống cuối cùng lên đến đỉnh
đầu, nhưng định thần thì ra Nguyễn văn Định, (Khoá 24 Đà Lạt - TĐ 11
Nhảy Dù), đang chờ ngoài xe là Trần văn Hợp (Khoá 23 Võ Bị Đà Lạt)...
Chiếc Honda chở 3 người qua Chợ Cũ, làm đĩa cơm sườn, vài chai bia Con
Cọp. Hợp móc trong túi xách một tờ giấy, điền tên Trần Chỉnh, rồi chở
tôi ra bến Thủ Thiêm "TỐNG" xuống một chiếc ghe chở gạch cát của Công Ty
Dầu Khí Vũng Tàu...
Đêm đó Tôi lại ra khơi. Lần này là lần thứ bảy, không kịp một lời từ giã nào với Chú Phò, Chú Xường, Chú Chảnh, Chú Xồi, Chú Quảnh và vợ con gia đình.
Một
tháng sau, đang chờ đợi để rời khỏi Đảo Pulau Bidong, Mã Lai, sang trại
chuyển tiếp Galang II ở Nam Dương, Tôi nhận được thư của vợ tôi :
No comments:
Post a Comment